TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA KHXH & NV
Nguyễn Thị Thanh Nguyên
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Chính
ĐẶC ĐIỂM THƠ VĂN XUÔI
CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỒNG THÁP, NĂM 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục tiêu nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc khóa luận
Chương 1. NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ
THỂ THƠ VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ
1.1. Một cái nhìn chung về nền thơ Việt Nam sau đổi mới
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
1.1.2. Nền thơ Việt Nam sau đổi mới
1.2. Đôi nét về thể thức thơ văn xuôi
1.2.1. Khái niệm thơ văn xuôi
1.2.2. Một số đặc điểm của thơ văn xuôi
1.2.3. Sự phát triển của thơ văn xuôi ở Việt Nam sau đổi mới
1.3. Thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ
1.3.1. Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong thơ ca Việt Nam sau đổi mới
1.3.2. Hành trình thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn
Chương 2. NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG
THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN
2.1. Cảm hứng thế sự
2.1.1. Chiêm nghiệm, suy tư trong đời sống
2.1.2. Khát khao về tình yêu và hạnh phúc
2.1.3. Yếu tố tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc
2.2. Cảm hứng chính luận
2.2.1. Cuộc sống đô thị công nghiệp với những bất an
2.2.2. Tiếng kêu cứu cho những đổ vỡ của truyền thống văn hóa
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN
3.1. Kết cấu văn bản thơ
3.1.1. Kết cấu bên ngoài
3.1.2. Kết cấu bên trong
3.2. Ngôn ngữ thơ
3.2.1. Dung nạp ngôn ngữ đời thường
3.2.2. Tính tạo hình và tính biểu hiện trong ngôn ngữ thơ
3.2.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lí
3.3. Nhạc điệu
3.3.1. Thanh điệu
3.3.2. Nhịp điệu
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam trong tiến trình vận động đã không ngừng phát triển và đổi mới từ nội dung đến hình thức nghệ
thuật. Việc cho ra đời một hình thức nghệ thuật mới là một nhu cầu tất yếu. Nền văn học hiện đại có nhiều cách tân
như thế về mặt hình thức lẫn nội dung. Chúng ta biết đến lục bát đương đại một thể thơ được cách tân rất nhiều từ
lục bát truyền thống, thì thơ văn xuôi được xem là một biến thể mới về sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi. Cũng
giống như lục bát đương đại, việc xuất hiện thể thức thơ văn xuôi là nhu cầu tự thân của thời đại, nó giống như sự
xuất hiện những hình thái nghệ thuật khác trong dòng chảy của lịch sử phát triển nghệ thuật nói chung và văn học
nói riêng.
Tuy thơ văn xuôi ở Việt Nam xuất hiện muộn so với thế giới hơn một trăm năm và chỉ thực sự nở rộ trong những
thập niên gần đây nhưng vẫn khẳng định vị thế và hướng phát triển của riêng mình trong dòng chảy Văn học Việt
Nam. Sự xuất hiện thơ văn xuôi là một đặc trưng khá tiêu biểu của thơ hiện đại. Nó là sự cách tân điển hình về nghệ
thuật, những cảm xúc, tư tưởng, những dòng suy tư, trăn trở của chủ thể trữ tình không còn bị gò bó hạn hẹp như các
thể thơ truyền thống. Nghiên cứu về thơ văn xuôi, không chỉ để hiểu đặc trưng về phương diện cấu trúc thơ mà còn
gợi mở nhiều vấn đề về hình thức thơ và thời đại.
Trong số ít những tác giả thành công khi viết về thơ văn xuôi, bên cạnh những nhà thơ như Chế Lan Viên, Thanh
Thảo,… Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn được xem là hai cây bút có những cống hiến đáng kể về nội dung
và nghệ thuật góp phần định hình và phát triển vị thế của thơ văn xuôi trong nền văn học đương đại. Thơ văn xuôi
của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn, mang đậm hơi thở của thời đại, sắc thái đời thường, phản ánh triết lí lẫn
những suy tư trước cuộc sống mới muôn màu muôn vẻ. Nội dung được chuyển tải qua ngôn ngữ bình dị, đậm chất
đời thường cùng với sự bứt phá, tìm kiếm một hình thức thể hiện mới, ấn tượng, phong phú và đa dạng hơn.
Đến nay, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 7 tập thơ, 15 tập văn xuôi và 3 tập sách dịch. Tập thơ tuyển mới
nhất của ông, “Châu thổ” - Nxb Hội Nhà văn 2010 đang thu hút sự chú của dư luận và giới phê bình. Ngoài giải
thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1993, giải A cho tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, Nguyễn Quang Thiều còn nhận
được hơn 20 giải thưởng văn học khác trong và ngoài nước. Về phía Mai Văn Phấn, nhà thơ cũng đã xuất bản 10 tập
thơ, 1 tập trường ca và đạt nhiều giải thưởng giá trị như giải thưởng tuần báo Người Hà Nội (1994), tuần báo Văn
nghệ (1995), giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) liên tiếp từ các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và
gần đây là giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 cho tập thơ “Bầu trời không mái che”. Mai Văn Phấn còn
được giới phê bình, nghiên cứu đánh giá cao qua “Hội thảo thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn” được tổ chức tại
Hải Phòng năm 2011.
Với những thành công rất đáng được ghi nhận trên chúng tôi nhận thấy việc tìm hiểu và nghiên cứu về đặc điểm thơ
của hai nhà thơ này là một việc làm có ý nghĩa và cần thiết. Khóa luận này hướng đến việc đề cao cũng như công
nhận những đóng góp tiêu biểu của một lực lượng sáng tác góp phần hình thành, phát triển cũng như khẳng định vị
thế của thơ văn xuôi trong nền Văn học Việt Nam từ trước đến nay.
Ngoài ra, đề tài nghiên cứu này còn giúp chúng tôi có thêm một tri thức thực tiễn về thể loại có thể áp dụng vào quá
trình học tập và giảng dạy sau này. Bổ sung thêm một phần tài liệu học tập và nghiên cứu cho việc học tập của sinh
viên. Cùng với ý nghĩ hết sức thiết thực trên, qua việc nghiên cứu về đề tài này còn giúp chúng tôi có thêm kinh
nghiệm, có thêm một cách nhìn, một nếp nghĩ và làm việc khoa học hơn với những tác phẩm văn học đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những ý kiến xoay quanh về thể thơ văn xuôi
Trên thực tế, thơ văn xuôi đã khẳng định vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam qua quá trình hình thành và
phát triển lâu dài sau chặng đường gần một trăm năm cùng với lịch sử phát triển của dân tộc. Trải qua nhiều biến đổi
thăng trầm của thời đại, từ khi mới manh nha vào đầu thế kỉ XX cho đến lúc phát triển đỉnh cao vào khoảng những
năm 80 và để lại nhiều thành tựu nghệ thuật như ngày hôm nay, nhưng vẫn còn có những nhận định phủ nhận vị trí
và vai trò của thơ văn xuôi trong dòng chảy chung của nền văn học nước nhà. Thế nên, những công trình nghiên cứu
chuyên sâu, khoa học và mang tình quy mô về thơ văn xuôi vẫn còn rất ít. Hầu hết chỉ dừng lại ở những bài cảm
nhận, phê bình, giới thiệu chung về thơ văn xuôi hoặc một vài bài thơ văn xuôi cụ thể. Qua tìm hiểu, chúng tôi xin
điểm qua một số công trình chuyên sâu nghiên cứu về thơ văn xuôi như sau:
Từ năm 1997, nhóm tác giả Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện cho ra đời công trình “Tuyển tập thơ văn xuôi
(Việt Nam và nước ngoài)”. Công trình này gồm ba phần. Phần một tuyển chọn 161 bài thơ văn xuôi Việt Nam,
trong đó giai đoạn trước tháng Tám năm 1945 là 23 bài và giai đoạn sau tháng Tám năm 1945 đến nay gồm 138 bài
(theo quan điểm của người soạn sách). Phần hai tuyển chọn 65 bài thơ văn xuôi nước ngoài. Phần ba là tập hợp 19
bài viết của các tác giả trong và ngoài nước bàn về thơ văn xuôi hoặc những vấn đề liên quan đến thể thơ này. Tuy
đây chưa phải là một chuyên khảo nhưng nó được xem là công trình đầu tiên ở Việt Nam quan tâm tương đối toàn
diện đến thơ văn xuôi.
Qua 19 bài nghiên cứu trong tuyển tập, chúng tôi thấy những ý kiến về thơ văn xuôi nhìn chung mới chỉ dừng lại ở
nhận định, chưa có một đánh giá cụ thể mang tính khái quát. Có giá trị hơn cả là ba bài viết “Một vài ý kiến về thơ
văn xuôi” của Xuân Diệu, “Thơ văn xuôi” của Hà Minh Đức và “Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi” của
Nguyễn Ngọc Thiện.
Bài viết của Xuân Diệu đã đề cập đến khá nhiều vấn đề xung quanh thể thơ văn xuôi, đây là một công trình tìm tòi
mang tính lí luận về sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi nói chung và thơ văn xuôi Việt Nam nói riêng.
Theo tác giả “Có những bài “thơ” mà không chứa đựng một cảm xúc thơ, đó chỉ là những bài văn vần khô khan lạnh
lẽo; trái lại có những bài văn xuôi mà đầy thi vị, đầy rung cảm thơ, đọc vào như tưới thắm tâm hồn người, vừa có
hình tượng đẹp, vừa có âm thanh hay, lại có tiết tấu nhanh chậm của câu văn nữa. Khi những bài “văn xuôi có chất
thơ” ấy mang chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi về chất lượng, về tính chất thì hóa thành những bài thơ
bằng văn xuôi” [12; 611]. Ý kiến này có thể xem là quan niệm của Xuân Diệu về thơ văn xuôi. Ông cũng chỉ ra một
số đặc điểm của thơ văn xuôi như: về hình thức nó thường ngắn, không có vần, về nội dung nó cố gắng “rút lấy cái
tinh chất của sự vật, chú ý đến sự phản ánh, sự tác động của sự vật vào tâm hồn, trí tuệ con người thành cảm xúc,
tình cảm, tư tưởng” [12; 611]. So với các thể thơ cách luật và thơ tự do, thơ văn xuôi có thế mạnh là diễn đạt được
cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp, những hình ảnh, những ý thơ liên tiếp. Do đó, trong một câu thơ văn xuôi
có thể diễn tả được nhiều sự kiện, hình ảnh, cảm xúc bộn bề đan xen nhau.
Hà Minh Đức với bài viết “Thơ văn xuôi”, tác giả đã đi vào tìm hiểu ranh giới về hình thức giữa thơ và thơ văn
xuôi, văn xuôi và thơ văn xuôi trên các phương diện như: phương thức biểu hiện trữ tình, những hình ảnh so sánh và
vận dụng ngôn ngữ, hình ảnh và tứ thơ, cấu trúc câu thơ…Điều này thể hiện qua nhiều khía cạnh như “Tổng số tiết
tấu trong một nhịp thơ, số từ trong một câu và lối diễn đạt nội dung ý thơ” [12; 625]. Hay “Những câu thơ dài từ 11,
12 từ trở lên sẽ dần dần biến thành câu thơ văn xuôi và bài thơ bao gồm những câu thơ đó sẽ có xu hướng trở thành
thơ văn xuôi” [12; 627]. Theo ông, “thơ văn xuôi buộc người viết phải tuân theo những qui luật nghiêm khắc bên
trong của nó. Trước hết tác giả phải có cảm xúc của một thi nhân, nhà thơ phải tìm được sự hài hòa bên trong của
ngôn ngữ và nhịp điệu, sự hàm xúc của hình ảnh và lời thơ. Một bài thơ văn xuôi không phải là một bài văn xuôi
bình thường mà phải là một sáng tác giàu chất thơ. Ở đây cảm hứng thi ca tuy không biểu hiện ra ở những câu thơ,
nhưng người viết phải biết chọn lọc những hình thức phù hợp” [12; 627]. Có thể nói, Hà Minh Đức đã có cái nhìn
bao quát trên cả hai phương diện nội dung và hình thức của thể thơ văn xuôi cũng như các đặc điểm loại hình của
thơ văn xuôi trong quá trình lập luận nhằm phân định ranh giới giữa thơ văn xuôi với văn xuôi, giữa thơ văn xuôi và
thơ.
Trong bài viết “Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi” của tác giả Nguyễn Ngọc Thiện cho rằng, thơ văn xuôi
có những đặc điểm ưu việt hơn các thể thơ khác trong việc bộ lộ tình cảm vì thơ văn xuôi giúp người đọc tự do trong
cách gieo vần “một khi khuôn khổ thể thơ thường, quen thuộc, không đủ giúp người ta thực hiện sự tự phơi bày
mình như một bản thể tự do, khi đó người ta đi tìm một lối khác: đến với thơ tự do không vần hoặc thơ văn xuôi”
[12; 648]. Bên cạnh đó, điểm đáng chú ý nhất của bài viết là sự thể hiện quan niệm của hình thức thể loại, theo tác
giả thì: “Thơ văn xuôi ra đời, tôi nghĩ trước hết là đòi hỏi của một tư duy nghệ thuật mới, đi tìm một độ căng thẩm
mĩ mới dựa vào áp lực liên kết của các ý thơ, câu thơ xếp liền nhau theo một liên hệ cộng hưởng nước đôi: một mặt
vẫn tuân thủ trục dọc liên tưởng của thơ, mặt khác thu nạp sự diễn tiến theo trục ngang của câu văn xuôi” [12; 649]
Mã Giang Lân (1990), với bài viết “Xu hướng tự do hóa hình thức thơ” đã cho rằng: “Cấu trúc câu thơ văn xuôi gần
với cấu trúc câu văn xuôi. Cái khác là câu thơ mang đầy đủ những phẩm chất cơ bản của thơ: tính hình tượng, cách
điệu hóa, rung động, liên tưởng và vận dụng ngôn ngữ đều nằm trong quá trình chọn lọc, sáng tạo” [12; 643]. Theo
ông, sự “nới rộng”, “kéo dài” về hình thức câu thơ không phải là việc làm tùy tiện mà nhằm khái quát “những sự
kiện thời sự nóng hổi, những suy nghĩ cảm xúc ào ạt vào thơ. Có khi phải mô tả, phải ghi nhanh, ghi nhiều hình ảnh,
sự việc [12; 643]. Điểm hạn chế của Mã Giang Lân là ở chỗ ông vẫn chưa coi thơ văn xuôi là một thể thơ độc lập
với các đặc điểm riêng mà chỉ là “một nẻo đường phát triển của thơ tự do”. Do vậy, phần lớn những đặc điểm của
thơ văn xuôi mà ông bàn đến trong bài viết của mình cũng được ông coi là các “biến thể” của các đặc điểm thơ tự do
chứ không hoàn toàn là các đặc điểm “tự thân” của thể thơ đó.
Nguyễn Văn Hoa với bài viết “Mấy ý kiến nhỏ về thơ văn xuôi Việt Nam”, đăng trên tạp chí Sông Hương số 132,
tháng 2. Nhận định rằng “Thơ văn xuôi là phần giao nhau của hai vòng tròn Thơ và Văn xuôi. Phần giao nhau của
hai vòng tròn thể hiện hai đặc điểm ngang nhau của Thơ và Văn xuôi. Nếu vượt ra khỏi vùng giao nhau thì sẽ thành
Thơ có vần hoặc trở thành Văn xuôi” [11]. Nhìn chung, bài viết của Nguyễn Văn Hoa mới chỉ nêu lên một vài suy
nghĩ, cảm nhận của một người làm công tác nghiên cứu về một thể loại “đang hình thành” chứ chưa thật sự có
những kiến giải sâu sắc về đối tượng.
2.2. Những ý kiến đánh giá và nhận định về thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn.
Bên cạnh những bài viết, nghiên cứu và nhận định về thơ văn xuôi còn có những bài phê bình, phỏng vấn và giới
thiệu về hai nhà thơ có những đóng góp tiêu biểu cho thể loại thơ văn xuôi bằng những sáng tác không ngừng cách
tân về hình thức lẫn nội dung.
Với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là một hiện tượng thơ khá đặc biệt, mặc dù có nhiều ý kiến khen chê trái chiều
xung quanh hiện tượng thơ của ông, nhưng hầu hết những bài viết ấy chỉ dừng lại ở mức tản mạn, những bài bút
chiến trên phương tiện Internet và một số tạp chí.
Công trình đầu tiên có đề cập đến thơ Nguyễn Quang Thiều mà chúng tôi xin phép được nói đến ở đây là bài viết
“Thơ – phản thơ” của Trần Mạnh Hảo. Ở công trình này, nhà phê bình Trần Mạnh Hảo tiến hành điểm diện một số
gương mặt có xu hướng cách tân thơ ca như: Lê Đạt, Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng… Riêng về Nguyễn Quang
Thiều, trong bài viết “Sự mất ngủ của lửa hay là bệnh ngủ của thơ” theo tác giả thì những cách tân của Nguyễn
Quang Thiều là “thứ thơ tây giả cầy”, “từ cách cảm, cách nghĩ, cách ví von, liên tưởng, cách hành văn, kết cấu…tất
thảy đều như…tây cả, tịnh không có chút không khí Việt Nam nào” [13; 67]. Sau khi đưa ra một vài ví dụ để chứng
minh, tác giả Trần Mạnh Hảo đi đến đúc kết “Bên cạnh cái non kém lồ lộ của nghệ thuật làm thơ, có ý mà thiếu tứ,
có quả mà không có nhân, nhiều chữ mà ít nghĩa, ưu triết lí mà thiếu ly, muốn siêu mà bỏ thực, muốn cô mà không
đọng, muốn tâm mà thiếu huyết…” [13; 81] Đương nhiên với một hiện tượng thơ mới, với những cách tân không
ngừng lại được đặt trong sự thẩm định với những tiêu chí, lựa chọn riêng thì việc khen hay chê, khẳng định hay phủ
định những đóng góp trong hành trình sáng tạo thơ ca của Nguyễn Quang Thiều là điều không thể tránh khỏi.
Ngoài những ý kiến phủ định còn có những ý kiến đánh giá về sự sáng tạo, cách tân của Nguyễn Quang Thiều được
đặt trong bối cảnh không ngừng vận động và phát triển của văn học Việt Nam đương đại, thì có một ý nghĩa hoàn
toàn khác. Công trình nghiên cứu “Thơ Việt Nam – Tìm tòi và cách tân (1975 – 2005)” của tác giả Nguyễn Việt
Chiến là một trong những ví dụ điển hình. Theo tác giả, những cách tân trong thơ Nguyễn Quang Thiều là sự cần
thiết cho thơ Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa và có tác dụng tạo ra một diện mạo mới cho thơ ca đương đại.
Trong số 45 gương mặt được điểm diện thì Nguyễn Quang Thiều được xem là “xu hướng cách tân đích thực và tích
cực” với những vần thơ được biết đến ở những năm 90 của thế kỉ XX, Nguyễn Quang Thiều đã góp phần làm cho
“thơ đương đại Việt Nam khởi hành sang chặng đường mới” [1; 31]
Đồng quan điểm với nhận định của tác giả Nguyễn Việt Chiến vào ngày 28/2/2012 vừa rồi tại Hà Nội đã diễn ra Hội
thảo khoa học học “Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều” nhằm nhìn nhận lại chặng đường sánh tạo thơ
ca của Nguyễn Quang Thiều. Trong hội thảo này có 25 nhà nghiên cứu, phê bình trình bày tham luận của mình để
đưa ra những ý kiến, nhận định về đóng góp của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong tiến trình văn học Việt Nam
đương đại. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan với tham luận “Cú pháp tạo dựng cổ tích trong thơ Nguyễn Quang
Thiều” (Về bài tựa Châu thổ, thơ tuyển lần thứ nhất của Nguyễn Quang Thiều) ngay từ đầu bài viết Nguyễn Chí
Hoan đã nhận định “Điều khiến ngay cả một vài cây bút bình luận với đầy thiện cảm vẫn phải nói rằng thơ Nguyễn
Quang Thiều “khó hiểu” nằm hiển hiện trên mặt chữ trong phép dựng câu, dựng hình và đặt tên của các bài thơ. Tuy
nhiên, ở tập tuyển này, tác giả lần đầu trực tiếp gợi ý bằng một bài tùy bút thay lời tựa mà cái tên bài hoàn toàn có
thể xem như đầu đề một bài thơ nào đó của anh – Trong căn phòng của một người bại liệt” [6; 60]là cách nhìn nhận,
đánh giá sự đổi mới của Nguyễn Quang Thiều trong tuyển tập thơ đầu tiên. Trong buổi hội thảo còn có bài viết của
tác giả Đông La, “Sự mất ngủ của lửa hay sự thao thức của một tâm hồn”, tham luận tại tọa đàm thơ Việt Nam hiện
đại và Nguyễn Quang Thiều. Bài phê bình về sự bức phá trong thơ Nguyễn Quang Thiều từ tư duy đến nghệ thuật.
Bài tham luận của tác giả Nguyễn Việt Chiến “Thơ Nguyễn Quang Thiều trong dòng chảy thi ca cách tân sau 1975”
với nhận định “Theo tôi, trong số những nhà thơ đương đại từng làm chuyển động một chân-trời-thơ-mới, có
Nguyễn Quang Thiều. Và, trong những gương mặt thời hậu chiến, Nguyễn Quang Thiều là một trong những giọng
thơ nổi bật nhất” [6; 245] đã nhận định về một chặng đường phát triển thơ ca của Việt Nam sau năm 1975, trong đó
có thơ của Nguyễn Quang Thiều.
Trong buổi hội thảo khoa học được nhắc đến ở trên, còn có những công trình nghiên cứu, nhận định riêng về thơ
Nguyễn Quang Thiều được đối sánh, soi rọi ở nhiều góc độ khác. Nguyễn Đăng Điệp với bài phê bình “Thơ Việt
Nam đương đại từ trường hợp Nguyễn Quang Thiều”, bàn về quan điểm đổi mới trong hành trình thơ Nguyễn
Quang Thiều từ tư duy đến hình thức nghệ thuật. Hay Mai Văn Phấn, “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ
trình cách tân”. Bài viết xoay quanh những nhận định về sự cách tân nghệ thuật độc đáo trong thơ Nguyễn Quang
Thiều được đánh dấu mốc từ tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”. Tác giả bài viết cho rằng: “Bóng dáng thời đại và thi
pháp là hai vấn đề lớn, mang tính quyết định để định danh định tính thơ Nguyễn Quang Thiều trong lộ trình cách tân
thi pháp. Thơ ông tỏa sáng và khuynh loát trong nhiều đề tài với những cách biểu hiện khác nhau, với nhiều cung
bậc cảm xúc vượt khỏi phạm vi cảm hứng hiện thực và cả siêu thực” [6; 272] và chính tác giả đã nhận định rằng “Lộ
trình thơ Nguyễn Quang Thiều khởi đi từ tập thơ Sự mất ngủ của lửa đến những tập thơ về sau đã định hình một
phong cách riêng biệt. Ông đã khẳng định tài năng, bản lĩnh thi sĩ và sự dũng cảm của mình bằng khả năng thiên
bẩm, bằng kiến thức và trải nghiệm phong phú. Phổ thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều không giới hạn trong
không gian hẹp, hay vùng miền mà nhân rộng, giàu sức khái quát và tính biểu tượng cao, có thể nhìn từ nhiều góc
độ, nhiều hệ quy chiếu thẩm mỹ. Ông là một trong những thi sĩ tiên phong của dòng chảy thơ ca cách tân đương đại
trong nước” [6; 285]
Bên cạnh những bài viết, bài phê bình, xung quanh hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều, nhằm nhận định về một tác
giả thơ đương đại với những đóng góp và thành công. Trong đó, Mai Văn Phấn người được mệnh danh là “cặp bài
trùng” với Nguyễn Quang Thiều như nhận định của nhà phê bình Đỗ Quyên đã có những đóng góp không nhỏ trong
nền thơ ca Việt Nam đương đại. Mai Văn Phấn là nhà thơ có giọng điệu riêng biệt, một "hiện tượng" đang được lớp
trẻ hưởng ứng và yêu mến, nên những bài viết tìm hiểu về sáng tác thơ của Mai Văn Phấn được đăng tải nhiều trên
các phương tiện truyền thông. Số lượng bài viết dồi dào, sắc thái, "cấp độ" tình cảm khác nhau; người viết có khi là
nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có những công trình nghiên
cứu, nhận định có giá trị sau:
Vào năm 2011, tại Hải Phòng đã diễn ra Hội thảo “Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công”
nhằm đánh giá và khẳng định hành trình sáng tạo thơ ca của hai nhà thơ nói riêng và những đóng góp của hai nhà
thơ trong nền văn học đương đại Việt Nam nói chung. Cùng diễn ra với Hội thảo là việc xuất bản Kỷ yếu hội thảo
“Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công” đây là tuyển tập, tập hợp 45 bài tham luận xoay
quanh đề tài của hội thảo. Trong đó, gồm có 24 bài viết là những ý kiến đánh giá, nhận định riêng về thơ Mai Văn
Phấn. Bên cạnh đó, có một số bài viết nhận định về thơ văn xuôi trong lộ trình sáng tạo, cách tân thơ ca của nhà thơ
Mai Văn Phấn.
Trong số các bài viết về Mai Văn Phấn, trước hết phải đến bài “Mai Văn Phấn - những chặng đường sáng tạo thơ”
của tiến sĩ Đào Duy Hiệp là nhận định về những chặng đường sáng tạo thơ ca qua tập “Thơ tuyển Mai Văn Phấn
cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn”. Trong đó ông phân tích giá trị những hình ảnh ẩn dụ, siêu thực, triết lí, biểu
tượng nhằm nhận định “ý thức lao động chuyên nghiệp và sự tìm tòi cách thể hiện không ngưng nghỉ của nhà thơ”
[16; 70]. Từ đó đi đến kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục
ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà
cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [16; 75]
Đỗ Quyên với bài viết “Thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cần giải thích giá trị” là sự đánh giá những dấu ấn nghệ
thuật đặc sắc của Mai Văn Phấn trên chặng đường sáng tạo thơ ca. Xem thơ Mai Văn Phấn là đối tượng được phê
bình dựa vào những cảm nhận, nhận định ban đầu của tác giả Đỗ Quyên và nhiều nhà phê bình, nghiên cứu khác
như Dương Kiều Minh, Khánh Phương, Đặng Văn Sinh từ tập thơ đầu “Giọt nước” (1992) đến tập “Bầu trời không
mái che” (2010). Ngoài ra bài viết còn giới thiệu những bài thơ tiêu biểu, cũng như đi vào khám phá giá trị nội dung,
tư tưởng, thi pháp và thể loại thơ của Mai Văn Phấn. Trong đó, tác giả bài viết có đề cập đến thể thơ văn xuôi với
nhận định: “Với thể thơ văn xuôi, Mai Văn Phấn đã tạo dấu ấn riêng ở những nơi nào có thể: hơn chục bài thơ độc
lập trong giai đoạn truyền thống và nhiều bài thơ ở thời cách tân, nhiều trường đoạn trong một bài thơ dài, tất nhiên
cả trong trường ca” [16; 183]
Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết “Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi” là sự thể hiện quan điểm về thơ văn
xuôi qua việc tìm hiểu về đặc trưng về chất liệu ngôn từ và cấu trúc văn bản thơ. Theo tác giả phân tích “Thuộc thế
hệ các tác giả thơ xuất hiện trong thời kì Đổi mới vào thập kỷ cuối của thế kỷ trước, thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn
đã có những nét khác biệt so với các bậc cha anh nửa đầu thế kỷ XX” [16; 363]. Cùng với việc khám phá nội dung
thơ là “những cơn lốc xoáy của niềm cảm xúc ám ảnh, dòng tâm tư tranh biện, diễn giải về một ý tưởng đột khởi,
hiện hữu trong ấn tượng mạnh mẽ nơi thi nhân” kết hợp với hình thức thể hiện “không viết hoa chữ đầu câu, đầu
dòng, không có dấu chấm lúc cuối câu, cuối đoạn” điều này đã tạo nên một chỉnh thể thơ văn xuôi khác biệt khẳng
định được ngay vị trí tồn tại vững chắc của một thể loại thơ còn đứng trước nhiều thách thức của quá trình tiếp nhận.
Đặng Văn Sinh, “Mai Văn Phấn tìm về cội nguồn thi ca”, wedsite http://trannhung.com. Bài phê bình và giới thiệu
về tập thơ “Bầu trời không mái che”, so sánh với các tập thơ trước đó của nhà văn Mai Văn Phấn để thấy được nét
khác biệt và sự chuyển mình không ngừng đổi mới trong thơ của ông.
Văn Giá trong bài “ Thơ sinh ra để nói về niềm hy vọng của con người” đã nhận định chung về thơ Mai Văn Phấn:
“Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên những niềm hy vọng mãnh liệt và cảm động của con
người. hy vọng làm nên sự sống, thăng hoa sự sống. tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng
chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng, nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách
nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh
và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh
và hóa sinh bất định; và còn phồn sinh hóa sinh bất định là còn khiến con người ta có quyền hy vọng vào những gì
đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ ở con người” [16; 528]
Tuy các bài viết chưa thể hiện bao quát hết các phương diện nội dung, nghệ thuật cũng như sự nghiệp thơ Mai Văn
Phấn nhưng nhìn chung các bài viết đều tập trung thể hiện thái độ yêu mến và trân trọng thơ anh.
Nhìn chung, đa số các tài liệu trên chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, bình phẩm, phỏng vấn mang tính khái quát, đặc
biệt, vấn đề nghiên cứu về “Đặc điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn” chưa có một công
trình nào nghiên cứu. Tuy nhiên, tất cả những ý kiến, nhận định trên sẽ góp phần định hướng, gợi mở cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài về Đặc điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn chúng tôi hướng đến những
mục tiêu sau:
- Đưa ra cái nhìn khái quát về hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong nền thơ Việt Nam đương
đại. Xác định vị trí của hai nhà thơ trong nền thơ dân tộc.
- Khảo sát, phân tích và xác định đặc điểm nội dung và một số hình thức biểu hiện của thơ văn xuôi ở hai tác giả
Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn. Từ đó thấy được sự sáng tạo riêng của từng nhà thơ khi viết về thơ văn
xuôi.
- Khẳng định sự đóng góp của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong sự phát triển thơ văn xuôi.
Qua đó, thấy được sự vận động và những biến chuyển của thể thơ này trong thời kì hiện đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài này chúng tôi tập trung nghiên cứu những nét đặc sắc về đặc điểm
thơ văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn ở hai phương diện chủ yếu là nội dung và hình
thức thể hiện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn rất phong phú và đa
dạng. Nhưng trong dung lượng cho phép của một đề tài khóa luận chúng tôi chỉ giới hạn khảo sát trong phạm vi hai
tuyển tập thơ: “Châu thổ” của Nguyễn Quang Thiều (nhà xuất bản Hội nhà văn 2010) và “Thơ tuyển Mai Văn Phấn
cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn” (nhà xuất bản Hội nhà văn 2011).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp đề tài luận văn có những nhìn nhận đánh giá chính xác dựa trên
tương quan tỉ lệ cụ thể.
- Phương pháp phân tích, lí giải, chứng minh: Phương pháp này giúp đề tài luận văn đi vào cụ thể từng vấn đề giúp
làm sáng rõ vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp này giúp đề tài luận văn đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan
hệ đồng đại và lịch đại nhằm làm nỗi bật đâu là những kế thừa, đâu là những cách tân sáng tạo độc đáo của hai tác
giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn.
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng khi tổng hợp tài liệu, hệ thống hóa vấn đề giúp đề tài luận
văn có cấu trúc rõ ràng và chặt chẽ.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của khóa luận gồm có ba chương sau:
Chương 1. NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ
THỂ THƠ VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ
Chương 2. NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG
THIỀU, MAI VĂN PHẤN
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN
Chương 1
NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ THỂ THƠ
VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ
1.1. Một cái nhìn chung về nền thơ Việt Nam sau đổi mới
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con người sống vì lý tưởng mà những
mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần con người càng thêm rạng rỡ. Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch
sử dân tộc chuyển sang trang mới. Lúc này với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn
học vốn đã chuyển mình nay nhanh chóng đổi thay diện mạo. Đất nước hoàn toàn được giải phóng. Nhiệm vụ của
cuộc chiến tranh giành độc lập đã hoàn thành. Giờ đây, cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt
lên hàng đầu. Do vậy, nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh mọi mặt cuộc sống đa
dạng và phức tạp.
Tất cả những lý do trên chính là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần, được thay
thế bởi cảm hứng đời tư thế sự. Trong bối cảnh những năm đầu sau ngày thống nhất đất nước, dân tộc ta hân hoan
trong khúc ca khải hoàn bên cạnh những khó khăn phải khắc phục hậu quả chiến tranh đã tác động rất nhiều đến tâm
lí, tư duy của người dân. Đến năm 1986, với chủ trương đổi mới của Đảng đã thổi một luồng gió mới vào đời sống
xã hội Việt Nam. Tạo nên những bước khởi sắc đưa Việt Nam hòa nhập vào cộng đồng thế giới. Với phương châm
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ về sự thật”, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm đã qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Nhưng khi công cuộc đổi mới vừa thực hiện được mấy
năm và chỉ mới thu được một số kết quả bước đầu, khó khăn còn nhiều thì trên thế giới đã xảy ra một số biến động
lớn, với sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự tan rã ở Liên Xô, gây tác động nhiều mặt đến tình
hình nước ta. Thêm vào đó, Mỹ vẫn kéo dài cấm vận về kinh tế chống Việt Nam (đến đầu 1994) gây khó khăn
không nhỏ cho sự phát triển bình thường của đất nước.
Đặt Việt Nam vào bối cảnh với tình hình trong nước và quốc tế như trên, những xáo trộn trong đời sống xã hội, mặt
trái của cơ chế quản lí thị trường và sự phức tạp của xu hướng toàn cầu đã khiến cho tâm lí con người bị phân hóa.
Một mặt con người lạc quan tin tưởng vào tương lai, mặt khác không ít người tỏ ra bi quan và hoang mang trước sự
đảo lộn các giá trị, sự tác động mạnh mẽ của đồng tiền, sự trượt dốc, băng hoại của các giá trị đạo đức, nhân cách
của con người. Bức tranh xã hội mang một mảng màu sáng tối phức tạp chưa từng có, điều này đã tác động trực tiếp
đến cách cảm, cách nghĩ của con người, trong đó có các nhà văn, nhà thơ nảy sinh nhu cầu nhận thức lại cuộc sống.
Con người thoát khỏi vòng hòa quang của quá khứ, dũng cảm đối mặt với vấn đề phức tạp của đời sống đang diễn ra
hàng ngày, hàng giờ. Con người bộc lộ tất cả những gì tích cực cũng như tiêu cực, những khát khao và bất lực, bản
lĩnh và những sự tuyệt vọng, sự bứt phá và kiếm tìm, lí giải sự cô đơn và cả nỗi hoài nghi. Ý thức dân chủ được trỗi
dậy mạnh mẽ và sâu sắc, con người khát khao tìm về các giá trị nhân bản đích thực mang tính chất vĩnh hằng.
Như vậy sự chuyển biến xã hội đã dẫn đến sự thay đổi trạng thái tâm lí và ý thức con người sau quá trình đổi mới và
phát triển. Và từ bối cảnh đó đã nảy sinh những tiền đề thẩm mỹ làm nên sự phát triển phong phú đa dạng của diện
mạo văn học sau đổi mới nói chung và thơ văn xuôi nói riêng.
1.1.2. Nền thơ Việt Nam sau đổi mới
Từ sau năm 1986 với chủ trương đổi mới của Đảng, tạo nên một bước ngoặc đánh dấu sự thay đổi to lớn trong đời
sống xã hội, mà tiêu biểu là sự thay đổi trong cách nhìn nhận các giá trị cuộc sống nói chung và của văn học nghệ
thuật nói riêng.
Trước hết là là sự thức tỉnh ý thức cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn về con người cá thể, với những nhu cầu trong
thời bình là bước chuyển biến tất yếu của ý thức xã hội. Con người cá nhân đã dần dần trở thành nhân tố trung tâm
trong đời sống xã hội. Đó là con người được nhận diện trong mối quan hệ đa chiều và luôn khao khát được nhận
thức, được khẳng định mình. Cùng với nhu cầu xã hội, thị hiếu công chúng không còn ưa lối nói một chiều, lí tưởng
hóa cuộc sống mà họ đòi hỏi phải có sự lí giải, cắt nghĩa nhiều dữ kiện của đời sống, nhận thức lại nhiều vấn đề.
Văn học thời kì này có xu hướng nhạt dần cảm hứng sử thi, chuyển hướng quan tâm nhiều hơn đến những số phận
đời tư, đời thường, từ cộng đồng tổ quốc đến con người cá nhân, cá thể. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phải
phản ánh hiện thực đời sống hàng ngày, những quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, đa sự, chằng chịt được đan dệt bởi
những mạch nỗi, mạch ngầm. Con người được phản ánh trong giai đoạn này là con người đa diện, đa trị, lưỡng
phân, chen lẫn giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng, cao cả và tầm thường trong một thế giới tạp âm và đầy nghịch
lí. Văn học bao giờ cũng phản ánh thực nhu cầu của thời đại “Qua nhà thơ, người ta thấy thời đại mà anh ta đang
sống”, để phản ánh hết thực tế cuộc sống với nhiều gam màu sắc khác nhau, đòi hỏi nhà thơ phải có những tìm tòi,
đổi mới từ nội dung đến hình thức trình bày. Nếu như các thể thơ truyền thống ràng buộc cảm xúc theo cách ngắt
vần điệu theo một nguyên tắc nhất định, thì họ đòi hỏi một sự sáng tạo mới, không gò bó cảm xúc, thơ ca không chỉ
đơn giản được sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, mượt mà mà ở đó còn có cái gay gốc, dứt khoát và mang đậm hơi thở
cuộc sống nhưng không tầm thường, mà vẫn mang một màu sắc nghệ thuật độc đáo riêng.
So với trước, thơ sau đổi mới xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới: cảm hứng nghệ thuật bắt nguồn từ chính số phận
và kinh nghiệm của chính cá nhân nhà thơ. Thơ đã có một cái nhìn mới. Các mặt, các khía cạnh khác nhau của hiện
thực được soi rọi bằng một nhận thức mới. Nhận thức trong sự đa dạng, đa chiều cả về nội dung và nghệ thuật. Tất
nhiên sự xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới có tính lịch sử, phụ thuộc vào yêu cầu của thời đại, của người đọc và
cả chính bản thân chủ thể sáng tạo. Sự cảm nhận đó được thể hiện qua một số tập thơ của các tác giả tiêu biểu như:
Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh, Ánh trăng (1984) của Nguyễn Duy, Khối vuông Rubich (1985) của Thanh Thảo,
Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986) của Nguyễn Quang Thiều… Trong đó có
nhiều bài thơ nói lên những suy nghĩ thấm thía về con người, về sự chiêm nghiệm, lí giải cuộc sống, bình luận, đánh
giá và làm bật lên một triết lí sống sâu sắc của các nhà thơ.
Trước thời gian này, nhiều nhà thơ đã dồn sức cho thể loại trường ca và sự thể nghiệm thơ văn xuôi: Những người đi
tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt trời (1982) của Thanh Thảo, Ngọn giáo búp đa (1977) của Ngô Văn Phú,
Đường tới thành phố (1979) của Hữu Thỉnh, Đất nước hình tia chớp (1981) của Trần Mạnh Hảo… được xem là
những ngòi nổ khai hỏa cho cả một chặng đường thơ thực sự chuyển mình từ sau những năm đổi mới. Những vấn đề
mà trong chiến tranh thơ không đụng đến, hoặc có gợi lên thì vẫn hướng tới mục đích cộng đồng, bây giờ được khơi
gợi, nhấn mạnh, khẳng định: nỗi buồn riêng, thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt khuất của thế giới nội tâm,
vấn đề muôn thuở của con người…đều được soi rọi từ nhiều khía cạnh khác nhau. Thơ lúc này không phải chỉ là tả,
là kể, trình bày mà là biểu hiện hiện thực bằng những tâm trạng, những cá tính sáng tạo độc đáo, nhờ vậy vừa phản
ánh cuộc sống, thơ vừa đi vào tầng sâu của tình cảm con người. Trong sự phát triển của văn học từ sau 1975 đến
nay, có thể khẳng định một điều rằng hình thức thơ văn xuôi đang có xu hướng nở rộ. Những nhà thơ từ thời chống
Mỹ vẫn tiếp tục thể hiện sức sáng tạo của mình như Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Chế Lan Viên, Nguyễn Quang
Thiều…
Từ sau đổi mới, nội dung thơ chuyển hướng nhanh chóng sang các chủ đề xã hội. Các cảm xúc cá nhân của nhà thơ
thường ít gắn liền với những chấn động lớn lao của thời đại. Thơ chuyển hướng mạnh mẽ vào các chủ đề xã hội
mang tính chất thế sự và đời tư. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng, tìm hiểu sự vận động của văn học từ sau
1975, nếu không thấy sự xuất hiện của cá nhân như một phạm trù xã hội phổ biến sẽ không thể lí giải cho sự biến
động và phân hóa trong nội dung thể loại của nó. Nỗi buồn, sự cô đơn, tình yêu đôi lứa, những góc khuất của con
người, cái chết thể chất và cái chết tinh thần, sự lật trở lại của các giá trị siêu cá nhân… trong thơ không thể không
mang ý nghĩa xã hội. Khi chuyển hướng vào các chủ đề xã hội, các nhà thơ đặt lên hàng đầu những suy nghĩ cá nhân
và bộc lộ chính kiến của riêng mình. Những bài thơ như “Đánh thức tiềm lực”, “Nhìn từ xa tổ quốc” của Nguyễn
Duy, “Người đàn ông bốn mươi tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao… cho thấy sự khuấy động đời sống văn học.
Trong sự nhập cuộc với đời sống bộn bề, phức tạp, thơ dẫu chưa có được những thành tựu rực rỡ, những đỉnh cao
tiêu biểu, vẫn mang được hơi thở và khát vọng của thời đại, cố gắng vươn tới những cảm hứng phong phú và vĩnh
cửu vốn có của thể loại trong tiến trình đổi mới.
Không còn nghi ngờ gì nữa, tính hiện đại trong thơ gắn liền với sự hiện diện mang tính áp đảo của thơ tự do và thơ
văn xuôi so với các thể thơ khác. Điều này xuất phát từ ba lý do cơ bản: đây là những thứ thơ cho phép nhà thơ triển
khai tự do hơn những phức hợp cảm xúc cá nhân, thể hiện sự giao thoa thể loại, trong đó đáng kể nhất là ảnh hưởng
của chất văn xuôi vào thi ca và việc tìm đến thơ tự do và thơ văn xuôi khiến cho giọng điệu thơ không còn êm ái,
mượt mà như trước mà trở nên thô ráp hơn, nhịp điệu thơ mang nhiều tính bất ngờ hơn. Thơ tự do khiến cho các nhà
thơ có khả năng tạo ra những cú vặn cấu trúc nhằm gây ấn tượng cho người đọc.
Thơ tự do và thơ văn xuôi không phải chỉ mới xuất hiện trong giai đoạn xã hội có nhiều chuyển biến phức tạp như
thời kì sau đổi mới này. Trước đó nó đã được manh nha qua những tìm tòi thể nghiệm đổi mới hình thức thơ đầu thế
kỉ XX, các nhà thơ luôn có xu hướng muốn phá vỡ khuôn khổ câu thơ xưa cũ, bó buộc để tự do hơn trong việc thể
hiện cảm xúc. Thơ Tản Đà là một điển hình trong bài Hoa rụng:
“Đang ở trên cành bỗng chốc rơi
Nhị mềm cánh úa
Hương nhạt màu phai
Sống chửa bao lâu đã hết đời
Thế mà hoa rụng lại sướng hơn người”
Cùng với một số thi sĩ cùng thời như Phạm Công Thạch, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… Rồi đến cuộc cách tân
trong phong trào Thơ mới, giọng điệu là tiếng nói của đời sống hàng ngày phong phú, thoát khỏi những niêm luật
của thơ cổ. Mở đầu là hiện tượng văn xuôi hóa, văn xuôi biền ngẫu, câu thơ cốt giữ cái nhịp nhàng, xóa đi những cái
khô cứng, mòn cũ, ghi lại kịp thời những dòng cảm xúc, những cái gần gũi, cụ thể và mơ hồ, như bài “Tình già” của
Phan Khôi:
“Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở…”
Hay như bài thơ Trên đường của Lưu Trọng Lư, cùng với một số tác giả khác như Thế Lữ, Tế Hanh, Tố Hữu viết
nhiều về hình thức thơ 7, 8 chữ (một thể thơ có nguồn góc thơ ca dân tộc) Điều này chứng tỏ các nhà thơ muốn phá
vỡ cái cũ, giọng điệu cũ nhưng chưa kịp tạo ra cái mới cho nên còn dựa vào một số truyền thống trong thơ ca dân
tộc. Song, đó lại là giọng điệu của tiềm thức, bất cứ lúc nào, chỉ cần một rung động nhỏ cũng có thể nổi bật lên,
ngân nga. Chính cái giọng điệu này làm thay đổi các dòng thơ, câu thơ, cũng có nghĩa là các thể thơ trở nên bất ổn
dù đó là những cách luật của dân tộc đã được ổn định.
Đến thời đại ngày nay, khi mà hình thức tự sự, nhất là tiểu thuyết đang hiện lên như nhân vật chính trên sân khấu
văn học thì ảnh hưởng của chất văn xuôi vào thơ là điều dễ hiểu. Nhưng để không bị hòa tan, thơ vừa tìm cách níu
giữ những yếu tố hạt nhân làm nên cấu trúc thể loại, vừa mở rộng chính nó để thích ứng với điều kiện và môi trường
văn hóa mới. Trong thơ văn xuôi và thơ tự do, các nhà thơ vẫn kiên trì giữ vững tính ẩn dụ thể hiện rõ nhất ở các
- Xem thêm -