BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
-------
-------
SAYKHAM SOUKSANITH
ĐẶC ĐIỂM NGOẠI HÌNH VÀ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA CÁC
GIỐNG GÀ ĐỊA PHƯƠNG NUÔI TẠI HUYỆN LUANG PRA BANG,
TỈNH LUANG PRA BANG, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
-------
-------
SAYKHAM SOUKSANITH
ĐẶC ĐIỂM NGOẠI HÌNH VÀ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA CÁC
GIỐNG GÀ ĐỊA PHƯƠNG NUÔI TẠI HUYỆN LUANG PRA BANG,
TỈNH LUANG PRA BANG, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
CHUYÊN NGÀNH : CHĂN NUÔI
MÃ SỐ
: 60.62.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. ĐẶNG VŨ BÌNH
PGS.TS. ĐINH VĂN CHỈNH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: đây là một công tình nghiên cứu riêng của tôi
cùng với sự giúp đỡ của Dự án SURAFCO và trường Cao đẳng Nông lâm
nghiệp miền Bắc, Luang Pra Bang. Các số liệu và kết quả nghiên cứu có
trong luận văn này là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một
học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ và đóng góp cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2014
Tác giả luận văn
Saykham SOUKSANITH
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ biết ơn tới:
- Thầy hướng dẫn 1. GS.TS. Đặng Vũ Bình đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Thầy hướng dẫn 2. PGS.TS. Đinh Văn Chỉnh đã hướng dẫn và
giúp đỡ trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Các thầy cô Khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng Thủy sản đã quan tâm
dìu dắt tận tình giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
- Các thầy cô và tập thể cán bộ Ban Quản lý đào tạo đã quan tâm và
giúp đỡ trong suốt thời gian học tập.
- Ban giám hiệu nhà trường và tập thể cán bộ phòng hợp tác Quốc
tế, đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian học tập.
- Các thầy cô và tập thể cán bộ, Bộ môn Di truyền đã tận tình và
giúp đỡ trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và bảo vệ luận án.
- Ban giám hiệu trường Cao đẳng Nông lâm nghiệp miền Bắc,
Luang Pra Bang, Dự án SURAFCO và tập thể cán bộ của Dự án đã tạo điều
kiện, giúp đỡ và đầu tư trong quá trình nghiên cứu.
- Bạn cùng lớp CN K21A, đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập, xin biết ơn các bạn bè, bạn đồng nghiệp và những người thân trong gia
đình đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội nâng cao chuyên môn và hoàn thành
luận văn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2014
Tác giả luận văn
Saykham SOUKSANITH
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
i
LỜI CẢM ƠN
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC BẢNG
v
DANH MỤC HÌNH
vi
MỞ ĐẦU
1
1.
Tính cấp thiết của đề tài
1
2.
Mục đích của đề tài
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1.
3
Cơ sở khoa học của nhân giống thuần chủng và chọn lọc gia cầm
1.1.1. Tính trạng số lượng
3
1.1.2. Nhân giống thuần chủng
4
1.1.3. Chọn lọc gia cầm
6
1.2.
6
Cơ sở khoa học về sinh sản của gà
1.2.1. Sự hình thành trứng
6
1.2.2. Sức sản xuất trứng của gà
9
1.3.
Cơ sở khoa học về sinh trưởng của gà
14
1.3.1. Sự phát triển của phôi
14
1.3.2. Khả năng sinh trưởng
14
1.3.3. Sức sống và khả năng kháng bệnh của gà
17
1.3.4. Sức sản xuất thịt
18
1.4.
19
Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.4.1. Tình hình nghiên cứu ở Thái Lan
19
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
20
1.4.3. Tình hình chăn nuôi gà ở CHDCND Lào
23
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii
CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
26
2.1.
Vật liệu nghiên cứu
26
2.2.
Phương pháp nghiên cứu
26
2.2.1. Điều tra tình hình chăn nuôi gà tại huyện Luang Pra Bang
26
2.2.2. Khảo sát các đặc điểm sinh học và tính năng sản xuất của các giống gà
địa phương nuôi tại huyện Luang Pra Bang
29
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
30
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
31
3.1.
Tình hình chăn nuôi gà ở Luông Pra Bang
31
3.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của Luông Pra Bang
31
3.1.2. Tình hình chăn nuôi
33
3.2.
Đặc điểm ngoại hình của 4 giống gà
38
3.3.
Khả năng sinh trưởng của 4 giống gà
42
3.4.
Khả năng sinh sản của 4 giống gà
48
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
55
1.
KẾT LUẬN
55
2.
ĐỀ NGHỊ
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
57
PHỤ LỤC
61
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1.
Tổng số con vật nuôi từ năm 2010-2012
24
Bảng 3.1.
Nhiệt độ từ năm 2006 – 2013 của tỉnh Luang Pra Bang (0C)
32
Bảng 3.2.
Lượng mưa từ năm 2006 – 2013 của tỉnh Luang Pra Bang (mm) 32
Bảng 3.3.
Số đầu vật nuôi và sản phẩm thủy sản của Luang Pra Bang (từ
2010 tới 2012)
33
Bảng 3.4.
Số đầu gia súc và gia cầm bình quân/hộ của 3 bản
34
Bảng 3.5.
Đặc điểm chung của các hộ chăn nuôi gà
35
Bảng 3.6.
Cơ cấu đàn gà trong các hộ chăn nuôi
35
Bảng 3.7.
Tỷ lệ gà trống và gà mái
36
Bảng 3.8.
Cơ cấu giống gà trong các hộ chăn nuôi
37
Bảng 3.9.
Các màu lông chính của 4 giống gà
40
Bảng 3.10. Các màu da của 4 giống gà
41
Bảng 3.11. Các màu da chân của 4 giống gà
42
Bảng 3.12. Khối lượng và các chiều đo trên gà trống 20 tuần tuổi của 4
giống gà
43
Bảng 3.13. Khối lượng và các chiều đo trên gà mái lúc 20 tuần tuổi của 4
giống gà
45
Bảng 3.14. Tỷ lệ nuôi sống của 4 giống gà ở các giai đoạn
46
Bảng 3.15. Khả năng cho thịt của 4 giống gà
47
Bảng 3.16. Sức sản xuất trứng của 4 giống gà
49
Bảng 3.17. Đặc điểm chất lượng trứng của 4 giống gà
52
Bảng 3.18. Tình hình dịch bệnh
54
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1.
Bản đồ các tỉnh của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
27
Hình 2.2.
Vị trí điểm nghiên cứu
28
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là một nước nông nghiệp, trên 80% dân
số sống bằng nghề nông. Chăn nuôi, trong đó có chăn nuôi gia cầm chiếm một
vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp cũng như đối với thu nhập của các
nông hộ Lào. Theo Báo cáo thống kê năm 2010 - 2012 của Cục chăn nuôi và
Nuôi trồng thủy sản - Bộ Nông Lâm nghiệp Lào, đàn gà ở cả nước là 24.079.000
con (năm 2010), 26.850.000 con (2011) và 28.779.000 con (năm 2012).
Chăn nuôi gia súc nói chung cũng như gia cầm nói riêng của người dân
phần lớn dựa vào điều kiện tự nhiên. Tuyệt đại bộ phận các gia đình đều nuôi
gà theo phương thức chăn thả, gà tự kiếm ăn, rất nhiều nhà không có chuồng
nuôi, không thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh… Hàng năm, ở các
thôn bản đều xảy ra dịch bệnh, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh tế…
Các giống gà địa phương được nuôi rất phổ biến tại các vùng nông thôn Lào.
Các giống gà này thích nghi với điều kiện chăn nuôi địa phương, chịu đựng
tốt với hoàn cảnh sống khó khăn, lại có chất lượng thịt, trứng thơm ngon, rất
dễ tiêu thụ trên thị trường. Tuy nhiên, các giống gà này thường có tầm vóc
nhỏ, sinh trưởng chậm, năng suất thịt, trứng thấp. Theo Khăm Pha Vông
(2002), Đục Đăm, U, Nhộc và Hon Chu là các giống gà địa phương chủ yếu
và được người dân địa phương ưa chuộng.
Bên cạnh các giống gà địa phương, trong những năm gần đây, một số cơ
sở nhân giống gia cầm ở Lào đã nhập và phát triển các giống gà lông màu,
nuôi chăn thả như Tam Hoàng, Lương Phượng. Cũng giống như Việt Nam,
lai giữa gà địa phương với các giống gà trên sẽ là một trong những hướng
phát triển của chăn nuôi gà ở các vùng nông thôn của Lào.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
Luang Pra Bang là cố đô của CHDCND Lào, nằm ở trung tâm của miền
Bắc Lào, với diện tích 19.714 km2, dân số cả tỉnh khoảng 452.900 người,
trong đó huyện Luang Pra Bang chiếm khoảng 47.378 người, có 12 dân tộc,
hiện đang là một địa điểm du lịch quốc tế hấp dẫn, mỗi năm có khách du lịch
hơn 100.000 khách. Nhu cầu thực phẩm, trong đó có thịt gà cho Luang Pra
Bang rất lớn và chủ yếu do huyện Luang Pra Bang đảm nhận.
Để cung cấp thêm những tư liệu về các giống gà địa phương cũng như
làm cơ sở cho công tác lai tạo nhằm phát huy những đặc tính sinh học của gà
địa phương đồng thời nâng cao năng suất thịt, hiệu quả chăn nuôi gà nông hộ
phục vụ cho nhu cầu thực phẩm khu vực Luang Pra Bang, chúng tôi thực hiện
việc nghiên cứu một số đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của các
giống gà địa phương nuôi tại khu vực huyện Luang Pra Bang.
2. Mục đích của đề tài
Đánh giá một số đặc tính sinh học và khả năng sản xuất của các giống gà
địa phương nuôi tại khu vực Luang Pra Bang nhằm đóng góp tư liệu cho việc
bảo tồn quỹ gen và định hướng phát triển chăn nuôi gia cầm cung cấp thực
phẩm cho Luang Pra Bang.
Ý nghĩa khoa học:
Cung cấp một số tư liệu về tình hình chăn nuôi gà tại các nông hộ khu
vực Luang Pra Bang, một số đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của
các giống gà địa phương của Lào.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Mô tả hiện trạng chăn nuôi gà tại các nông hộ khu vực Luang Pra Bang;
- Đánh giá được một số đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của 4
giống gà địa phương của Lào;
- Cung cấp tài liệu giúp cho việc định hướng công tác phát triển chăn
nuôi gà của Luang Pra Bang cũng như của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của nhân giống thuần chủng và chọn lọc gia cầm
1.1.1. Tính trạng số lượng
Theo quan điểm di truyền học, các tính trạng về sức sản xuất của gia
cầm như: sinh trưởng, cho thịt, tiêu tốn thức ăn, sinh sản… đều là các tính
trạng số lượng. Với quan điểm này, nghiên cứu tính năng sản xuất, thực chất
là nghiên cứu đặc điểm di truyền và ảnh hưởng của những tác nhân môi
trường xung quanh đối với các tính trạng số lượng của vật nuôi.
Các tính trạng số lượng do nhiều gen chi phối, các gene có thể hoạt
động riêng rẽ, ảnh hưởng tới hướng phát triển của tính trạng, song phần lớn
các gene đều hoạt động theo nhóm liên kết.
Wright (1933), đã phân chia hoạt động của các gene theo 3 nhóm như sau:
1) Các gene ảnh hưởng đến mức độ phản ứng của tính trạng.
2) Các gene có thể ảnh hưởng theo nhóm tới một tính trạng.
3) Các gene có thể ảnh hưởng tới một vài tính trạng khác nhau.
Như vậy, các tính trạng số lượng bị quyết định bởi nhiều gene và chịu
ảnh hưởng của điều kiện yếu tố bên ngoài. Mối quan hệ này được thể hiện
thông qua mô hình sau:
P=G+E
Trong đó: P là giá trị kiểu hình
G là giá trị kiểu gene
E là sai lệch môi trường.
Sự tương tác giữa 2 gene cùng locus gây ra tác động trội: D
(Dominance), sự tương tác giữa các gene không cùng locus gây ra tác động át
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
chế: I (Epistatique Interaction) và sự đóng góp riêng của từng gene tạo nên
một hiệu ứng cộng tính: A (Additive Effect). Hiệu ứng này được gọi là giá trị
giống, nó có tác dụng đối với chọn lọc nhằm cải tiến năng suất của vật nuôi
trong nhân giống thuần chủng. D và I có ý nghĩa lớn trong lai giữa các dòng,
các giống. Vậy kiểu gene được xác định bằng mô hình:
G=A+D+I
Người ta còn phân chia ảnh hưởng của môi trường thành 2 loại ảnh hưởng:
Eg: (general environment) môi trường chung
Es: (special environment) môi trường riêng
Hoặc
Ep: (permanent environment) môi trường thường xuyên
Et: (temporal environment) môi trường tạm thời
E = Eg + Es = Ep + Et
Nếu bỏ qua tương tác giữa di truyền và ngoại cảnh thì quan hệ giữa
kiểu hình P và kiểu hình gene G sẽ được thể hiện:
P = A + D + I + Eg + Es
Trong đó:
A: giá trị cộng gộp
D: sai lệch trội
I: sai lệch át gene
Eg: môi trường chung
Es: môi trường riêng
Các tính trạng số lượng có giá trị là một biến số liên tục (continuous
variation). Phân bố tần số của các tính trạng số lượng là phân bố chuẩn
(normal distribution) do đó có thể sử dụng các đặc tính của phân bố chuẩn để
nghiên cứu các tính trạng số lượng.
1.1.2. Nhân giống thuần chủng
Nhân giống thuần chủng là một phương pháp chỉ cho giao phối giữa
những con đực và cái trong cùng một giống.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
Mục đích của nhân giống thuần chủng là tạo nên tính đồng nhất về tầm
vóc, màu sắc, tính năng sản xuất của các cá thể trong cùng một giống. Ngoài
ra, yêu cầu của nhân giống thuần chủng là duy trì và nâng cao được những
đặc tính di truyền tốt của giống, loại bỏ được những đặc tính di truyền xấu.
Có thể nói rằng nhân giống thuần chủng là phương pháp giữ phẩm chất, nâng
cao và hoàn chỉnh phẩm chất của giống.
Các giống gà địa phương đều có chung một đặc điểm là: tầm vóc nhỏ,
sức sản xuất thấp về thịt và trứng nhưng có ưu điểm là thích nghi tốt với điều
kiện địa phương, có sức chống bệnh cao và thịt trứng có phẩm chất ngon.
Vậy việc nhân giống này cần chú ý:
+ Phải chọn lọc nghiêm ngặt để giữ lại con đực và con cái có các chỉ
tiêu mong muốn. Việc đánh giá, giá trị giống có thể dựa trên kết quả kiểm tra:
tổ tiên, cá thể (bản thân), anh chị em và kiểm tra đời sau.
+ Các con giống tốt đã chọn lọc được phải được ghi chép để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc quản lý và chọn lọc.
+ Phải có kế hoạch cho ghép đôi giao phối giữa đực và cái đã được
chọn lọc để nâng cao năng suất của chúng, đồng thời tránh được hiện tượng
suy thoái cận huyết hoặc nói cách khác là giữ được các đặc điểm tốt của giống
địa phương như khả năng thích nghi sức chống bệnh cao, các tính trạng này
thường có hệ số di truyền thấp cho nên chúng bị ảnh hưởng rất lớn do suy
thoái cận huyết.
+ Tiến bộ di truyền bằng chọn lọc thuần chủng giống địa phương
thường chậm, do vậy phải có kế hoạch tăng hay giảm số lượng của mỗi giống
địa phương sao cho phù hợp với nền chăn nuôi tiên tiến và phù hợp với điều
kiện chăn nuôi ở mỗi nước.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
1.1.3. Chọn lọc gia cầm
Chọn lọc vật giống là việc làm thường xuyên trong chăn nuôi. Có nhiều
phương pháp chọn lọc:
- Chọn lọc tự nhiên là hoàn toàn phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên
tác động đến quá trình phát triển của phẩm chất giống, chọn lọc tự nhiên tuân
theo nguyên lý của học thuyết Darwin.
- Chọn lọc nhân tạo có nhiều cách khác nhau:
+ Chọn lọc theo khả năng sản xuất, ngoại hình hoặc các chỉ tiêu khác
(chọn lọc theo tính trạng số lượng và chất lượng)
+ Chọn lọc ở một hay nhiều tính trạng số lượng (chọn lọc theo chỉ số).
+ Chọn lọc theo huyết thống dựa vào quan hệ thân thuộc trong gia đình
họ hàng anh em.
Trong chăn nuôi gia cầm thường sử dụng những quần thể lớn vì vậy
chọn lọc thường có hiệu quả cao.
1.2. Cơ sở khoa học về sinh sản của gà
1.2.1. Sự hình thành trứng
Khác với các loài động vật có vú, trứng của gia cầm nói chung và của
gà nói riêng là một tế bào sinh dục khổng lồ. Nhân tế bào trứng được bao bọc
bởi lòng đỏ, lòng trắng, màng vỏ và vỏ. Buồng trứng gia cầm có chức năng
tạo ra tế bào trứng và lòng đỏ. Các nghiên cứu của Jull (1923), Vương Đống
(1968), Orlov (1974), Card và Neshein (1970) đều xác nhận: trong quá trình
phát triển của phôi, gà máicó 2 buồng trứng, nhưng sau khi nở ra buồng trứng
bên phải bị mất đi, chỉ còn lại buồng trứng bên trái tiếp tục phát triển.
Số lượng tế bào trứng có trong buồng trứng của gà có sự khác nhau.
Pearl và Sohoppe (1921) đếm được 1906 tế bào trứng bằng mắt thường và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
12000 trứng bằng kính hiển vi, trong khi đó Freye (1978) cho rằng số lượng
tế bào trứng của gà mái bắt đầu đẻ là từ 900 – 3500, nhưng chỉ có một số
lượng hạn chế trứng chín và rụng.
Trong quá trình phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi
một tầng tế bào, không có liên kết gì với biểu bì phát sinh. Tầng tế bào này
trở thành nhiều tầng và sự tạo thành này tiến tới bề mặt buồng trứng. Cấu tạo
này gọi là follicun, bên trong follicun có một khoang hở chứa đầy một chất
dịch. Trong thời kỳ đẻ trứng nhiều follicun trở nên chín làm thay đổi hình
dạng buồng trứng trông giống như chùm nho, sau một thời gian đẻ trứng lại
trở thành hình dạng ban đầu, các follicun chín vỡ ra, quả trứng chín ra ngoài
cùng với dịch follicun và rơi vào phễu ống dẫn trứng, sự rụng những trứng
đầu tiên báo hiệu cho sự thành thục về tính. Các tài liệu nghiên cứu đều cho
rằng, hầu hết vật chất lòng đỏ được tạo thành trước khi đẻ trứng 9-10 ngày,
tốc độ sinh trưởng của lòng đỏ từ 1-3 ngày đầu rất chậm, lúc đó đường kính
đạt 6mm. Bắt đầu vào thời kỳ sinh trưởng cực nhanh, đường kính có thể tăng
4mm trong 24 giờ cho tới khi đạt được đường kính tối đa 40 mm. Tốc độ sinh
trưởng của lòng đỏ không liên quan với cường độ đẻ trứng. Quá trình hình
thành trứng và rụng trứng là một quá trình sinh lý phức tạp do sự điều khiển
của 2 hormon oestrogen và progesterone. Ngoài ra, thể vàng còn tiết ra
hormone ngăn trở, cả 3 loại hormone là các hợp chất steroid và được tổng hợp
từ cholesteron và cũng có thể từ axetyl coenzyme A tại buồng trứng. Ngoài ra
gan cũng có tác dụng đến quá trình tăng hoặc giảm lượng oestrgen, khi chức
năng gan kém sẽ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và rụng trứng (Nguyễn
Hải Quân, 2001).
Cấu tạo của ống dẫn trứng gồm: loa kèn (isnundibulum), phần tiết lòng
trắng (magnum), eo (isthmus), tử cung (uterus), âm đạo (vagina) (Julian, 1944)
- Ống dẫn trứng này là một ống dài khoảng 10 – 20 cm, đường kính 0,3
– 0,8 cm, khi gà đẻ nhiều có chiều dài tới 40 cm, đường kính tới 10 cm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
- Loa kèn là hình ô van, đường kính 8 – 10 cm nằm gần buồng trứng,
miệng nối với thành bụng bới các sợi cơ dây chằng có thể di động về phía
trước hoặc sau để hứng trứng, phần tiếp và phần cổ loa kèn dài 2 – 4 cm.
- Phần tiết lòng trắng dài 30 – 35 cm, 15 – 25 nếp nhăn xếp gấp dọc cao
4,5 mm, dầy 2,5 mm chứa rất nhiều tuyến tiết ra lòng trắng, phần cuối có
vòng trong suốt hẹp, phần cách phần eo và phần không có tuyến.
- Tử cung có hình bao túi dài 8 – 9 cm, thành tử cung có nhiều cơ dọc
và cơ vòng rất dầy, màng nhầy tử cung có thể rộng ra, giữa tử cung và âm đạo
có vòng cơ thắt.
- Âm đạo co hẹp lại dài 7 – 8 cm, cơ vòng rất phát triển, bên trong có các
nếp gấp như những gò thấp nhỏ có màng nhầy, phần này thông với lỗ huyệt.
- Trên ống dẫn trứng có 2 loại tuyến: tuyến đơn bào và tuyến ống.
Tuyến ống tiết ra dịch có hạt sau thành dịch lỏng, tuyến đơn bào tiết ra dịch ra
tế bào hình lập phương sau thành dịch keo (muxin), dịch tiết ra được trộn đều
tạo thành lòng trắng, Tuyến đơn bào và tuyến ống của phần eo tiết ra dịch để
tạo thành màng lưới vỏ trứng.
- Vỏ cứng được tạo thành từ dịch tiết của tuyến tử cung. Toàn bộ lớp
biểu mô thực hiện chức năng tiết dịch để tạo thành màng ngoài của vỏ trứng
(Nguyễn Hải Quân, 2001).
Theo Wiseman (1994), thời gian trứng lưu lại trong ống dẫn trứng là
25h50 (ở magnum: 3h20, ở isthmus: 1h20; ở uterus: 21h)
Trứng gà gồm 3 phần cơ bản: vỏ, lòng đỏ và lòng trắng. Theo Card và
Neshein (1970), tỷ lệ các phần so với khối lượng trứng: vỏ 10 – 16%, lòng
trắng 57 – 60% và lòng đỏ 30 – 32%. Theo Wisemen (1994), quả trứng nặng
60g, có lòng đỏ 29%; lòng trắng 61,5% và vỏ 9,5%.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
1.2.2. Sức sản xuất trứng của gà
Đối với gia cầm, các tính trạng và khả năng sinh sản được các nhà chọn
giống quan tâm là: tuổi đẻ quả trứng đầu tiên, tuổi thành thục sinh dục, tỷ lệ
đẻ, năng suất trứng, tỷ lệ trứng có phôi, tỷ lệ trứng nở…
Tuổi đẻ quả trứng đầu tiên: là một chỉ tiêu đánh giá sự thành thục về
sinh dục của cá thể. Sự thành thục về sinh dục đối với cá thể là tuổi đẻ quả
trứng đầu tiên, nhưng đối với đàn gia cầm được xác định bằng tuổi đẻ đạt 5%
số cá thể trong đàn. Tuổi thành thục về sinh dục sớm hay muộn có lien quan
chặt chẽ với đặc điểm di truyền của giống. Trần Đình Miên và Nguyễn Kim
Đường (1992) cho rằng, tuổi thành thục về sinh dục do các gen nằm trên
nhiễm sắc thể giới tính quy định và có ít nhất 2 gặp gen cùng quy định.
Brandsch và Biilchel (1978) cũng cho biết, hệ số di truyền của tính trạng tuổi
đẻ quả trứng đầu ở gà h2 = 0,14 – 0,15 và tuổi thành thục về sinh dục với kích
thước cơ thể ở mối tương quan nghịch. Nhưng giống gia cầm có tầm vóc nhỏ
bé thường có tuổi thành thục sớm hơn những giống gia cầm có tầm vóc lớn.
Tuổi đẻ quả trứng đầu còn phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng và các yếu
tố môi trường, đặc biệt là chế độ chiếu sáng. Trong cùng một dòng, một
giống, cá thể nào được nuôi dưỡng tốt hơn sẽ thành thục sớm hơn. Thời gian
chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ trứng sớm (Phạm Thị Minh Thu, 1996).
Năng suất trứng: Năng suất trứng là chỉ tiêu phản ánh chất lượng
con giống. Năng suất trứng là số trứng đẻ ra trong một khoảng thời gian nhất
định. Hiện nay, chưa có sự thống nhất về thời gian tính năng suất trứng, có
thể tính theo mái trong thời gian 1 tuần, 1 tháng, 1 năm, 1 chu kỳ hoặc tính
cho cả đời mái đẻ. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào loài, giống, hướng sản xuất,
đặc điểm cá thể, tuổi, mùa vụ và kỹ thuật nuôi dưỡng. Theo Card và cs
(1977), ở các đàn gà mái cao sản, năng suất trứng cao nhất vào tháng thứ 2,
thứ 3 kể từ khi bắt đầu đẻ, sau đó giảm dần cho đến hết năm đẻ và năng suất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
trứng của năm đầu là cao nhất, những năm sau giảm 10 – 20% so với năm
trước. Nguyễn Thị Thanh Bình (1998) cũng cho biết, đối với gà cao sản, tỷ lệ
trứng tăng nhanh từ khi bắt đầu đẻ, đến tuần tuổi thứ 35 đạt đỉnh đẻ trên 90%,
sau đó giảm dần và vẫn giữ được tỷ lệ đẻ từ 60 – 65% ở tuần tuổi thứ 76. Khi
cường độ đẻ giảm, nhiều gà có biểu hiện bản năng đòi ấp và mức độ biểu hiện
này ở các giống gà là khác nhau.
Số lượng trứng có tương quan âm với khối lượng cơ thể. Hệ số tương
quan giữa năng suất trứng 3 tháng đầu với năng suất trứng cả năm là rất chặt
chẽ (0,7 – 0,9) (Hutt, 1978).
Ngoài yếu tố di truyền, năng suất trứng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác như: mùa vụ, thời tiết, độ dài ngày chiếu sáng, nguồn thức ăn tự nhiên
(đặc biệt là các loại gia cầm nuôi theo hình thức quảng canh hoặc bán thâm
canh). Đặc biệt chế độ ánh sáng có vai trò quan trọng trong điều khiển cường
độ đẻ của gia cầm. Theo Lucdeckens (1978), chế độ chếu sang 13 – 14 h/ngày
được gọi là giới hạn bảo đảm cho gà có sức đẻ trứng cao.
Dinh dưỡng và kỹ thuật nuôi dưỡng ảnh hưởng rất lớn tới sức sinh sản
của gia cầm. Dinh dưỡng cung cấp năng lượng và vật chất để tạo ra các mô,
cấu tạo nên cơ thể gia cầm, giúp gia cầm hoạt động và sản xuất trứng. Mọi sự
thiếu hụt và mất cân đối về dinh dưỡng trong khẩu phần đều gây ảnh hưởng
xấu tới các hoạt động sinh lý và sức sản xuất của gia cầm. Auas và Wilke
(1978) cho rằng, dinh dưỡng ảnh hưởng tới quá trình hình thành trứng trong
cơ thể gà mái, do đó ảnh hưởng tới sức đẻ trứng. Thiếu thức ăn cũng như
khẩu phần không cân đối sẽ làm cho sức đẻ trứng giảm. Nếu thiếu hoặc hoàn
toàn không có muối khoáng và các chất hoạt chất sinh học thì gia cầm có thể
ngừng đẻ. Trong dinh dưỡng, protein là quan trọng nhất. Tuy nhiên nhu cầu
này còn phụ thuộc vào tuổi, trạng thái sinh lý và đặc điểm sản xuất của gia
cầm. Giống tốt, thức ăn đầy đủ, nhưng kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng không
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
tốt cũng sẽ gây thiệt hại về kinh tế do năng suất trứng không cao, tiêu phí vật
tư lớn. Kỹ thuật chăm sóc tốt thì có thể nâng cao năng suất trứng của gia cầm
như: sử dụng kỹ thuật ấp trứng nhân tạo sẽ giảm khả năng đòi ấp; điều khiển
quá trình thay lông cưỡng bức sẽ sớm đưa gà vào chu kỳ đẻ trứng tiếp theo
làm tăng sức đẻ; điều tiết chế độ chiếu sang hợp lý có thể tận dụng được khả
năng đẻ trứng của gà.
Khối lượng trứng: Khối lượng trứng là một tính trạng số lượng, có
hệ số di truyền h2= 0,3 – 0,7 và là tính trạng chịu ảnh hưởng của nhiều gen.
Brandsch và Biichel (1978) cho biết, khối lượng trứng cao hay thấp phụ thuộc
vào các yếu tố loài, giống, cá thể, mùa vụ, dinh dưỡng, tuổi, khối lượng cơ thể
gia cầm…
Trứng gia cầm trưởng thành lớn hơn trứng gia cầm đẻ lứa đầu từ 20 –
30%; khối lượng trứng năm thứ hai lớn hơn khối lượng năm thứ nhất 10 –
15% (Lochius và Starstikov, 1979) (Nguyễn Thị Bạch Yến trích dẫn, 1996).
Nguyễn Thị Thanh Bình (1998) cho biết, khối lượng trứng tăng dần đến cuối
chu kỳ đẻ; khối lượng trứng và năng suất trứng thường có tương quan âm.
Điều kiện dinh dưỡng cũng ảnh hưởng đến khối lượng trứng. Nếu gia
cầm được nuôi với khẩu phần nghèo protein thì khối lượng trứng sẽ nhỏ.
Các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ ẩm cũng ảnh hưởng đến khối
lượng trứng. Nguyễn Huy Đạt (1991) cho biết, gà Leghorn nuôi tại Việt Nam
có khối lượng trứng nhỏ hơn nơi xuất xứ.
Khối lượng trứng là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng trứng
giống, tỷ lệ nở, sức sống của gà con. Trong số trứng của cùng một gà mẹ đẻ
ra, những quả trứng có khối lượng trung bình cho tỷ lệ nở cao hơn so với
những quả trứng quá lớn hoặc quá nhỏ. Nguyễn Duy Nhị và Nguyễn Thị San
(1984) cho biết, trứng gà Phymouth dòng TD3, đời 8 có khối lượng từ 50 –
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
54g cho tỷ lệ nở đạt 72,6%; trứng có khối lượng 60 g cho tỷ lệ nở đạt 57,9%;
còn những trứng có khối lượng trên 60 g và dưới 50 g cho tỷ lệ nở rất thấp.
Bùi Quang Tiến và Nguyễn Hài Tao (1985) cũng cho biết, trứng gà Rhode x
Ri có khối lượng từ 46 – 75,5 g cho tỷ lệ nở cao nhất (75,5%).
Hình dạng và chất lượng trứng: Trứng gia cầm có hình ovan không
đều, một đầu có buồng khí to hơn. Hình dạng quả trứng có lien quan đến cá
thể. Đây là một tính trạng mang tính di truyền rõ rệt. Người ta có thể xác định
hình dạng trứng bằng chỉ số hình thái, theo 2 cách là: chỉ số chiều dài so với
chiều rộng hoặc chỉ số chiều rộng so với chiều dài.
Trứng mỗi loài gia cầm có một chỉ số hình thái riêng và do nhiều gen
quy định. Nguyễn Hài Tao và Tạ An Bình (1985) cho biết, khoảng biến thiên
trị số chỉ số hình thái của trứng gà là 1,34 – 1,36; của trứng vịt là 1,57 – 1,64.
Vũ Quang Ninh (2002) cho rằng, chỉ số hình thái là chỉ tiêu cơ bản để đánh
giá tỷ lệ ấp nở và độ bền của vỏ trứng. Những trứng có chỉ số hình thái nằm
trong giới hạn trung bình của giống có quá trình phát triển của phôi tốt và tỷ
lệ nở cao. Hoàng Văn Tiệu (1995) còn cho biết, nếu kích thước quả trứng
không đều, khi đưa vào máy ấp, những quả trứng nhỏ phôi phát triển nhanh
và nở sớm hơn trứng có kích thước lớn, thường những quả trứng tròn hoặc
quá dài đều cho tỷ lệ ấp nở thấp.
Chất lượng bên ngoài của trứng được phản ánh qua khối lượng, hình
dạng, màu sắc, độ dày và độ bền của vỏ trứng; chất lượng bên trong của trứng
được phản ánh qua các thành phần lòng đỏ, lòng trắng, màu sắc và các chỉ số
hình thái của lòng đỏ và lòng trắng.
Độ dày của vỏ trứng là một chỉ tiêu phản ánh độ bền của trứng và
không chỉ có ý nghĩa trong việc vận chuyển, mà còn có ý nghĩa quan trọng
trong việc phát triển của bào thai bởi vì nó là nguồn cung cấp canxi chủ yếu
trong phát triển của phôi, thai gia cầm. Lê Hồng Mận và cs (1989) cho biết,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
- Xem thêm -