Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông cửu long...

Tài liệu đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông cửu long

.PDF
341
169
127

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN TP Hồ Chí Minh – 2013 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 62.22.32.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤN PHÁT TP Hồ Chí Minh – 2013 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................. 8 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu................................................................................ 10 3. Đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu..................................... 17 4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 19 5. Đóng góp của luận án....................................................................................... 20 6. Cấu trúc của luận án......................................................................................... 20 CHƯƠNG 1 TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG – CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẶC TRƯNG VÀ MỘT SỐ TIÊU CHÍ ĐỂ NHẬN DIỆN THỂ LOẠI 1.1. Cơ sở hình thành đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long ..................................................................................................... 22 1.1.1. Cơ sở lịch sử - xã hội.................................................................................. 23 1.1.2. Cơ sở văn hoá............................................................................................. 31 1.2. Một số tiêu chí nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long ..................................................................................................... 39 1.2.1. Cơ sở xác định các tiêu chí để nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian.......... 41 1.2.2. Một số tiêu chí để nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long............................................................................................. 50 Tiểu kết chương 1................................................................................................. 56 CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM TƯ LIỆU TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI 4 Tình hình tư liệu truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long ......... 59 2.1.1. Nhóm tư liệu sưu tầm văn học dân gian...................................................... 61 2.1.2. Nhóm tư liệu sưu khảo địa chỉ, sưu khảo lịch sử......................................... 74 2.1.3. Nhóm tư liệu nghiên cứu văn học, nghiên cứu lịch sử................................. 82 2.1.4. Nhóm tư liệu điền dã .................................................................................. 85 Phân loại truyền thuyết dân gian đồng vùng bằng sông Cửu Long.............. 87 2.2.1. Cơ sở phân loại .......................................................................................... 87 2.2.2. Phân loại.................................................................................................... 92 Tiểu kết chương 2................................................................................................. 94 2.1. 2.2. CHƯƠNG 3 ĐẶC TRƯNG CẤU TẠO TRUYỀN THUYẾT ĐỊA DANH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 3.1. Khái niệm cốt truyện và các yếu tố tự sự của thể loại truyền thuyết.................... 96 3.2. Đặc trưng cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh...................................................................................................... 99 3.2.1. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh liên quan đến những nhân vật tiền hiền có công khai phá, xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long............................................................................................. 100 3.2.2. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ... 110 3.2.3. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh liên quan đến nhân vật Nguyễn Ánh ............................................................................. 119 Tiểu kết chương 3................................................................................................. 135 CHƯƠNG 4 ĐẶC TRƯNG CẤU TẠO TRUYỀN THUYẾT NHÂN VẬT VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 4.1. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết về các 137 5 nhân vật tiền hiền có công khai phá, xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long... 4.2. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết về các nhân vật có công đấu tranh chống giặc ngoại xâm......................................................... 146 4.3. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết về các danh nhân văn hoá................................................................................................ 167 4.4. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết về các nhân vật tôn giáo .................................................................................................. 176 4.5. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết về các nhân vật tướng cướp ............................................................................................. 184 4.6. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết về các nhân vật làm tay sai cho thực dân Pháp………………………………… 191 Tiểu kết chương 4................................................................................................. 196 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 199 Những công trình của tác giả đã công bố .............................................................. 204 Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 205 PHỤ LỤC............................................................................................................ 222 Phụ lục 1: Truyền thuyết địa danh liên quan đến những nhân vật tiền hiền có công khai phá, xây dựng vùng ĐBSCL (TL1A) ................................. 222 Phụ lục 2: Truyền thuyết địa danh liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL (TL1B).................. 223 Phụ lục 3: Truyền thuyết địa danh liên quan đến nhân vật Nguyễn Ánh (TL1C) 224 Phụ lục 4: Truyền thuyết về các nhân vật tiền hiền có công khai phá, xây dựng vùng ĐBSCL (TL2A) ........................................................................ 226 Phụ lục 5: Truyền thuyết về các nhân vật có công đấu tranh chống giặc ngoại xâm (TL 2B)...................................................................................... 227 Phụ lục 6: Truyền thuyết về các danh nhân văn hoá (TL2C)............................... 232 Phụ lục 7: Truyền thuyết về các nhân vật tôn giáo (TL2D) ................................. 233 Phụ lục 8: Truyền thuyết về các nhân vật tướng cướp (TL2E) ............................ 234 6 Phụ lục 9: Truyền thuyết về các nhân vật làm tay sai cho thực dân Pháp (TL2F) .... 235 Phụ lục 10: Truyền thuyết về một số sản vật và phong tục ở vùng ĐBSCL (TL2G)......... 236 Phụ lục 11: Một số văn bản kể thuộc thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.......... 237 7 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. TÁC GIẢ LUẬN ÁN ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH 8 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Truyền thuyết là một thể loại tự sự dân gian có vị trí quan trọng trong nền văn học của mỗi dân tộc. Bởi vì “Truyền thuyết thường giữ lại những bằng chứng quý giá về chế độ xã hội, về các thể chế xã hội, tín ngưỡng, tâm lý xã hội và văn hóa vật chất của các thời đại đã qua”[237, tr.52] và “Truyền thuyết trong đời sống của mình không bao giờ tách rời các nghi thức thờ cúng thần thành hoàng làng cũng như với các tín ngưỡng phong tục, kỵ hèm cùng lễ hội dân gian”[86, tr.78]. Như vậy, nghiên cứu về truyền thuyết cũng chính là nghiên cứu về lịch sử, văn hóa của dân tộc, quốc gia. Đây là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa vì sẽ góp phần khẳng định bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, không để cho mỗi dân tộc phải khoác lên mình “bộ đồng phục văn hóa” trong hoàn cảnh thế giới đang toàn cầu hóa hiện nay. Xác định được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V khóa VIII đã nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Cần phải hết sức coi trọng, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống” [13, Tr.63]. Việc tìm hiểu đặc trưng của thể loại truyền thuyết đã được nhiều nhà nghiên cứu bàn đến và đã có nhiều ý kiến thống nhất về đặc trưng nội dung, đặc trưng nghệ thuật của thể loại này. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian ở các vùng miền khác nhau của Việt Nam vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Vấn đề nghiên cứu về đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian ở các vùng miền khác nhau của Việt Nam là cần thiết, bởi vì đây là một việc làm có ý nghĩa nhằm góp phần nhận thức rõ những đặc điểm mang tính địa phương trong sự thống nhất chung của thể loại. Thực tế đã cho thấy những đặc điểm của các thể loại văn học dân gian ở mỗi vùng miền (trong đó có truyền thuyết) thường bị chi phối bởi các yếu tố về lịch sử, văn hóa, xã hội của một “vùng văn hóa” cụ thể. 9 So với nhiều vùng văn hóa của Việt Nam, tiểu vùng văn hóa đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc vùng văn hóa Gia Định – Nam Bộ có những sắc thái văn hóa tiêu biểu mang tính đặc trưng. Mặc dù ĐBSCL được các nhà nghiên cứu về văn hóa, lịch sử xem là vùng đất mới – được hình thành trong khoảng gần 400 năm trở lại đây – nhưng nơi đây đã chứa đựng cả một kho tàng truyền thuyết dân gian phong phú với sự hiện diện của nhiều biến thể khác nhau, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mang đậm nét sắc thái địa phương. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về thể loại truyền thuyết ở vùng đất này chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm và tổng hợp các văn bản kể, khảo sát một vài bộ phận riêng lẻ. Việc phân loại và nghiên cứu về đặc trưng của hệ thống các tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL là chưa được đặt ra. Những vấn đề như: Truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL được hình thành trên những cơ sở lịch sử -xã hội, văn hóa nào? Hệ thống tác phẩm truyền thuyết có những đặc điểm gì đáng chú ý so với các tác phẩm truyền thuyết ở các vùng miền khác trong cả nước? v.v. dù đã được các nhà nghiên cứu folklore quan tâm và nghiên cứu nhưng chắc vẫn còn những khiếm khuyết cần phải bổ sung. Mặt khác, hiện nay trong chương trình giảng dạy Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, ở các trường cao đẳng, đại học đều có phần văn học dân gian địa phương. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phần văn học dân gian địa phương được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông, cao đẳng và đại học chính là hệ thống các tác phẩm văn học dân gian được ra đời và lưu hành tại địa phương, nơi mà trường phổ thông, cao đẳng hay đại học đang hiện diện tại đó. Nghiên cứu về thể loại truyền thuyết dân gian của người Việt ở vùng ĐBSCL nhằm góp phần xác định những đặc điểm của một thể loại tự sự có vị trí quan trọng trong hệ thống các thể loại văn học dân gian ở vùng đất mới phía Nam. Đây cũng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa đối với giảng viên, giáo viên, sinh viên và học sinh trong quá trình giảng dạy, học tập phần văn học địa phương tại các trường phổ thông, cao đẳng, đại học trong khu vực ĐBSCL. Với ý nghĩa đặc biệt cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn như đã nêu trên, chúng tôi thấy cần phải nghiên cứu thể loại truyền thuyết dân gian 10 vùng ĐBSCL trên một số các phương diện, từ cơ sở hình thành đến thực tế hiện tồn của thể loại và những đặc điểm mang tính đặc trưng của một thể loại mà theo Linda Dégh là: “Truyền thuyết đi cùng con người trong suốt cuộc đời. Trong một chuỗi, mỗi giai đoạn cuộc đời tạo ra những truyền thuyết của riêng nó: Các nhóm tự nhiên và thường xuyên (dựa vào quan hệ thân tộc, tuổi tác, giới hay dân tộc) và các nhóm tự nguyện và ngẫu nhiên (xã hội, tôn giáo, nghề nghiệp…) làm thành một mạng lưới các tương tác xã hội, trong đó truyền thuyết được trao đổi”[233, tr.323]. Vì thế, việc nghiên cứu về đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL là nhiệm vụ khoa học mà luận án của chúng tôi hướng tới. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Vì đề tài có liên quan đến vấn đề lý thuyết thể loại truyền thuyết nên ở phần này chúng tôi sẽ đề cập đến những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đặc trưng của thể loại truyền thuyết và những công trình nghiên cứu về thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. Những công trình sưu tầm về các tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL đã được công bố sẽ được chúng tôi trình bày chi tiết ở chương 2 (Đặc điểm tư liệu truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL). Vấn đề nghiên cứu thể loại truyền thuyết dân gian của người Việt đã được các nhà nghiên cứu Folklore quan tâm từ những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, ở giai đoạn này các công trình nghiên cứu chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc xác định ranh giới giữa thần thoại và truyền thuyết (Nhóm Lê Quý Đôn,1957, Lược thảo lịch sử Văn học Việt Nam; Nguyễn Đổng Chi, 1957, Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam). Vấn đề đặc trưng của thể loại truyền thuyết chưa được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu ở giai đoạn này. Phải đến những năm 70 của thế kỷ XX, các tác giả Tầm Vu, Phan Trần đã bắt đầu đưa ra một số luận điểm khoa học để phân biệt truyền thuyết với thần thoại. Tác giả Tầm Vu quan tâm đến hoàn cảnh ra đời của thể loại truyền thuyết và nội dung lịch sử của thể loại này: “Xã hội công xã nguyên thủy tan rã thì truyền thuyết trở nên thịnh hơn so với thần thoại. Truyền thuyết nặng về đề tài lịch sử hơn thần thoại” [86, tr.24]. Năm 1971, công trình “Truyền thống anh hùng trong loại hình tự 11 sự dân gian” gồm một số bài viết có giá trị khoa học về thể loại truyền thuyết. Trong tài liệu này công trình nghiên cứu: “Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến” của tác giả Kiều Thu Hoạch được xem như viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu truyền thuyết theo góc độ đặc trưng thể loại. Trong công trình này, tác giả Kiều Thu Hoạch đã đặt truyền thuyết trong sự đối sánh với thể loại thần thoại, cổ tích để từ đó chỉ ra đặc điểm mang tính đặc trưng của thể loại này: “Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân; biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ không nhằm phản ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận cá nhân mà thường phản ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc gia dân tộc rộng hơn, nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã hội trên cơ sở lịch sử cụ thể chứ không phải hoàn toàn trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng”[83, tr.172-175]. Ở đây, tác giả xem xét thể loại truyền thuyết ở cả hai lĩnh vực: Đặc trưng nội dung và đặc trưng nghệ thuật. Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tiếp tục khám phá thể loại truyền thuyết từ phương diện nghệ thuật, tác giả Bùi Quang Thanh đã chú ý nghiên cứu kết cấu của các truyền thuyết về nhân vật anh hùng với bài viết: “Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết anh hùng” (Tạp chí Văn học, số 3, 1981). Năm 1992, trên tạp chí Văn hóa Dân gian (Số 2, 1992) tác giả Chiêng Xom An có bài: “Bàn thêm về thể loại truyền thuyết”. Trong bài viết này, tác giả đã bàn luận và đưa ra một số tiêu chí để phân biệt ba thể loại thần thoại, truyền thuyết và cổ tích. Việc đưa ra một số tiêu chí trong bài viết này đã góp phần khẳng định vấn đề đặc trưng của thể loại truyền thuyết đã được tác giả thực sự quan tâm. Giáo trình Văn học Dân gian (1996) do tác giả Lê Chí Quế chủ biên đã dành hẳn một chương cho thể loại truyền thuyết. Trong chương này, tác giả đã quan tâm đến bản chất thể loại và vấn đề phân loại truyền thuyết dân gian Việt Nam, đồng 12 thời tác giả tiến hành khảo sát truyền thuyết trong tiến trình của lịch sử dân tộc, khái quát được 4 đặc trưng nghệ thuật của truyền thuyết dân gian. Về vấn đề bản chất thể loại của truyền thuyết, tác giả Lê Chí Quế cũng có những điểm thống nhất với một số các nhà nghiên cứu trước đây, đó là sự thừa nhận: “Nét riêng biệt của truyền thuyết là bên trong cái vỏ thần kỳ hàm chứa những yếu tố gắn với lịch sử dân tộc thời kỳ dựng nước và giữ nước”[203, tr.49]. Phần đặc trưng nghệ thuật, tác giả chú ý đến sự hư cấu, hoang đường, thời gian quá khứ - xác định, kết cấu trực tuyến và mối quan hệ của truyền thuyết với các chứng tích văn hóa. Cùng một mong muốn đề xuất được một số tiêu chí để nhận dạng truyền thuyết Việt Nam, tác giả Lã Duy Lan đã có bài viết “Nhận dạng truyền thuyết” trong phần mở đầu của tập “Truyền thuyết Việt Nam” (1997). Một tiêu chí quan trọng được tác giả Lã Duy Lan quan tâm trong việc nhận dạng truyền thuyết Việt Nam đó là nhân vật trong truyền thuyết phải là nhân vật có ảnh hưởng hoặc đóng góp cho quá trình phát triển của cộng đồng: “Truyền thuyết chính là những điều truyền tụng (bằng văn bản hay truyền miệng) về các nhân vật, các sự vật, các địa danh, các sự kiện liên quan đến lịch sử phát triển của một cộng đồng, và đồng thời cũng là đại diện, là tiêu biểu hay là thể hiện những giá trị (vật chất, tinh thần) của cộng đồng đó”[129, tr.6]. Năm 2000, trong luận án Tiến sĩ “Đặc trưng thể loại truyền thuyết và qúa trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam”, tác giả Trần Thị An đã xem xét, nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là một thể loại văn học dân gian trong sự đối sánh với các thể loại tự sự dân gian khác.Từ đó, tác giả xác định những đặc trưng của thể loại truyền thuyết ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Ngoài ra, trong luận án này, tác giả Trần Thị An còn tiến hành khảo sát, đánh giá việc văn bản hóa truyền thuyết dân gian trong sử và thần tích, trong văn xuôi trung đại và chỉ ra mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian truyền miệng với truyền thuyết dân gian đã được văn bản hóa. Tác giả Kiều Thu Hoạch đã đánh giá về luận án này như sau: “Công trình của Trần Thị An tuy chưa phải là công trình nghiên cứu toàn diện về truyền thuyết người Việt, do khuôn khổ một luận án, có những vấn đề còn bỏ ngỏ; 13 song đây thực sự là một công trình khoa học có tìm tòi, có đóng góp”[86, tr.27]. Những vấn đề lý luận về đặc trưng thể loại truyền thuyết được trình bày trong luận án của tác giả Trần Thị An là những tiền đề quan trọng giúp chúng tôi thực hiện việc khảo sát, phân tích, đánh giá về đặc trưng thể loại truyền thuyết ở một vùng miền cụ thể. Giáo trình Văn học Dân gian (2002) do tác giả Phạm Thu Yến làm chủ biên cũng có sự thống nhất với các tác giả đi trước về việc thừa nhận đặc trưng quan trọng nhất của truyền thuyết là sự gắn bó với lịch sử, lịch sử hóa mọi sự kiện có liên quan đến làng, đến nước, có tính khái quát một thời đại hoặc những biến động sâu sắc trong lịch sử dân tộc. Vào năm 2003, công trình nghiên cứu “Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại” của tác giả Hồ Quốc Hùng đã khẳng định truyền thuyết là một loại hình tự sự dân gian có những đặc trưng riêng so với các thể loại tự sự dân gian khác, đồng thời tác giả đã nêu lên 4 đặc điểm mang tính đặc trưng của thể loại này đó là: Vấn đề niềm tin, vấn đề cảm hứng sáng tác, vấn đề đề tài, vấn đề cấu tạo cốt truyện. Ngoài ra, tác giả của công trình này còn tiến hành khảo sát truyền thuyết thời Hùng Vương, thời Bắc Thuộc và các triều đại phong kiến tự chủ. Nhìn chung, đây là công trình vừa có tính kế thừa những đóng góp của công trình đi trước, vừa có những phát hiện mới về đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian. Năm 2004, nhóm biên soạn do tác giả Kiều Thu Hoạch chủ biên đã xuất bản Tổng tập Văn học Dân gian người Việt gồm 19 tập. Đây là công trình được tổ chức sưu tầm và biên soạn rất công phu các tác phẩm văn học dân gian của người Việt. Trong đó, tập 4 và tập 5 dành cho thể loại truyền thuyết. Trong hai tập sách này, các tác giả đã tổng hợp được 573 truyền thuyết dân gian ở các vùng miền trong cả nước. Có 7 truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL hiện diện ở tập 5 của bộ sách này. Trong tập 4, phần Khải luận, các tác giả đã nêu lên khái niệm truyền thuyết và vấn đề phân loại. Riêng đặc điểm nghệ thuật và đặc điểm tư tưởng thẩm mỹ của thể loại truyền thuyết được các tác giả khái quát dựa vào các văn bản kể thuộc tiểu loại truyền thuyết anh hùng chống ngoại xâm. 14 Nói chung, những công trình khoa học nghiên cứu về đặc trưng của thể loại truyền thuyết vừa nêu trên dù có nhiều cách khám phá và thể hiện khác nhau nhưng đều có một tiếng nói chung thống nhất khi bàn về vấn đề này. Những vấn đề lý luận cơ bản nói trên đã mở ra một triển vọng cho việc nghiên cứu đặc trưng của thể loại truyền thuyết ở các vùng miền cụ thể ở Việt Nam. Vào năm 1999, luận án tiến sĩ “Những đặc trưng cơ bản của truyện dân gian vùng Thuận Hóa” của tác giả Hồ Quốc Hùng đã quan tâm nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết, cổ tích, truyện trạng ở vùng Thuận Hóa. Khi nghiên cứu đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết, tác giả Hồ Quốc Hùng đã chú ý đến những đặc điểm cấu trúc và giá trị nội dung của thể loại truyền thuyết dân gian vùng Thuận Hóa ở 3 tiểu loại chính: Truyền thuyết địa danh, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết nhân vật và sự kiện lịch sử. Trong luận án này, tác giả đã đưa ra được những nhận định xác đáng về đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian ở Thuận Hóa: “So với những thể loại khác, truyền thuyết người Việt ở vùng Thuận Hóa vẫn tỏ ra còn dấu hiệu phát triển ở giai đoạn muộn và một số kiểu tưởng đã tàn lụi lại dường như được tái sinh với một sức sống mới, đầy sáng tạo. Thể loại này quy tụ vào mảng đề tài: Khẩn hoang, lập làng, đánh giặc giữ làng. Đây chính là nét đặc thù về tư tưởng thẩm mỹ của truyền thuyết ở vùng đất mới”[105, tr.102]. Vấn đề nghiên cứu về văn hóa dân gian Nam Bộ, truyện dân gian Nam Bộ cũng đã được một số tác giả quan tâm trong những năm gần đây. Trước hết phải kể đến chuyên luận “Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo” (2008) của tác giả Nguyễn Phương Thảo đã trình bày về những thành tố cơ bản để tạo thành văn hóa dân gian Nam Bộ. Đặc biệt, trong chuyên luận này tác giả đã dành một chuyên mục để nêu lên đặc trưng truyện dân gian người Việt ở Nam Bộ. Tuy nhiên, như tên gọi của chuyên luận này, tác giả không có nhu cầu nghiên cứu tìm hiểu riêng về thể loại truyền thuyết dân gian Nam Bộ. Vì vậy mà vấn đề đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vẫn là một điểm mờ chưa được xác định rõ trong chuyên luận này. Mặc dù vậy, những ý kiến của tác giả Phương Thảo trong chuyên luận này về đặc 15 trưng truyện dân gian người Việt ở Nam Bộ vẫn là những gợi ý cần thiết và có ý nghĩa đối với chúng tôi khi thực hiện luận án này. Ở một phạm vi nghiên cứu hẹp hơn, công trình nghiên cứu “Ý thức lịch sử và cảm hứng thế sự qua một số truyện và giai thoại địa danh Cần Thơ”(2008) của tác giả Trần Văn Nam đã quan tâm khám phá đặc điểm nội dung của một số truyện, giai thoại dân gian có liên quan đến một số địa danh ở Cần Thơ như: Cần Thơ, Cái Răng, Xà No, Bình Thủy, Đầu Sấu, Cái Da. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã khẳng định: “Tình yêu quê hương bao giờ cũng gắn với ý thức lịch sử. Không phải bất cứ sự kiện lịch sử nào cũng được móc nối vào truyện địa danh mà thường là những sự kiện có ảnh hưởng nhất định đối với nhân dân một địa phương hoặc cả nước” [181, tr.106]. Đây là một nhận định hoàn toàn phù hợp với đặc điểm nội dung của loại truyền thuyết địa danh nói chung. Nhận định này đã góp phần định hướng giúp chúng tôi trong quá trình khảo sát và lựa chọn các tư liệu truyền thuyết địa danh ở vùng ĐBSCL. Vấn đề quan tâm khám phá thể loại truyền thuyết ở một địa phương cụ thể trong khu vực ĐBSCL còn có luận văn thạc sĩ: “Truyền thuyết dân gian Đồng Tháp về nhân vật lịch sử và văn hóa” (2010) của tác giả Nguyễn Ngọc Quỳnh Hoa. Trong luận văn này, tác giả đã tiến hành sưu tầm và tập hợp những truyền thuyết, giai thoại dân gian về các nhân vật lịch sử và văn hóa ở tỉnh Đồng Tháp, đồng thời tìm hiểu về nội dung và thi pháp của truyền thuyết dân gian Đồng Tháp về các nhân vật lịch sử và văn hóa. Do giới hạn về phạm vi nghiên cứu, tác giả Nguyễn Ngọc Quỳnh Hoa chủ yếu chỉ nghiên cứu truyền thuyết dân gian về các nhân vật lịch sử, văn hóa ở tỉnh Đồng Tháp, tác giả không đề cập đến truyền thuyết nhân vật ở các tỉnh khác trong khu vực ĐBSCL. Cùng quan tâm nghiên cứu về truyền thuyết dân gian tỉnh Đồng Tháp còn có luận văn thạc sĩ: “Truyền thuyết về các vị có công khẩn hoang và lập làng ở vùng đất Đồng Tháp” (2011) của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa. Trong luận văn này, tác giả Kim Thoa chủ yếu chỉ tập trung nghiên cứu khảo sát các truyền thuyết kể về nhân vật lịch sử có công trong quá trình dựng làng, lập 16 ấp trên phạm vi tỉnh Đồng Tháp. Đóng góp của luận văn này là tác giả đã nêu ra một vài đặc điểm của bộ phận truyền thuyết về các nhân vật có công dựng làng, lập ấp ở tỉnh Đồng Tháp. Cho tới nay, công trình đáng kể nhất đóng góp vào việc nghiên cứu thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL là cuốn sách “Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ” của Võ Phúc Châu (2011). Trong đó, tác giả đã hệ thống hóa truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) và tiến hành khảo sát các nhóm truyền thuyết trong hệ thống này, khảo sát motif và một số chứng tích văn hóa liên quan đến truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ giai đoạn 1858 – 1918. Tuy nhiên, do mục tiêu nghiên cứu của bộ sách chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu, phân tích, hệ thống hóa truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ nên vấn đề đặc trưng thể loại truyền thuyết vùng ĐBSCL chưa được tác giả đề cập đến. Mặc dù công trình của Võ Phúc Châu chưa phải là công trình nghiên cứu toàn diện về thể loại truyền thuyết dân gian của người Việt ở Nam Bộ nói chung, vùng ĐBSCL nói riêng, nhưng đây thực sự là một công trình khoa học được nghiên cứu nghiêm túc, công phu, có sự tìm tòi và những phát hiện mới về một tiểu loại truyền thuyết có vị trí quan trọng trong kho tàng truyền thuyết dân gian Việt Nam – tiểu loại truyền thuyết về nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm. Trên đây là tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về thể loại truyền thuyết của các tác giả đã bắt đầu có xu hướng tìm hiểu những đặc điểm của hệ thống tác phẩm truyền thuyết dân gian ở một số địa phương hoặc vùng miền cụ thể. Tuy nhiên, vấn đề tìm hiểu về đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL tính đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải xác định được những cơ sở hình thành nên hệ thống truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL cũng như việc xác lập những tiêu chí để nhận diện các tác phẩm truyền thuyết dân gian, hệ thống hóa và phân loại các văn bản truyền thuyết dân gian để từ 17 đó phân tích và chỉ ra được đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. Đó chính là yêu cầu mà chúng tôi đặt ra trong luận án này. 3. Đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là truyền thuyết dân gian người Việt được hình thành và lưu truyền ở vùng ĐBSCL. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Luận án hướng tới những mục tiêu chính sau đây: - Xác định cơ sở hình thành đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. - Phân tích và đề xuất được những tiêu chí cơ bản để nhận diện các tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. - Xác lập được các loại, các tiểu loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. - Phân tích và xác định đặc trưng cấu tạo của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đáp ứng những mục tiêu trên, luận án đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ chính sau đây: 1/ Khảo sát các tư liệu lịch sử, văn hóa, tư liệu nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ nói chung, vùng ĐBSCL nói riêng, để từ đó xác định cơ sở hình thành đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. 2/ Bao quát và thẩm định các tư liệu, các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về văn học dân gian, văn hóa dân gian ở Việt Nam và một số nước trên thế giới về đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian nói chung, truyền thuyết dân gian của người Việt nói riêng để từ đó xây dựng được một số tiêu chí nhằm để nhận diện các tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. 3/ Dựa vào bộ tiêu chí, sưu tầm và tuyển chọn các văn bản kể từ các nguồn tư liệu hiện có, từ việc đi điền dã 13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSCL để từ đó xác lập được hệ thống các loại, các tiểu loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. 18 4/ Bằng việc khảo sát, phân tích và so sánh với một số truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Nam Trung Bộ, phân tích và xác định được những đặc điểm mang tính đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Do giới hạn khuôn khổ của một luận án nên trong luận án này, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu, khảo sát thể loại truyền thuyết dân gian của người Việt ở vùng ĐBSCL. Khái niệm truyền thuyết dân gian mà chúng tôi sử dụng trong luận án này là khái niệm dùng để chỉ một thể loại tự sự thuộc văn học dân gian Việt Nam truyền thống. Lâu nay, giới nghiên cứu folklore đã phân định hai khái niệm: Văn học dân gian truyền thống và văn học dân gian hiện đại. Văn học dân gian truyền thống được xác định từ khi bắt đầu đến năm 1945. Văn học dân gian sau năm 1945 được gọi chung là văn học dân gian hiện đại. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những truyền thuyết dân gian truyền thống của người Việt ở vùng ĐBSCL. Cụ thể là hệ thống các tác phẩm truyền thuyết dân gian chứa đựng những nội dung lịch sử, xã hội của vùng ĐBSCL thời kỳ trước năm 1945. Truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL bao gồm một hệ thống các loại, các tiểu loại khá đa dạng và phức tạp. Vì vậy, trong khuôn khổ của một luận án chúng tôi chủ yếu giới hạn sự nghiên cứu của mình ở việc khảo sát và xác định đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL dựa trên việc khảo sát và phân tích đặc trưng cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của hai loại truyền thuyết có số lượng văn bản lớn đó là: Truyền thuyết địa danh và truyền thuyết nhân vật. Riêng đặc trưng cấu tạo của loại truyền thuyết phong vật chúng tôi xin trở lại trong một công trình khác. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành Phương pháp liên ngành được sử dụng trong suốt quá trình thực hiện luận án. Cụ thể đó là cả quá trình sưu tầm, tập hợp và nghiên cứu các tài liệu về lịch sử, địa lý, dân tộc học, tôn giáo, văn hóa học, tâm lý học v.v. của các tác giả nghiên cứu về vùng ĐBSCL. Phương pháp này giúp cho chúng tôi có cơ sở khoa học để giải thích 19 về các đặc điểm, các quy luật biểu hiện, cơ sở hình thành và đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. 4.2. Phương pháp thống kê Thống kê các tư liệu lịch sử, văn hóa, các văn bản có chứa đựng các tác phẩm truyền thuyết dân gian ở vùng ĐBSCL và một số vùng miền khác như vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ để làm cứ liệu trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu. Từ đó xác định được hệ thống các tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL với các loại, các tiểu loại có số liệu cụ thể, rút ra những nhận định cần thiết về đặc điểm tư liệu, đặc điểm cấu tạo, đặc điểm motif, v.v. của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. 4.3. Phương pháp so sánh Phương pháp này được sử dụng trong việc so sánh các tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL với các tác phẩm truyền thuyết dân gian cùng loại, cùng tiểu loại ở một số vùng miền khác ở Việt Nam nhằm xác định những đặc điểm đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. Phương pháp so sánh còn được sử dụng trong việc so sánh những đặc điểm về lịch sử xã hội, văn hóa ở một số vùng miền khác nhau để từ đó xác định được những cơ sở hình thành nên hệ thống truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi nhận thức được tính độc đáo, tính thống nhất của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL so với thể loại truyền thuyết ở một số vùng miền khác trong cả nước. 4.4. Phương pháp sưu tầm điền dã Vận dụng phương pháp này, chúng tôi tổ chức các chuyến đi về 13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSCL trong 3 năm (2007, 2008, 2009) để ghi chép, ghi âm những câu chuyện kể của các vị bô lão, các nghệ nhân, các nhà sư về các địa danh hoặc về các nhân vật lịch sử có liên quan đến đề tài; tiến hành quay video các đền thờ, các lễ hội dân gian có liên quan đến các tác phẩm truyền thuyết dân gian được đề cập đến trong luận án. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi bổ sung thêm các văn bản kể thuộc thể loại truyền thuyết vốn chưa xuất hiện trong các công trình sưu tầm, sưu khảo trước đây. Mặt khác, phương pháp này sẽ góp phần bổ sung, 20 khẳng định cho những vấn đề lý luận về thể loại truyền thuyết nói chung đã được thiết lập từ trước. 5. Đóng góp của luận án Thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận án có những đóng góp cụ thể như sau: - Xác định được những cơ sở lịch sử - xã hội, cơ sở văn hóa góp phần hình thành nên những đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. - Xác lập được một số tiêu chí cơ bản để nhận diện và phân loại truyền thuyết dân gian nói chung, truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL nói riêng. - Tổng hợp và giới thiệu được bức tranh tổng quan và mô tả đặc điểm của các tài liệu sưu tầm, sưu khảo, các công trình nghiên cứu về thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. - Hệ thống và phân loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL (gồm 3 loại và 11 tiểu loại). Bổ sung vào kho tàng truyền thuyết Việt Nam 210 tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. - Là công trình đầu tiên tìm ra những đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL trong một chỉnh thể vừa đa dạng vừa thống nhất. Từ đó góp phần khẳng định giá trị, vị trí của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm có 4 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL – Cơ sở hình thành đặc trưng và một số tiêu chí để nhận diện thể loại. Nội dung của chương nghiên cứu và xác định cơ sở lịch sử - xã hội, cơ sở văn hóa là những tiền đề quan trọng góp phần tạo nên đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL; Xác định một số tiêu chí cơ bản để nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất