Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm ngôn ngữ của ca từ trong diễn xướng dân gian...

Tài liệu đặc điểm ngôn ngữ của ca từ trong diễn xướng dân gian

.PDF
100
257
92

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHẠM THỊ MAI THU ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA CA TỪ TRONG DIỄN XƢỚNG DÂN GIAN (Trường hợp diễn xướng hát chầu văn) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHẠM THỊ MAI THU ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA CA TỪ TRONG DIỄN XƢỚNG DÂN GIAN (Trường hợp diễn xướng hát chầu văn) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học. Mã số: 60 22 02 40 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hồng Hạnh HÀ NỘI, 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của TS. Trần Thị Hồng Hạnh. Các số liệu trong luận văn là trung thực, chính xác, bảo đảm tính khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tác giả luận văn Phạm Thị Mai Thu LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo khoa Ngôn ngữ học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, người thân trong gia đình đã hết lòng động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Hồng Hạnh, người đã trực tiếp tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô, bạn bè để tôi có cơ hội trở lại vấn đề này một cách tốt nhất. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Ý nghĩa của đề tài .......................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3 4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4 5. Nhiệm vụ của luận văn .................................................................................. 4 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 5 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..... 6 1.1.Những vấn đề lý thuyết liên quan đến ca từ ........................................... 6 1.1.1.Khái niệm từ ............................................................................................. 6 1.1.2. Đặc điểm của ca từ trong âm nhạc ....................................................... 15 1.1.3. Đặc điểm văn hóa phản ánh trong ca từ............................................... 20 1.2. Một số vấn đề về nghệ thuật hát chầu văn........................................... 23 1.2.1. Khái luận về chầu văn. Vị trí của văn chầu trong nghệ thuật chầu văn ....... 23 1.2.2. Lịch sử phát triển chầu văn ở nƣớc ta. ...................................................... 25 1.2.3. Tình hình nghiên cứu chầu văn ở nƣớc ta. ................................................. 26 1.3. Tiểu kết .................................................................................................... 27 Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA CỦA CA TỪ TRONG DIỄN XƢỚNG CHẦU VĂN .......................................................................... 28 2.1. Đặc điểm cấu tạo của ca từ trong các bài hát chầu văn ..................... 28 2.1.1. Từ đơn ................................................................................................... 29 2.1.2. Từ ghép .................................................................................................. 29 2.1.3. Từ láy..................................................................................................... 31 2.1.4. Ngữ cố định ........................................................................................... 35 2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của ca từ trong chầu văn .................................... 39 2.2.1. Nghĩa từ vựng ........................................................................................ 39 2.2.2. Nghĩa biểu trƣng ................................................................................... 51 2.3. Tính lịch sử của ca từ trong bài hát chầu văn ..................................... 62 2.3.1. Lớp từ thuần Việt và lớp từ Hán Việt .................................................... 62 2.3.2. Từ ngữ lịch sử ....................................................................................... 64 2.4. Tiểu kết .................................................................................................... 64 Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CỦA CA TỪ TRONG DIỄN XƢỚNG CHẦU VĂN ................................................................................... 66 3.1. Cách tri nhận về thế giới ....................................................................... 66 3.1.1. Sự tri nhận về cõi Trời .......................................................................... 66 3.1.2. Sự tri nhận về thế giới thực tại.............................................................. 67 3.2. Đặc điểm văn hóa tâm linh qua diễn xƣớng dân gian chầu văn........ 69 3.2.1.Niềm tín mộ thành kính của ngƣời dâng cúng. ...................................... 69 3.2.2. Sự uy linh hiển hách của thần linh ........................................................ 71 3.2.3. Những vị thần bảo hộ con ngƣời trong hát chầu văn ........................... 74 3.2.4. Ƣớc mơ giải trừ và cứu rỗi ................................................................... 84 3.3. Tiểu kết .................................................................................................... 88 KẾT LUẬN .................................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ cũng là phương tiện lưu giữ các kết quả của tư duy và hình thành tư duy. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, mỗi lớp người, mỗi loại hình văn bản ngôn ngữ được sử dụng (đặc biệt là về mặt từ vựng) không giống nhau. Nghiên cứu ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ tác phẩm là những việc không xa lạ trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ học. Công việc này đem đến cho chúng ta nhiều tri thức hữu ích về nhiều mặt: ngôn ngữ, văn chương, lịch sử và một phần nào đó cả xã hội. Ở Việt Nam, nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm cũng không phải là hướng nghiên cứu mới mẻ. Các nghiên cứu về ngôn ngữ tác phẩm của các tác giả nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh...đã được tiến hành. Tuy nhiên, ngôn ngữ các tác phẩm dân gian hiện vẫn còn là một con đường ít người khai phá. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn hướng đi này. Từ bao đời nay, trong các loại hình diễn xướng dân gian, hát văn là vốn quý dân gian người Việt từ khởi thủy, ngày càng được đánh giá như một loại hình văn hóa – sinh hoạt tâm linh đặc sắc, có ảnh hưởng sâu đậm tới diện mạo của văn hóa và văn học dân tộc có sức sống tiềm ẩn và khả năng thích nghi tuyệt vời để không chỉ hội nhập với tinh thần hiện đại mà còn góp phần giữ gìn vẻ đẹp và không gian văn hóa truyền thống, khơi gợi và định hình các mảng sắc màu văn hóa. Để góp phần hiểu rõ hơn về loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc này, chúng tôi lựa chọn đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ ca từ trong diễn xướng dân gian (trường hợp diễn xướng hát chầu văn” để tiến hành nghiên cứu. Trước hết, lý do lựa chọn đề tài này xuất phát từ chính lòng trân trọng một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống thuần Việt độc đáo, nhưng đang bị pha tạp, cần được bảo vệ giữ gìn. Bên cạnh đó là mong muốn 1 khám phá được vẻ đẹp của các bài văn chầu, nhất là khi nó được phối hợp cùng âm nhạc, vũ đạo trang phục và các nghi lễ thiêng. Chầu văn là mảng đặc sắc riêng biệt nhưng rất đặc trưng cái tinh túy của phong vị dân gian, lưu giữ mạch sống của tâm hồn dân tộc, tiềm tàng sức mạnh tinh thần to lớn và bền bỉ, là bản chất nội sinh của cội nguồn văn hóa cộng đồng, lại có khả năng thích nghi và vươn tới tầm thời đại. Người Việt vốn coi trọng tự nhiên. Niềm tin thiêng liêng mình là một phần của tự nhiên và quá khứ, tổ tiên và thần thánh luôn đi bên cạnh thực tại đời sống như một vô thức cố định hình thành nền tảng tâm linh và tinh thần dân tộc. Trước nay, các nhà nghiên cứu đã khảo sát về nguồn gốc và lịch sử phát triển của chầu văn...nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ hoặc đặc điểm từ vựng của ca từ trong chầu văn. Luận văn này, xem như bước đầu nghiên cứu một số vấn đề về đặc điểm ngôn ngữ trong ca từ bài hát Chầu văn. 2. Ý nghĩa của đề tài Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài thể hiện ở những mặt sau: Thứ nhất, về mặt lý luận: nghiên cứu sự phong phú và đặc sắc của ca từ các bản Văn Chầu và góp phần tìm hiểu đặc điểm từ vựng, ngữ nghĩa, cách sử dụng từ ngữ trong một loại hình diễn xướng dân gian hát chầu văn nói riêng, đồng thời đóng góp vào việc tìm hiểu ca từ trong diễn xướng dân gianViệt Nam nói chung. Về mặt thực tiễn, đề tài giúp những người yêu thích nghệ thuật hát chầu có cái nhìn cụ thể hơn, sâu sắc hơn vẻ đẹp lấp lánh của những áng văn chầu. Bên cạnh đó, luận văn còn cung cấp cho những tác giả chầu văn có vồn tri thức trong xây dựng ca từ; cũng là góp phần gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt trong loại hình truyền thống này. 2 Thứ ba, tính cấp thiết của đề tài được đặt ra từ chính thực tế tồn tại của chầu văn trong đời sống đương đại. Tháng 1 – 2013, “Nghi lễ Chầu văn của người Việt ở Nam Định” được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tỉnh Nam Định cũng được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch chọn làm đại diện cho các địa phương lập hồ sơ “Nghi lễ Chầu văn của người Việt” trình UNESCO công nhận trong thời gian tới. Điều ấy không chỉ là niềm vui của những người con Mẫu khi người Mẹ tinh thần của họ tìm được sự tôn vinh xứng đáng, mà còn trực tiếp khẳng định ý nghĩa khoa học và thực tiễn mà loại hình này mang lại cho sự phong phú và độc đáo có một không hai của diện mạo văn hóa tâm linh dân tộc, khơi động khát vọng vừa quay lại cội nguồn vừa tìm con đường thích ứng với thế giới hiện đại để trường tồn bất diệt. Những đóng góp của đề tài sẽ làm rõ hơn giá trị của chầu văn, đóng góp vào việc khẳng định ý nghĩa của hát chầu văn đối với văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa thế giới nói chung. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tương nghiên cứu của luận văn này là toàn bộ vốn từ vựng trong 30 bài hát Chầu văn. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khảo sát từ vựng trong 30 bài hát Chầu văn được chúng tôi thu thập từ những bản văn có giá trị do các nhà nghiên cứu dân gian sưu tầm, chỉnh lí hoặc do các nghệ nhân, cung văn còn lưu giữ và diễn xướng. Các văn bản trên tách biệt hoàn toàn với các bản văn và âm nhạc được sử dụng trong các nghi lễ Hầu đồng ở Miền Trung và Miền Nam - vốn là hiện tượng giao thoa cộng hưởng văn hóa, tín ngưỡng: các truyện thơ và các tiểu thuyết về các thánh như “ Liễu Hạnh công chúa diễn âm” của Nguyễn Công Trứ, “Tiên phả dịch lục” dài 776 câu của Kiều Oánh Mậu, “Vân cát thần nữ cổ lục” 732 câu của tác giả khuyết danh hay các bản giáng bút đề thơ của các Thánh Mẫu khuyên răn, dạy bảo người đời. 3 4. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ trong ca từ diễn xƣớng dân gian (trƣờng hợp diễn xƣớng chầu văn)”, luận văn hướng vào những mục đích nghiên cứu sau: + Khảo sát để có những thông tin định lượng về vốn từ trong 30 bài hát chầu văn. + Khảo sát đặc điểm từ vựng trong 30 bài hát chầu văn. Qua đó, có thể góp phần nghiên cứu từ vựng tiếng Việt trong loại hình diễn xướng dân gian chầu văn. + Thông qua việc tìm hiểu đặc điểm của ca từ trong các bài hát chầu văn, đề tài hướng đến việc chỉ ra các đặc điểm, văn hóa, tư duy của người Việt được phản ánh thông qua các ca từ được sử dụng. 5. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện một số nhiệm vụ sau đây: +Khảo sát và lập được danh sách toàn bộ từ ngữ được sử dụng trong 30 bài hát chầu văn. +Phân tích định lượng các kết quả khảo sát được để rút ra những nhận xét về những nội dung như: *Nghiên cứu định lượng về mặt cấu tạo của từ trong bài hát chầu văn. *Miêu tả, phân tích về đặc điểm ngữ nghĩa ca từ bài hát chầu văn. Từ những kết quả miêu tả phân tích đặc điểm từ vựng – ngữ nghĩa của ca từ trong các bài hát chầu văn, luận văn sẽ đưa ra những nhận xét về đặc điểm văn hóa – tư của của người Việt phản ánh trong ca từ các bài hát chầu văn. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này bên cạnh thao tác: thống kê định lượng ngữ liệu nghiên cứu, phương pháp chính được luận văn sử dụng là: Phương pháp miêu 4 tả và phương pháp phân tích văn hóa. Cụ thể là, luận văn sử sử dụng phương pháp này nhằm miêu tả các đặc điểm từ vựng ngữ nghĩa của ca từ, từ đó có thể phân tích các đặc điểm văn hóa, tư duy được phản ánh thông qua ca từ. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương -Chƣơng 1: Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài. -Chƣơng 2: Đặc điểm ngôn ngữ của ca từ trong diễn xướng chầu văn -Chƣơng 3:Đặc điểm văn hóa của ca từ trong diễn xướng chầu văn. 5 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.Những vấn đề lý thuyết liên quan đến ca từ 1.1.1.Khái niệm từ Lịch sử nghiên cứu từ tiếng Việt là một quá trình liên tục, phản ánh cố gắng của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu trong và ngoài nước và các nghiên cứu đều thống nhất rằng: từ là đơn vị cơ bản của từ vựng, là đơn vị cốt lõi để tạo nên những đơn vị lớn hơn như cụm từ, câu, văn bản. Xét ở nhiều khía cạnh, từ là đơn vị cơ bản, là đơn vị trung tâm trong toàn bộ hệ thống các đơn vị của ngôn ngữ, song việc xác định quan niệm về từ, phân giới từ, phân loại từ không phải lúc nào cũng thuận lợi. Vấn đề quan niệm về từ của tiếng Việt, nhìn chung có hai khuynh hướng: *Coi từ tiếng Việt trùng với âm tiết (hay tiếng) Các tác giả có quan điểm coi từ tiếng Việt trùng âm tiết có thể kể đến là M.B.Emenneau, G.Aubarey, Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim...Nguyễn Thiện Giáp cũng coi mỗi tiếng là một từ. Còn những đơn vị từ vựng do tiếng kết hợp với tiếng mà thành được tác giả gọi chung là ngữ, gồm ngữ định danh, ngữ láy âm, thành ngữ và quán ngữ. “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền [17,tr.22] *Coi từ tiếng Việt không hoàn toàn trùng âm tiết. Đây là quan niệm của nhiều tác giả, ví dụ như: - Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê: “Từ là âm có nghĩa, dùng trong ngôn ngữ để diễn đạt một ý đơn giản nhất, nghĩa là ý không thể phân tích ra đƣợc” [8, tr.18] Ví dụ: bàn, ghế, gia đình, thợ thuyền... 6 - Đỗ Hữu Châu: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến về hình thức ngữ âm theo các quan hệ hình thái học (nhƣ quan hệ về số, về giống...) và cú pháp trong câu, nằm trong một kiểu cấu tạo nhất định, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, ứng với những nghĩa nhất định, sẵn có đối với mọi thành viên của xã hội Việt Nam, lớn nhất trong hệ thống tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [5, tr.29] Cùng quan niệm như Đỗ Hữu Châu, là quan niệm của các tác giả như: Nguyễn Kim Thản, Hoàng Tuệ, Đái Xuân Ninh, Hồ Lê... Những điều trình bày trên đây, phần nào đó đã nói lên được tính phức tạp của tình hình nghiên cứu về từ trong tiếng Việt. Trong các đơn vị ngôn ngữ, từ là đơn vị duy nhất có thể đảm nhiệm nhiều chức năng nhất: Chức năng cơ bản của từ là chức năng định danh nhưng trong dãy ngữ đoạn từ còn mang cả chức năng phân biệt nghĩa, làm bộc lộ ý nghĩa này hay ý nghĩa khác của những từ nhiều nghĩa. Từ vốn có hai loại năng lực: 1. Năng lực gọi tên, biểu thị các sự vật, hiện tượng...trong phạm vi định danh; 2. Năng lực tham gia vào các mối liên hệ từ vựng trong ngữ đoạn. [39, tr. 1] Về nghĩa của từ, ở Việt Nam, các nhà Việt ngữ học cũng có rất nhiều kiến giải khác nhau về nghĩa của từ tùy theo mục đích và phương pháp luận của việc nghiên cứu. Chẳng hạn tác giải Nguyễn Văn Tu chỉ ra rằng: “nghĩa của từ vựng đƣợc quy định bằng những yếu tố tác động lần nhau nhƣ: (1) thuộc tính đối tƣợng. (2) khái niệm về đối tƣợng. (3) hệ thống ngôn ngữ giúp cho việc diễn đạt”. [37, tr. 24] Còn trong giáo trình “Từ vựng học tiếng Việt”, (1985) Nguyễn Thiện Giáp đã tổng hợp khá kĩ các quan niệm về nghĩa. Tác giả thấy “nổi lên hai khuynh hƣớng: (1) cho nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tƣợng, khái niệm, sự phản ánh..) (2) cho nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ của 7 từ đối với đối tƣợng hoặc quan hệ của từ với khái niệm)”. Tác giả nhận thấy rằng, “nghĩa của từ là một đối tƣợng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn” như sau: nghĩa sở chỉ, nghĩa kết cấu, nghĩa sở dụng, nghĩa sở biểu. Trong công trình “Từ ngữ tiếng Việt trên đƣờng hiểu biết và khám phá”, Hoàng Văn Hành có đề cập đến cách tiếp cận hệ thống từ vựng ở góc độ ngữ nghĩa học. Tác giả chấp nhận theo cách hiểu nghĩa của từ là “phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức và áp dụng phƣơng pháp phân tích thành tố để xác định cấu trúc nghĩa từ vựng của từ.” (dẫn theo Lê Quang Thiêm) [40, tr.30]. Đỗ Hữu Châu trong tác phẩm “Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng” thừa nhận “nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phƣơng diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ” ([ dẫn theo 40, tr. 85]) Còn Lê Quang Thiêm cho rằng: “ Nghĩa của một thực thể tinh thần trừu tƣợng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực hiện chức năng cụ thể đa dạng khác, đặc biệt là trong văn bản, diễn ngôn. Nghĩa của ngôn ngữ thể hiện trong mọi hình thức tồn tại của tín hiệu nên ngữ nghĩa học và nghĩa của tín hiệu phải đƣợc xem xét ở loại đơn vị có thuộc tính tín hiệu đặc biệt là ở dạng cụ thể trừu tƣợng của các hình thức thể hiện tín hiệu. Nghĩa là một thực thể tinh thần do con ngƣời và bởi con ngƣời cấu tạo, sử dụng ngôn ngữ nhƣ một phƣơng tiện, công cụ nên quan điểm chức năng phải đƣợc xem là nòng cốt trung tâm của kiến giải nghĩa. Nghĩa là nội dung xác định hình thành nhờ chức năng song không là chức năng riêng rẽ trong hoạt động mà là một loại chức năng thể hiện qua văn cảnh. Trong phạm vi nghĩa từ vựng là các loại chức năng từ vựng ngữ pháp. Trong phạm vi ngữ pháp, ngữ dụng cũng là khái quát loại chức năng ngữ pháp và ngữ dụng. Nội dung của ngữ nghĩa học bao gồm: ngữ nghĩa học từ vựng, ngữ nghĩa học ngữ pháp, ngữ nghĩa học ngữ dụng” [40, tr.86] 8 Như vậy có thể thấy các quan niệm về nghĩa của Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Mỗi tác giả có cách nhìn nhận khác nhau về nghĩa của từ tùy theo mục đích và phương pháp nghiên cứu riêng của mình. Có thể nói quan điểm của tác giả Lê Quang Thiêm tuy mới nhưng rất thú vị và hấp dẫn. Nó cho phép đi sâu hơn vào giải quyết nghĩa của từ và hạn chế những nhược điểm của các cách phân chia khác. *Phương thức chuyển nghĩa của từ Nghĩa của từ phản ánh những đặc trưng chung, khái quát của sự vật, hiện tượng do con người nhận thức được trong đời sống thực tiễn tự nhiên và xã hội. Khi đi vào hoạt động ngôn ngữ, nghĩa của từ được cụ thể hóa, hiện thực hóa và được xác định. Lúc đó các thành phần nghĩa trong cơ cấu nghĩa của từ sẽ giảm tính chất trừu tượng và khái quát đến mức tối thiểu để đạt tới tính xác định, tính cụ thể ở mức tối đa. Cũng trong hoạt động ngôn ngữ, đồng thời với sự giảm thiểu tính khái quát thì từ lại có thể gia tăng những sắc thái mới, nội dung mới do chính sự vật mà nó biểu thị đem lại. Trong giao tiếp, nhiều khi nghĩa ngữ cảnh, nghĩa lâm thời, nghĩa được hiểu ngầm, hiểu lại...nhờ các biện pháp tu từ, mới chính là cái quan trọng hàng đầu; nhất là trong khi xây dựng, tiếp nhận và phân tích các diễn từ, các văn bản nghệ thuật. Vì thế khi xây dựng, phát triển nghĩa chuyển (nghĩa ngữ cảnh, nghĩa lâm thời, nghĩa được hiểu ngầm, hiểu lại...) theo các phương thức chuyển nghĩa, từ sẽ mở rộng hoặc chuyên biệt những năng lực hoạt động, năng lực biểu hiện của mình. Năng lực sử dụng ngôn ngữ của con người, của các tác giả văn bản cũng thể hiện rất rõ ở việc sử dụng từ ngữ, sáng tạo nghĩa của từ ngữ như vậy. Có hai phương thức chuyển nghĩa phổ biến, đó là phương thức ẩn dụ và phương thức hoán dụ. 9 1.1.1.1.Phương thức cấu tạo từ -Từ đơn: Là những từ được cấu tạo bằng một tiếng độc lập. Ví dụ: nhà, xe, tập xanh, đỏ, tím... +Xét về mặt lịch sử: hầu hết từ đơn là những từ đã có từ lâu đời. Một số từ có nguồn gốc thuần Việt, một số từ vay mượn từ các ngôn ngữ nước ngoài như tiếng Hán, tiếng Pháp, Anh, Nga.. +Xét về mặt ý nghĩa: từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt của đời sống hàng ngày của người Việt, biểu thị các hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ gia đình, xã hội, các số đếm... +Xét về mặt số lượng: tuy không nhiều bằng từ ghép và từ láy nhưng là những từ cơ bản nhất trong việc biểu thị các khái niệm có liên quan đến đời sống và cấu tạo từ mới cho tiếng Việt. -Từ ghép: Là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với nhau dựa trên quan hệ ý nghĩa. Dựa vào tính chất của mối quan hệ về nghĩa giữa các thành tố cấu tạo, có thể phân loại từ ghép tiếng Việt như sau: *Từ ghép đẳng lập: Từ ghép đẳng lập có những đặc trưng là: + Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng, không có thành tố nào là chính hay thành tố nào là phụ. Ví dụ: quốc gia, nhà cửa, học hành.. + Xét về mặt quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy: các thành tố đồng nghĩa nhau, các thành tố gần nghĩa nhau, hoặc các thành tố trái nghĩa nhau + Xét về mặt nội dung, nói chung từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi sự vật mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp (tức biểu thị sự vật, tính chất hay hành động chung, mang tính chất khái quát) 10 + Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường hợp. Như ta sẽ thấy, những trường hợp một trong hai thành tố phai mờ nghĩa xảy ra phổ biến trong từ ghép đẳng lập. + Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa và phạm vi biểu đạt của từ ghép, có thể phân từ ghép đẳng lập thành ba loại nhỏ là từ ghép đẳng lập gộp nghĩa, từ ghép đẳng lập đơn nghĩa và từ ghép đẳng lập hợp nghĩa. *Từ ghép chính phụ: Là những từ ghép mà ở đó có ít nhất một thành tố cấu tạo nằm ở vị trí phụ thuộc vào một thành tố cấu tạo khác, tức trong kiểu từ ghép này thường có một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp. Ví dụ: nhà máy, đường sắt, tàu hỏa... Loại này có những đặc điểm sau: + Xét về mặt ý nghĩa: nếu từ ghép đẳng lập có khuynh hướng gợi lên các sự vật, tính chất có ý nghĩa khái quát, tổng hợp, thì kiểu cấu tạo từ này có khuynh hướng nêu lên các sự vật mang ý nghĩa cụ thể. + Trong từ ghép chính phụ, yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật, đặc trưng hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hóa loại sự vật, hoạt động hoặc đặc trưng đó. -Từ láy Từ láy là những từ phức do phương thức láy tác động vào một số từ tố cơ sở. Là những từ có các thành tố tương quan nhau hay giống nhau về mặt ngữ âm. Thành tố thứ nhất có quan hệ với thành tố thứ hai về mặt ngữ âm. + Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có loại ba tiếng. Loại đầu tiên là phổ biến nhất cho từ láy và phương thức láy của tiếng Việt. Từ láy trong tiếng Việt gồm có: láy hoàn toàn, láy bộ phận. +Chức năng: Từ láy tạo nên ý nghĩa đột biến và sắc thái hóa ý nghĩa của hìn vị cơ sở. Mỗi từ láy là một “nốt nhạc” về âm thanh, một “bức tranh” 11 về hình ảnh. Từ láy là một loại từ có ý nghĩa qua trọng trong văn học, nhất là thể loại thơ ca, mà những bài hát chầu văn thuộc thể loại này. -Ngữ cố định: + Khái niệm: Ngữ cố định là các cụm từ đã cố định hóa nên nó có tính chất chặt chẽ, sẵn có, bắt buộc và cũng có tính xã hội như từ. +Chức năng: Có giá trị ngữ nghĩa như từ, tạo nên tính cố định về hình thức và ngữ nghĩa trong văn bản. Ngữ cố định thường được phân chia thành thành ngữ, tục ngữ và quán ngữ. 1.1.1.2. Phân loại từ xét về nguồn gốc Trong những bài hát chầu văn, chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của hai lớp từ chủ yếu là từ thuần Việt và từ Hán Việt. Trong đó, có những từ có thể gọi là những từ ngữ lịch sử. Chúng tôi xin trình bày cơ sở lý luận của các lớp từ vựng này. * Từ thuần Việt Ngôn ngữ dân tộc không bất biến mà luôn vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn. Trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, bao giờ cũng xảy ra hiện tượng giữ lại từ cũ, cấu tạo từ mới, vay mượn những từ ngữ từ tiếng nước ngoài. Qua nhiều thời kỳ, việc xác định từ vay mượn và từ thuần không phải là việc làm đơn giản. Do đó có thể quan niệm về từ thuần Việt như sau: Từ thuần Việt là những từ gốc tiếng Việt, biểu thị các sự vật, hiện tượng, khái niệm cơ bản nhất và tồn tại từ rất lâu đời. Từ thuần Việt cũng được tạo nên từ những điểm tương đồng với các dân tộc ở Nam Á. Quá trình tiếp xúc và tác động lâu dài với các ngôn ngữ Nam Á và Tày – Thái đã để lại dấu ấn là một lớp từ vựng cơ bản và lầu đời nhất trong tiếng Việt. Vai trò của từ thuần Việt: Trong văn bản tiếng Việt, từ thuần Việt đóng vai trò cốt lõi và chi phối các lớp từ khác. 12 * Các từ ngữ gốc Hán Lớp từ này nói chung có vị trí đặc biệt trong vốn từ vựng tiếng Việt, chúng có số lượng lớn và năng lực sản sinh mạnh. Tiếng Việt đã trải qua quá trình tiếp xúc với tiếng Hán từ rất lâu đời, thông qua nhiều con đường và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Trong quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ, tiếng Việt đã tiếp nhận một lượng từ ngữ rất lớn của tiếng Hán để bổ sung cho vốn từ vựng của mình. Từ Hán cổ là những từ gốc Hán được nhu nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn một. Vì đi vào tiếng Việt đã lâu, đã được đồng hóa rất mạnh, nên những từ này hiện nay nói chung không còn cái vẻ xa lạ đối với người Việt nữa. Ví dụ: chè, ngà, chém, chìm, buồng, buồm, mùi, mùa... Từ Hán –Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn hai, sau đời Đường cho đến nay và người Việt vẫn lưu giữ cách phát âm đời Đường hệ thống ngữ âm của mình gọi là cách đọc Hán Việt. Có thể nói cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán của người Việt Nam. Cách đọc đó được duy trì (với những biến đổi ít nhiều) cho đến tận ngày nay.Ví dụ: nam, nữ, mã, trọng, khinh... Tên gọi “từ Hán Việt” còn bao gồm cả những vốn từ không phải là gốc Hán, mà do người Hán mượn một số ngôn ngữ khác, rồi người Việt vay mượn lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Ví dụ, có những từ vốn xuất thân theo nguồn gốc Nhật Bản như: phục tùng, phục vụ, điều chế, đại bản doanh, kinh tế..Có những từ lại vốn xuất thân từ nguồn gốc Phạn (Sanskrit) như Phật, Nát Bàn, Di Lặc, Thích ca mầu ni....Đối với những từ này, chúng ta không thể dùng nghĩa gốc của các từ Hán để giải thích nghĩa của chúng. Bên cạnh đó, cũng là những từ gốc Hán nhưng có một nhóm được nhu nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khầu ngữ của những người nói 13 phương ngữ tiếng Hán. Nhóm này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ và nói chung không đem lại cho tiếng Việt ảnh hưởng nào đáng kể. Ví dụ: quẩy, xì dầu, mì chính, vằn thắn, xá xíu, sủi cảo, lậu, tào phớ, chí ma phù... Một số từ Hán –Việt được đưa vào sử dụng trong tiếng Việt, có nhiều trường hợp phải cải biến nghĩa cho phù hợp với tiếng Việt. Có những từ Hán Việt được chuyển từ nghĩa rộng sang hẹp, từ trừu tượng, khái quát sang cụ thể, hay mang thêm một nét biểu cảm nào đó. Đặc biệt, có một lượng lớn từ Hán –Việt sau khi du nhập vào tiếng Việt, chúng chịu sự tác động của quy luật biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt. Do vậy, chúng đã biến đổi diện mạo ban đầu của mình, hoặc cũng có thể dạng ngữ âm Hán Việt của từ vẫn tồn tại trong tiếng Việt. Như vậy, có hàng loạt từ được Việt hóa tới hai lần, dẫn tới kết quả tồn tại song song: một cách đọc được gọi là cách đọc Hán Việt, một cách đọc được gọi là Hán Việt Việt hóa. Cách đọc thứ hai làm mờ hẳn nguồn gốc của chúng đi, đưa chúng vào sâu hơn trong tiếng Việt. Ví dụ: kiếm – gƣơm; kính – gƣơng; các – gác, can – gan; cận -gần; kí – ghi; họa – vạ... Như vậy, chúng ta thấy rằng vốn từ vựng Hán – Việt có vai trò quan trọng trong từ vựng tiếng Việt. Sự biến đổi về nghĩa của các từ tiếp nhận tiếng Hán rất đa dạng và phức tạp đòi hỏi chúng ta phải có vốn kiến thức nhất định để xử lý, đánh giá vốn từ vựng gốc Hán một cách chính xác và khoa học. * Từ lịch sử Các bản văn chầu sáng tác cổ xưa thường là viết bằng chữ Hán-Nôm và trong các sáng tác ấy có sự xuất hiện của các từ ngữ lịch sử, là các từ chuyên dùng trong thời kỳ ấy, hiện nay không thấy sử dụng đến. Chúng là các mục từ lịch sử. Các mục từ này luôn phản ánh một giai đoạn lịch sử nhất định đặc thù cho xã hội giai đoạn ấy. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan