Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đặc điểm dịch tễ học mô tả ung thư cộng đồng dân cư hà nội giai đoạn 2001-2005...

Tài liệu Đặc điểm dịch tễ học mô tả ung thư cộng đồng dân cư hà nội giai đoạn 2001-2005

.PDF
172
477
130

Mô tả:

Đặc điểm dịch tễ học mô tả ung thư cộng đồng dân cư Hà Nội giai đoạn 2001-2005
1 Đặt vấn đề Theo nhận định của Bộ Y tế, mô hình bệnh tật ở nước ta là mô hình kép, trong đó song song với các bệnh lây nhiễm của các nước đang phát triển như tả, đậu mùa, sốt rét từng bước được đẩy lùi thì các bệnh không lây nhiễm bao gồm ung thư (UT), tim mạch, đái tháo đường, rối loạn tâm thần đang có xu hướng gia tăng giống với mô hình bệnh tật của các nước phát triển [4]; [11]. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), mỗi năm trên toàn cầu có khoảng 11 triệu người mới mắc và 6 triệu người chết do UT, trong đó trên 60% là ở các nước đang phát triển [5], [6], [17], [109]. Ung thư là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai sau bệnh tim mạch ở các nước phát triển và là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ ba sau các bệnh lây nhiễm và bệnh tim mạch ở các nước đang phát triển [1], [2], [13], [30], [34]. Tuổi thọ được tăng lên nhờ các tiến bộ của y học hiện đại; công nghiệp hóa để tạo đà cho xã hội phát triển nhưng kèm theo là các sản phẩm công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ngày càng nhiều, lối sống thiếu lành mạnh (hút thuốc, dinh dưỡng không hợp lý, sinh hoạt tình dục không an toàn), bảo hộ lao động chưa được thỏa đáng, nguồn nước bị ô nhiễm, cùng hậu quả của chiến tranh với các chất độc màu da cam, bom nguyên tử... là các lý do giải thích vì sao tỷ lệ mắc bệnh UT ngày càng tăng lên [9], [15], [26], [29], [35], [40], [45], [59]. Ở các nước phát triển và trong khu vực đều đã có Chương trình quốc gia về phòng chống ung thư (PCUT) với 4 nội dung là: phòng bệnh UT; sàng lọc phát hiện sớm bệnh UT; nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị UT và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân UT [3], [7], [24], [53], [60], [73], [75], [77], [80]. Để xây dựng một chương trình PCUT hiệu quả, có thể nói ghi nhận ung thư (GNUT) đóng vai trò hết sức quan trọng [14], [41], [58], [61], [67], 2 [84], [92], [98], [103], [109]. Kết quả của GNUT giúp đánh giá được gánh nặng của bệnh UT lên cộng đồng và tình hình, đặc điểm, xu hướng mắc UT, qua đó xác định được các hướng ưu tiên cho chương trình PCUT ở mỗi quốc gia [18], [21], [32], [37], [43], [74], [86], [87], [95], [105]. Đây cũng là phương tiện để giám sát, đánh giá hiệu quả của chương trình PCUT và các can thiệp khác vào cộng đồng [18], [86], [102]. Các số liệu nghiên cứu cơ bản này là cơ sở cho việc đặt giả thiết cho các nghiên cứu dịch tễ học phân tích về UT để tìm hiểu nguyên nhân bệnh và giải thích một cách khoa học lý do sự khác biệt nguy cơ giữa các cộng đồng [14], [106], [107]. Hai chỉ số quan trọng trong đánh giá tình hình UT là tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ tử vong [104]. Tỷ lệ mới mắc UT chỉ có được từ những ghi nhận dựa vào quần thể [94]. Tỷ lệ tử vong do UT ở các Quốc gia đều dựa vào các thống kê tử vong theo nguyên nhân bệnh tật. Loại thống kê này có ở hầu hết các nước phát triển và một số các nước đang phát triển [20], [47], [69]. Tại một số quốc gia đang phát triển khác, các chứng nhận tử vong thường không có xác nhận của thầy thuốc về nguyên nhân tử vong [14]. Do đó, tại những nơi này không thể tính được tỷ lệ tử vong do UT hoặc những số liệu đưa ra thấp hơn nhiều so với thực tế [14], [19], [38], [48]. Tại Việt Nam, công tác PCUT cũng ngày càng được quan tâm, đặc biệt ở một số tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thái Nguyên, Huế và Cần Thơ. Tuy nhiên, phần lớn các hoạt động PCUT đều tập trung vào các nội dung chính là nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị, sàng lọc phát hiện bệnh sớm, cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân UT [6], [8], [22], [25]. Các nghiên cứu về dịch tễ học UT còn Ýt được quan tâm. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đặc điểm dịch tễ học mô tả ung thư cộng đồng dân cư Hà Nội giai đoạn 2001-2005” với các mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ mắc thô và mắc chuẩn theo tuổi các loại ung thư 3 trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001-2005. 2. Lập biểu đồ diễn tả xu hướng mắc bệnh ung thư tại Hà Nội. Chương 1 tổng quan 1.1. Ghi nhận ung thư 1.1.1. Định nghĩa bệnh ung thư Ung thư là bệnh lý của tế bào, vì một nguyên nhân nào đó có thể chỉ là một yếu tè, thậm chí một nhóm các yếu tố nguy kích thích hoặc làm rối loạn quá trình sinh sản của tế bào mà các tế bào trở nên sinh sản vô hạn độ không chịu sự kiểm soát của cơ thể, tế bào không chết theo chương trình định sẵn (appotosis) mà trở nên bất tử. Các tế bào này ác tính vì xâm lấn các mô lân cận đồng thời dễ dàng rời khỏi u nguyên phát theo đường bạch mạch, hệ thống tuần hoàn chung hoặc “nhảy dù” trong các khoang ảo để đến các cơ quan xa khác nhau tiếp tục phát sinh, phát triển. Cho đến nay người ta đã ghi nhận được trên 200 loại bệnh ung thư khác nhau. Về nguyên nhân thực sự vẫn chưa có một loại bệnh ung thư nào tìm được nguyên nhân trực tiếp. Tuy nhiên, có một số bệnh ung thư liên quan đến một số yếu tố tương đối khăng khít: ví dụ ung thư vòm mũi họng liên quan đến virus Epstain-Bar, ung thư cổ tử cung liên quan mật thiết đến virus gây u nhú ở người (HPV), ung thư dạ dày 1/3 dưới liên quan đến vi khuẩn HP (Helicobacter pylory), 1/3 các ung thư khác liên quan đến thuốc lá và hút thuốc lá: ung thư phổi, ung thư tâm phình vị, ung thư tuỵ, ung thư tiền liệt tuyến [3], [10], [38], [39], [51]. 1.1.2. Định nghĩa Ghi nhận Ung thư 4 - Ghi nhận Ung thư (GNUT) là quá trình thu thập một cách có hệ thống và liên tục số liệu về tình hình mắc và đặc điểm của những loại ung thư được ghi nhận [17]. - Một cơ sở GNUT là cơ quan làm nhiệm vụ thu thập, lưu trữ, phân tích và lý giải số liệu về những ca ung thư [17]. 1.1.2.1. Các loại hình ghi nhận Ghi nhận ung thư là một bộ phận của hệ thống thu nhận thông tin, lưu trữ, phân tích, phiên giải và báo cáo. Có hai loại ghi nhận ung thư: ghi nhận ung thư tại bệnh viện và ghi nhận ung thư tại quần thể. Ghi nhận ung thư tại bệnh viện là ghi nhận những trường hợp ung thư dựa trên bệnh án được điều trị và lưu giữ tại bệnh viện. Mục đích chính của ghi nhận ung thư tại bệnh viện là góp phần đánh giá được sự tiếp cận các thông tin chăm sóc điều trị bệnh nhân và kết quả điều trị. Nguồn số liệu sử dụng chính là từ hồ sơ bệnh án khám chữa bệnh. Những số liệu ghi nhận từ bệnh viện không cho phép đo lường được tỷ lệ mắc bệnh trong quần thể vì nó không cho phép xác định được quần thể của những người bị ung thư đã có những bệnh nhân ung thư này [19]. Ghi nhận ung thư tại quần thể là thu thập được tất cả các trường hợp mới mắc ung thư trong một quần thể đã được xác định. Thường thường, quần thể mà các đối tượng ung thư sinh sống ở trong các vùng địa lý đặc biệt. Kết quả thường là trái ngược với kết quả ghi nhận tại bệnh viện, mục tiêu chính của ghi nhận ung thư này là thống kê được các trường hợp ung thư đã được xác định trong quần thể và cung cấp cho chóng ta cách tiếp cập và kiểm soát được tác động của ung thư rtong cộng đồng, vì vậy, nó có vai trò quan trọng dịch tễ học và y tế công cộng [19], [76], [78]. 5 1.1.3.2. Các điểm khác nhau cơ bản của hai loại hình ghi nhận chính [17] Mục đích Bản chất Nhất thiết phải hiểu biết về quần thể dân cư Vai trò đối với nghiên cứu lâm sàng Vai trò đối với nghiên cứu dịch tễ Ví dô Ghi nhận bệnh viện Nghiên cứu lâm sàng và hoạt động của bệnh viện Thu thập các ca trong một bệnh viện Không Ghi nhận quần thể Nghiên cứu tình hình mắc của quần thể Thu thập các ca trong một quần thể xác định Có Cung cấp thông tin khá đầy đủ Thử nghiệm lâm sàng Tần xuất tương đối Không cho phép đánh giá tỷ lệ mắc. Tạo nguồn cho các nghiên cứu ca chứng. Thông tin hạn chế Sống thêm Ghi nhận Bệnh viện của Bệnh viện K Tỷ lệ mắc và biến thiên theo thời gian, không gian nhằm đưa ra các giả thiết dịch tễ. Tạo nguồn cho các nghiên cứu ca chứng và nghiên cứu thuần tập. Ghi Nhận Ung Thư Hà Nội 1.1.3. Lịch sử ghi nhận ung thư Với một loạt các cố gắng ban đầu ở một số nước châu Âu đã cho phép ước lượng được số ca mới mắc và số ca hiện mắc ở trong quần thể ở những năm của thể kỷ thứ 18. Ở nước Đức việc ghi nhận ung thư đã bắt đầu từ năm 1900, ghi nhận tất cả các trường hợp bị ung thư đã được điều trị. Bộ câu hỏi đã gửi đến tận tay các thày thuốc lâm sàng để ghi lại tất cả các trường hợp ung thư vào ngày 15 tháng 10 năm 1900. Một bộ câu hỏi nh thế đã được thông qua vào giữa năm 1902 và 1908 ở Đức, Hungary, Iceland, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Thụy Điển. Tuy nhiên, những cố gắng trong ghi 6 nhận ung thư đã không thành công, do sự không hợp tác của các thầy thuốc ở các bệnh viện. Một số nghiên cứu tương tự nh vậy đã được tiến hành ở Mỹ. Ghi nhận ung thư quần thể đầu tiên được thực hiện ở Hamburg (Đức) năm 1926. Ba nữ y tá đã đến các bệnh viện và các phòng khám ở thành phố đều đặn. Họ đã ghi lại tên của các bệnh nhân mới mắc ung thư và nhập số liệu vào phòng thống kê. Những số liệu này được so sánh một lần một tuần với nơi cấp giấy chứng tử. Một số ghi nhận quần thể khác cũng được thực hiện vào những năm trước năm 1955. Hiện nay, có hơn 200 tổ chức ghi nhận ung thư quần thể ở các nước và các vùng khác nhau trên toàn thế giới, chiếm khoảng 5% dân số thế giới, nhưng ghi nhận ung thư quần thể thực hiện nhiều ở các nước phát triển hơn các nước đang phát triển. Vả lại, ở các nước đang phát triển, việc ghi nhận ung thư thường chỉ thực hiện ở vùng thành thị, nơi mà việc tiếp cận chẩn đoán và điều trị bệnh tốt nhất. Hệ thống ghi nhận ung thư quần thể thực hiện rộng rãi ở các nước nh Anh, Sø Wale, Scotland, các nước ở Bắc Âu, Canada, Óc, New Zealand, Israel, Cuba, Giambia. Đan Mạch là nước ghi nhận ung thư phủ khắp toàn quốc từ những năm 1942. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước, ghi nhận ung thư quần thể mới chỉ thực hiện được ở một tỷ lệ nhỏ (nh Colombia, Ên Độ, Ý, Mỹ). Một số ghi nhận đặc biệt chỉ ghi nhận ung thư ở những nhóm tuổi nhất định (ung thư trẻ em ở Oxford, Anh) hoặc vị trí đặc biệt (ung thư dạ dày ruột ở Dijon, Pháp). Và ghi nhận ung thư ở bệnh viện được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Hội ghi nhận ung thư thế giới (IACR) được thành lập từ năm 1966. Mục tiêu chính của Hội là phát triển và chuẩn hoá phương pháp thu thập thông tin qua ghi nhận. 7 1.1.4. Vai trò của Ghi nhận Ung thư * Trong dịch tễ học 1.1.4.1. Đánh giá gánh nặng bệnh ung thư trên cộng đồng - Đánh giá quy mô của bệnh ung thư: cung cấp số liệu về số trường hợp ung thư mới mắc trên cộng đồng. NÕu có số liệu về dân số có thể ước tính tỷ lệ mới mắc, tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ tử vong và thời gian sống thêm của bệnh nhân ung thư trong cộng đồng đó [17]. - Phân tích các đặc điểm ung thư trong cộng đồng theo thời gian, các đặc điểm khác nhau giữa các nhóm dân cư (tuổi, giới tính, chủng tộc, đặc điểm kinh tế xã hội) [17], [88], [89], [91]. - Từ các số liệu của ghi nhận ung thư trên các quần thể riêng biệt có thể ước tính gánh nặng bệnh ung thư trong cộng đồng lớn hơn [17], [93]. 1.1.4.2. Đưa ra các giả thiết về nguyên nhân - Việc so sánh các ung thư theo thời gian và không gian là những thông tin quan trọng cho việc xây dựng các giả thiết về nguyên nhân đặc biệt là tìm hiểu vai trò các yếu tố sinh ung thư là cơ sở cho các hoạt động phòng ngừa [14]. - Sù so sánh theo không gian: Có thể là giữa các nước, giữa các vùng trên cùng một quốc gia, giữa các nhóm dân cư có đặc điểm khác nhau trong cùng quần thể (giới, tuổi, nghề nghiệp, tôn giáo, chủng tộc, hoàn cảnh kinh tế xã hội) [70]. - Nghiên cứu trên những nhóm người di cư là việc so sánh những cá thể có cùng nguồn gốc, sống ở những vùng khác nhau với những khoảng thời gian khác nhau. Các nghiên cứu này giúp Ých cho việc đánh giá vai trò riêng biệt của yếu tố di truyền và môi trường lên bệnh ung thư. Các nghiên cứu 8 cũng cho thấy khả năng có thể phòng ngừa được bệnh bằng cách chỉ ra rằng nếu thay đổi môi trường sống thì nguy cơ mắc bệnh cũng thay đổi [17]. 9 1.1.4.3. Hỗ trợ cho các nghiên cứu dịch tễ học phân tích - Trong các nghiên cứu thuần tập: GNUT cung cấp các thông tin về số trường hợp ung thư xuất hiện trong các nhóm phơi nhiễm khác nhau [14]. - Trong các nghiên cứu bệnh chứng: GNUT là nguồn cung cấp ca cho các nghiên cứu bệnh chứng, đặc biệt trong các nghiên cứu dựa vào quần thể và cung cấp số liệu trong việc lập kế hoạch và đánh giá chất lượng của nghiên cứu [17]. - Trong các nghiên cứu tương quan hay nghiên cứu sinh thái học: Người ta so sánh tỷ lệ mắc ung thư trong các nhóm dân cư với số liệu về tình hình phơi nhiễm các yếu tố nguy cơ của các nhóm dân cư đó. Các nhóm dân cư ở đây có thể là các quốc gia, các vùng khác nhau, các nghề nghiệp khác nhau...[78]. 1.1.4.4. Hỗ trợ các thử nghiệm lâm sàng trong việc theo dõi sống thêm của các bệnh nhân tham gia vào thử nghiệm  Trong chương trình phòng chống ung thư - PCUT bao gồm tất cả các biện pháp nhằm làm giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong do ung thư. Các biện pháp đó bao gồm: phòng ngừa bước 1, sàng lọc, phát hiện sớm, điều trị, phục hồi chức năng và chống đau/ chăm sóc triệu chứng. GNUT cung cấp số liệu về tỷ lệ mắc các ung thư trong cộng đồng để chọn các ưu tiên cho chương trình PCUT có hiệu quả. Các số liệu của GNUT cho phép dự báo tình hình và đặc điểm bệnh ung thư trong tương lai để các chương trình PCUT có thể điều chỉnh cho phù hợp [4], [26]. - Đánh giá hiệu quả của các chương trình phòng ngừa, ví dụ như Chương trình Phòng chống Tác hại Thuốc lá tác động lên bệnh ung thư phổi, 10 hay chương trình tiêm phòng viêm gan B tác động lên tỷ lệ mắc ung thư gan nguyên phát như thế nào [28]. - Đánh giá hiệu quả của chương trình sàng lọc phát hiện sớm. Việc đánh giá này có thể thông qua các thiết kế nghiên cứu dịch tễ học khác nhau: mô tả, phân tích, thử nghiệm có so sánh (kinh phí cao, không phù hợp với các nước nghèo) [1]. - Xu hướng bệnh ung thư theo thời gian sẽ cung cấp thông tin về hiệu quả của các chương trình sàng lọc lên tỷ lệ mắc/ chết do một loại UT [26]. - Các nghiên cứu phân tích (bệnh chứng, thuần tập) so sánh hiệu quả của việc sàng lọc/ không sàng lọc [26]. - Các chỉ số đánh giá khác: + Tỷ lệ mắc UT của quần thể trong thời gian sàng lọc. + Phân bè giai đoạn lâm sàng của các UT được phát hiện sớm trong quá trình sàng lọc. + Tỷ lệ mắc UT giai đoạn muộn so với trước sàng lọc [17].  Trong lập kế hoạch và giám sát công tác chăm sóc y tế - Hiểu biết xu thế bệnh UT cho phép dự báo tình hình bệnh trong tương lai, phục vụ cho việc lập kế hoạch đầu tư về chăm sóc y tế (giường bệnh, cán bộ) [1]. - GNUT cung cấp thông tin về cách thức và quá trình luân chuyển bệnh nhân trước khi đến được nơi điều trị. Những thông tin này cần thiết phải được xem xét trong quá trình xây dựng chương trình chẩn đoán sớm bệnh ung thư [6]. 1.2. Tình hình ung thư trên thế giới và việt nam 11 1.2.1. Trên thế giới Dựa vào số liệu của các Ghi nhận quần thể UT tại nhiều vùng khác nhau, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính hàng năm trên thế giới có khoảng 11 triệu trường hợp mới mắc UT. Các UT hàng đầu trên thế giới ở nam giới là ung thư phổi, dạ dày, đại - trực tràng, tiền liệt tuyến, gan; ở nữ giới là vú, đại - trực tràng, cổ tử cung, dạ dày và phổi [1]. WHO cũng ước tính mỗi năm có khoảng trên 6 triệu người chết do vì căn bệnh này. Ở các nước phát triển UT là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai sau bệnh tim mạch. Ở các nước đang phát triển ung thư đứng hàng thứ ba sau bệnh nhiễm trùng/ký sinh trùng và tim mạch [105]. Các loại UT phổ biến ở nam là UT phổi, tiền liệt tuyến, đại-trực tràng, dạ dày. Ở nữ phổ biến là UT vú, dạ dày, cổ tử cung, thân tử cung, phổi [88]. Tình hình mắc bệnh UT trên thế giới rất khác biệt giữa các nước và các vùng khác nhau. Sự khác biệt của một số loại ung thư có thể lên tới hàng trăm lần, tuỳ thuộc vào mức độ tiếp xúc của cộng đồng với các yếu tố nguy cơ và yếu tố di truyền. Ngay trong một quốc gia, tỷ lệ mắc các ung thư khác nhau còng dao động rất lớn. Một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài trên người Việt Nam di cư tới Anh và xứ Wales, Los Angeles, Óc, các tác giả cũng nhận thấy nguy cơ tử vong và mắc những loại UT vòm họng, gan, dạ dày, cổ tử cung ở người Việt mới di cư sang cao hơn so với dân bản xứ. Trong khi đó, ung thư đại - trực tràng, phổi, vú lại thấp hơn dân bản xứ [83], [85]. Tại Ên Độ, Hội nghiên cứu y học đã hình thành hệ thống ghi nhận ung thư trên toàn bộ lãnh thổ Ên Độ từ tháng 12 năm 1981. Từ hệ thống ghi nhận này, Ên Độ thấy cấp thiết phải củng cố lại hệ thống ghi nhận ung thư và tổ chức những cơ sở ghi nhận ung thư mới trên các miền của Ên Độ. 12 Chương trình ghi nhận ung thư quần thể ở Ên Độ bắt đầu thực hiện từ ngày 1 tháng 1 năm 1982 ở Bangalore, Chennai và Mumbai, và cũng tiến hành ghi nhận ung thư bệnh viện ở Chandigath, Dibrugảh và Thiruvananthapuram. Từ năm 1986 hai thành phố nữa cũng đã tiến hành ghi nhận ung thư quần thể, đó là Delhi và Bhopal. Ghi nhận ung thư quần thể ở vùng nông thôn cũng được Hội nghiên cứu y học tiến hành vào năm 1987 ở Barshi của bang Maharashtra. Với phạm vi đánh giá chăm sóc bệnh nhân ung thư, ghi nhận ung thư bệnh viện cũng bắt đầu ở Bangalore, Chennai và Mumbai vào năm 1984. Chương trình ghi nhận ung quốc gia là hoạt động của Hội nghiên cứu y học Ên Độ. Chương trình này là một trong những hoạt động chính của Vụ phòng chống bệnh không nhiễm trùng. Ghi nhận ung thư ở Ên Độ là một hoạt động đòi hỏi tất cả các thành viên phải đến bệnh viện thường xuyên và xem xét cẩn thận các bệnh án ở các khoa phòng khác nhau bao gồm khoa giải phẫu bệnh lý, khoa X quang, khoa xạ trị, khoa điều trị bệnh nhân nội trú và ngoại trú để thu thập những thông tin cần thiết của những bệnh nhân ung thư. Các bệnh viện được ghi nhận là những bệnh viện ung thư, các bệnh viện đa khoa công lập và tư nhân. Giấy chứng tử cũng được ghi nhận từ các hội đồng thành phố. Kết quả ghi nhận ung thư của Ahmedabad - Ên Độ trong 5 năm (1993 - 1997) [] tại 52 cơ sở y tế, tỷ lệ mắc thô tất cả các ung thư đối với nam là 68,8/100.000, đối với nữ là 56,8/100.000, nhưng sau khi đã chuẩn hoá theo tuổi chuẩn của thế giới tỷ lệ mắc chuẩn ở nam giới lại là 107,2/100.000, ở nữ là 82,9/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn cao nhất đối với nam giới ở Ahmedabad là ung thư phổi (11,4/100.000), lưỡi (9,3/100.000), thực quản (8,0/100.000), hầu họng (7,6/100.000), miệng (6,5/100.000); đối với nữ ung thư thường gặp là ung thư vú (19,1/100.0000), cổ tử cung (13,4/100.000). Ở vùng Bangalore, tỷ mắc thô đối với nam là 13 58,1/100.0000, nữ là 73,5/100.000; tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi đối với nam là 88,3/100.000, đối với nữ là 110,7/100.000. Và những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn cao nhất đối với nam là ung thư dạ dày (8,2/100.000), thực quản (8,2/100.000), phổi (6,7/100.0000), hầu họng (5,5/100.000); đối với nữ là ung thư cổ tử cung (23,5/100.000), vó (21,1/100.000), thực quản (7,1/100.000), dạ dày (4,6/100.000). Ở Chennai (Madras) từ ghi nhận ở hơn 200 nguồn, tỷ lệ mắc thô đối với tất cả các ung thư là 82,4/100.000, nữ là 94,8/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 108,0/100.000, nữ là 118,0/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (13,6/100.000), phổi (11,1/100.000), thực quản (8,7/100.000), miệng (6,6/100.000). lưỡi (5,6/100.000, tuyến tiền liệt (4,9/100.000). Ở Delhi, tỷ lệ mắc thô ở nam cho tất cả các vị trí ung thư ở nam là 74,4/100.000, ở nữ là 86,9/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 123,7/100.000, ở nữ là 135,6/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn cao nhất ở nam giới là ung thư phổi (13,4/100.000), thanh quản (9,4/100.000), tuyến tiền liệt (6,8/100.000), thực quản (6,1/100.000), bàng quang (5,8/100.000), u não và hệ thống thần kinh (4,6/100.000). Kết quả ghi nhận ung thư ở nước Anh với số liệu năm 2003 tỷ lệ mới mắc tất cả ung thư ở nam giới cao nhất là vùng Bắc nước Anh (446,9/100.000) và thấp nhất là vùng Mount Vernon (320,8/100.000; đối với nữ là vùng Avon - Somerset - Witshire (376,0/100.000), thấp nhất là vùng Tây London (292,5/100.000). Ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở các vùng của nước Anh đối với nam là ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi - phế quản, ung thư đại/trực tràng, bàng quang. Đối với nữ là ung thư vú, phổi - phế quản, thân tử cung, buồng trứng Trong tổng số 93.194 trường hợp mới mắc ung thư được ghi nhận ở Australia trong năm 2003, trong đó số mới mắc ở nam là 51.418 trường hợp và ở nữ là 41.776 trường hợp, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi thế giới khi đã loại 14 ung thư da không phải do hắc tố ở nam là 548,2/100.000 và ở nữ là 386,5/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi chung cho cả hai giới cao nhất là ung thư hắc tè da (46,9/100.000), phổi - khí phế quản (40,4/100.000), đại tràng (39,8/100.000), trực tràng (21,5/100.000), u lympho non - Hodgkin (18,1/100.000), bàng quang (10,9/100.000), thận (9,9/100.000), tuyến tụy (9,7/100.000), dạ dày (9,2/100.000). Tính riêng theo giới, những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi cao nhất ở nam là ung thư tuyến tiền liệt (144,2/100.000), u hắc tố (57,9/100.000), phổi - khí phế quản (57,1/100.000), đại tràng (45,2/100.000), trực tràng (28,0/100.000), bàng quang (18,3/100.000), thận (13,6/100.000), dạ dày (13,2/100.000) và tuyến tụy (11,3/100.000); ở nữ là ung thư vú (111,8/100.000), u hắc tố (37,9/100.000), đại tràng (35,4/100.000), phổi - khí phế quản (27,1/100.000), trực tràng (15,7/100.000), thân tử cung (15,1/100.000), buồng trứng (10,1/100.000). Israel thực hiện chương trình ghi nhận ung thư từ năm 1960 và chương trình này là một bộ phận trong chương trình của Trung tâm khống chế bệnh tật. Việc ghi nhận ung thư dựa trên cơ cở các thông tin đã sửa đổi từ năm 1982 do trung tâm ghi nhận ung thư phát triển. Tỷ lệ mắc thô ở tất cả các vị trí đối với nam là người Do Thái là 334,4/100.000, nữ là 353,3/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 277,6/100.000, nữ là 267,9/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn cao nhất ở nam là ung tuyến tiền liệt (43,4/100.000), đại tràng (28,9/100.000), thư phổi (28,7/100.000), bàng quang (27,0/100.000), u lympho non-Hodgkin (15,3/100.000), dạ dày (11,9/100.000), Melanoma (11,7/100.000), trực tràng (11,6/100.000), thận (11,2/100.000); ở phụ nữ là ung thư vú (87,1/100.000), đại tràng (23,5/100.000), buồng trứng (12,3/100.000), u lympho non - Hodgkin (12,1/100.000), tử cung thể cơ vân (11,5/100.000), hắc tố da (melanoma) (11,3/100.000), phổi (10,3/100.000). 15 Đối với những người Do Thái sinh ra tại Israel, tỷ lệ mắc thô đối với nam là 83,8/100.000, đối với nữ là 113,5/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi đối với nam là 255,1/100.000, nữ là 254,4/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn cao nhất đối với nam là ung thư tuyến tiền liệt (47,5/100.000), bàng quang (27,7/100.000), đại tràng (21,2/100.000), phổi (20,2/100.000), u hắc tố (17,5/100.000), u lympho non - Hodgkin (15,7/100.000), trực tràng (9,2/100.000); đối với nữ là ung thư vú (89,5/100.000), đạ tràng (18,1/100.000), u hắc tố (14,6/100.000), u lympho non - Hodgkin (11,7/100.000), thân tử cung (11,1/100.000), buồng trứng (11,1/100.000) phổi (10,9/100.000). Đối với người Do Thái sinh ra ở châu Phi hoặc châu Á, tỷ lệ mắc thô cho tất cả các ung thư ở nam giới là 628,9/100.000, nữ là 534,2/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 240,0/100.000, nữ là 213,3/100.000. Ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư tuyến tiền liệt (41,3/100.000), phổi (28,7/100.000), bàng quang (24,5/100.000), đại tràng (22,2/100.000), u lympho non - Hodgkin (14,5/100.000), trực tràng (10,0/100.000), dạ dày (8,7/100.000); đối với nữ là ung thư vú (65,1/100.000), đại tràng (18,1/100.000), tuyến giáp (11,4/100.000), , non - Hodgkin (9,9/100.000), thân tử cung (8,0/100.000), phổi (7,5/100.000). Năm 1997 bệnh viện ung thư ở Arkhagelskaja cùng với Trường đại học tổng hợp Tromso (Norway) đã tiến hành ghi nhận ung thư quần thÓ và việc ghi nhận ung thư đi vào hệ thống thì mới bắt đầu từ năm 1999 và tất cả các trường hợp bị ung thư đã được ghi nhận từ năm 1993 đều được tính vào chương trình ghi nhận ung thư quần thể. Với tổng số 35.224 ca ung thư được ghi nhận từ năm 1993 đến năm 2001, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi đối với tất cả các vị trí ung thư ở nữ là 164/100.000, ở nam là 281/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mới mắc chuẩn theo tuổi cao nhất đối với nam là ung thư phổi (77,4/100.000), dạ dày (45,9/100.000), da (14,4/100.000), trực tràng 16 (13,4/100.000), thực quản (13,0/100.000), đại tràng (12,2/100.000), bàng quang (11,6/100.000), tuyến tiền liệt (11,1/100.000) và tuyến tụy (9,2/100.000); ở nữ là ung thư vú (28,5/100.000), dạ dày 19,7/100.000), da (12,9/100.000), đại tràng (12,2/100.000), buồng trứng (9,0/100.000), cổ tử cung (8,4/100.000), thân tử cung (8,1/100.000), và trực tràng (7,8/100.000). Hiroshima - Nhật Bản, bắt đầu ghi nhận ung thư từ năm 1957 và đến năm 1973 việc ghi nhận ung thư đã được mở rộng ra tất cả các cơ sở khám chữa bệnh ở đây. Kết quả trong 5 năm ghi nhận (từ năm 1991 đến 1995), tỷ lệ mắc thô đối với nam là 485,3/100.000, nữ là 329,0/100.000), tỷ lệ mắc chuẩn ở nam là 369,3/100.000, nữ là 215,4/100.000). Những vị trí có tỷ lệ mắc cao nhất đối với nam là ung thư dạ dày (85,5/100.000), đại tràng (59,2/100.000), gan (43,2/100.000), phổi (40,3/100.000), trực tràng (27,4/100.000), bàng quang (14,6/100.000), tuyến tiền liệt (14,1/100.000), thực quản (11,7/100.000), tuyến tụy (8,8/100.000), u lympho non - Hodgkin (7,4/100.000); đối với phụ nữ là ung thư vú (36,6/100.000), dạ dày (33,9/100.000), đại tràng (28,0/100.000), gan (13,4/100.000), trực tràng (11,9/100.000), phổi (11,8/100.000), cổ tử cung (11,7/100.000), tuyến giáp (10,5/100.000). Ở Miyagi - Nhật Bản, tỷ lệ mắc thô ở nam giới là 457,9/100.000, ở nữ là 312,5/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 291,5/100.000, ở nữ là 175,6/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc chuẩn cao nhất ở nam giới là ung thư dạ dày (69,0/100.000), phổi (41,9/100.000), đại tràng (34,6/100.000), trực tràng (20,5/100.000), gan (17,1/100.000), thực quản (14,4/100.000), tuyến tiền liệt (12,7/100.000), tuyến tuỵ (10,2/100.000); đối với nữ là ung thư vú (33,1/100.000), dạ dày (27,1/100.000), đại tràng (19,6/100.000), phổi (11,6/100.000), trực tràng (9,7/100.000), buồng trứng (7,1/100.000). Ở Nagasaki, tỷ lệ mắc thô ở nam giới là 565,0/100.000, nữ là 367,6/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 310,9/100.000, nữ là 180,7/100.000. Những ung thư có tỷ lệ 17 mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (65,4/100.000), phổi (43,9/100.000), đại tràng (36,9/100.000), gan (30,7/100.000), trực tràng 922,0/100.000), tuyến tiền liệt (12,6/100.000), bàng quang (11,2/100.000), tuyến tuỵ (8,8/100.000), túi mật (8,1/100.000); đối với nữ giới là ung thư vú (29,8/100.000), dạ dày (25,6/100.000), đại tràng (19,5/100.000), phổi (12,9/100.000), cổ tử cung (10,9/100.000), trực tràng (10,0/100.000), gan (8,4/100.000). Ở Osaka, tỷ lệ mắc thô đối với nam là 394,3/100.000, nữ là 265,3/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 273,7/100.000, nữ là 155,5/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (59,9/100.000, phổi (44,6/100.000), gan (44,5/100.000), trực tràng (13,5/100.000), thực quản (10,0/100.000), tuyến tụy (9,4/100.000), tuyến tiền liệt (9,0/100.000); đối với nữ là ung thư vú (27,9/100.000), dạ dày (23,8/100.000), đại tràng (14,3/100.000), phổi (13,3/100.000), gan (11,9/100.000), cổ tử cung (7,1/100.000). Ở Saga, tỷ lệ mắc thô đối với nam là 495,2/100.000, nữ là 324,2/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 272,9/100.000, nữ là 154,5/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (63,6/100.000, phổi (40,5/100.000), gan (38,4/100.000), đại tràng (24,6/100.000), trực tràng (15,1/100.000), tuyến tiền liệt (10,5/100.000), tuyến tụy (9,0/100.000); đối với nữ là ung dạ dày (24,9/100.000), vó (23,6/100.000), đại tràng (15,0/100.000), gan (11,5/100.000), phổi (10,5/100.000), cổ tử cung (9,8/100.000). Ở Yamagata, tỷ lệ mắc thô đối với nam là 567,9/100.000, nữ là 389,5/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 284,8/100.000, nữ là 174,7/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (91,6/100.000, phổi (39,8/100.000), đại tràng (33,9/100.000), trực tràng (20,8/100.000), gan (15,4/100.000), thực quản (12,2/100.000), tuyến tụy (9,5/100.000), tuyến tiền liệt (9,3/100.000); đối với nữ là ung thư dạ dày (38,9/100.000), vó 18 (28,3/100.000), đại tràng (22,0/100.000), phổi (11,3/100.000), trực tràng (10,8/100.000), túi mật (7,0/100.000). Năm 1991, Ireland, bắt đầu thực hiện chương trình ghi nhận ung thư và đến tháng giêng năm 1994 thì chương trình này triển khai ra toàn quốc. Các thông tin thu thập từ chương trình này giúp cho Ireland sử dụng trong nghiên cứu nguyên nhân ung thư, trong chương trình giáo dục truyền thông phòng chống ung thư và trong đào tạo, đồng thời lập kế hoạch chăm sóc cho những bệnh nhân bị mắc bệnh ung thư. Theo kết quả ghi nhận ung thư ở Ireland dự đoán số người mắc ung thư ngày càng tăng, và số ca mới mắc tăng theo từng năm một. Số liệu ghi nhận ung thư mới nhất của Ireland từ năm 1994 đến năm 2005 cho thấy nhìn chung tổng thể mỗi năm tăng dưới 3% số trường hợp mới mắc ung thư. Tuy nhiên, theo tính toán của cơ quan ghi nhận ung thư ở Ireland ung thư ở nước này tăng theo tuổi và dặc biệt ở những người cao tuổi. Hầu hết ung thư ở nam giới (65%) và ở nữ giới (54%) gặp ở những người có tuổi đời từ 65 tuổi trở lên. Theo dự đoán ở những phụ nữ trong quần thể nhóm tuổi 65 trở lên số mắc ung thư tăng từ 235.000 năm 1995 lên đến 521.000 người vào năm 2030 và số nam giới mắc ung thư từ 176.000 người lên đến 454.000 người. Cũng trong cùng thời kỳ này dân số phụ nữ tuổi từ 65 trở lên tăng từ 13% lên đến 19% và của nam giới từ 11% lên 16%, đồng thời các nguyên nhân tử vong do ung thư chiếm khoảng 1,5% sè ca tử vong trong toàn quốc. Và theo ghi nhận, một số ung thư ở nam giới tăng hàng năm nh ung thư tiền liệt tuyến hàng năm tăng 7%, ung thư thận tăng 4%, ung thư hắc tố tăng 4%, ung thư hạch hệ thống tăng 2%; đối với nữ ung thư thận hàng năm tăng 4%, ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư phổi hàng năm mỗi loại này cũng tăng thêm 2% và ung thư trực tràng cũng tăng lên. Theo dự đoán số ca mới mắc sẽ tăng khoảng 90% (từ 22.019 lên đến 41.743) giữa thời kỳ 1998 - 2002 đến năm 19 2020, trong đó nam giới tăng 97%, nữ giới tăng 83%, nếu chỉ tính riêng ung thư thể xâm lấn thì tỷ lệ này sẽ tăng lên đến 109% trong đó ở nam giới tăng lên tới 117% và nữ giới tăng 101%. Đồng thời trong ghi nhận ung thư của Ireland cũng đã so sánh tỷ lệ sống thêm 5 năm sau điều trị của những người bị mắc ung thư với 21 nước ở châu Âu, các tác giả nhận thấy tỷ lệ sống sau 5 năm ở Ireland cũng tương tự với nước Anh, kém hơn so với các nước ở vùng Xcăng-đi-na-vi và tốt hơn so với các nước ở vùng đông Âu. Trong giai đoạn 1995 - 1999, những ung thư thường gặp như ung thư trực tràng, phổi, vú, tiền liệt tuyến và ung thư buồng trứng ở Ireland và nước Anh có tỷ lệ tử vong thấp nhất. Trong giai đoạn 2000 - 2002, tỷ lệ bệnh nhân sống thêm 5 năm sau điều trị ung thư . Busan - Hàn Quốc, bắt đầu chương trình ghi nhận ung thư bệnh viện với sự hợp tác của 4 bệnh viện đại học y và được sự giúp đỡ của Sở y tế cộng cộng và vệ sinh môi trường của Busan và Hội y học Busan và được Chương trình quốc gia về kiểm soát ung thư Hàn Quốc hỗ trợ về kinh phí và sau đó chuyển từ ghi nhận ung thư bệnh viện sang ghi nhận ung thư quần thể từ 54 bệnh viện của Busan. Tỷ lệ mắc thô trong 2 năm ghi nhận (1996 1997) đối với nam là 220,0/100.000, nữ là 175,7/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 304,0/100.000, nữ là 169,1/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (72,5/100.000, gan (59,4/100.000), phổi (51,3/100.000), đại tràng (11,5/100.000), trực tràng (10,1/100.000), bàng quang (10,1/100.000), thực quản (10,0/100.000); đối với nữ là ung dạ dày (30,4/100.000), cổ tử cung (21,1/100.000), vó (18,6/100.000), gan (17,1/100.000), phổi (12,4/100.000), đại tràng (7,4/100.000), túi mật (7,4/100.000), và trực tràng (6,7/100.000). Ở Daegu chương trình ghi nhận ung thư bắt đầu từ tháng 1 năm 1997, tỷ lệ mắc thô sau 2 năm ghi nhận (1997 - 1998) đối với nam là 200,7/100.000, nữ là 172,3/100.000, tỷ lệ mắc 20 chuẩn theo tuổi ở nam là 270,5/100.000, nữ là 164,8/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (70,8/100.000, phổi (46,2/100.000), gan (45,7/100.000), đại tràng (11,3/100.000), trực tràng (10,6/100.000), túi mật (8,9/100.000), thực quản (7,3/100.000), tuyến tụy (6,8/100.000), bàng quang (6,7/100.000), tuyến tiền liệt (6,6/100.000); đối với nữ là ung thư dạ dày (30,0/100.000), vó (20,0/100.000), cổ tử cung (19,3/100.000), phổi (13,3/100.000), gan (12,6/100.000), trực tràng (8,2/100.000), đại tràng (7,7/100.000), túi mật (6,8/100.000). Ở Kangaha, ghi nhận ung thư từ 17 phòng khám đa khoa, 7 phòng khám răng hàm mặt, 5 phòng khám định hướng, 1 trung tâm y tế cộng đồng, 12 trung tâm y tế vùng và 16 trạm y tế, tỷ lệ mắc thô sau 5 năm ghi nhận (1993 - 1997) đối với nam là 337,0/100.000, nữ là 183,2/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 239,7/100.000, nữ là 115,8/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (66,5/100.000, phổi (44,8/100.000), gan (32,6/100.000), bàng quang (10,1/100.000), túi mật (7,8/100.000), thực quản (7,4/100.000), đại tràng (7,4/100.000), tuyến tụy (7,2/100.000), trực tràng (6,8/100.000), tuyến tiền liệt (5,4/100.000); đối với nữ là ung thư dạ dày (190,5/100.000), cổ tử cung (15,2/100.000), vó (12,7/100.000), gan (8,9/100.000), phổi (6,7/100.000), tuyến tụy (4,7/100.000), túi mật (4,6/100.000), trực tràng (4,5/100.000), đại tràng (4,4/100.000). Ở Seoul, tỷ lệ mắc thô sau 5 năm ghi nhận (1993 -1997) đối với nam là 188,1/100.000, nữ là 164,7/100.000, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi ở nam là 286,8/100.000, nữ là 172,9/100.000. Những ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở nam là ung thư dạ dày (45,1/100.000, gan (34,6/100.000), phổi (27,9/100.000), trực tràng (8,4/100.000), đại tràng (8,3/100.000), bàng quang (6,6/100.000), túi mật (5,0/100.000), tuyến tụy (4,7/100.000), thực quản (4,5/100.000); đối với nữ là ung thư dạ dày (28,5/100.000), cổ tử cung (22,3/100.000), vó
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan