Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật ...

Tài liệu Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn từ thành phố hà nội

.DOC
85
5
125

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ NGỌC PHÚC CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ NGỌC PHÚC CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS: ĐINH DŨNG SỸ HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết quả trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Vũ Ngọc Phúc MỤC LỤC MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ..............................................9 1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự.............................9 1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự.............................................................15 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI......................................................................... 29 2.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự..........................29 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội................................................................................. 42 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ................................................................................................................... 60 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại........................................................60 3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành bản án về cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự.........65 KẾT LUẬN.....................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................78 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội............44 từ năm 2014 đến năm 2018 về việc................................................................ 44 Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội............44 từ năm 2014 đến năm 2018 về tiền.................................................................44 Bảng 2.3: Kết quả việc áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến 2018 45 Bảng 2.4: Kết quả áp dụng đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thu hồi nợ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014...................46 đến năm 2018..................................................................................................46 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong đời sống xã hội, các hoạt động kinh doanh, thương mại nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần chủ yếu được thực hiện thông qua các giao dịch dân sự, kinh tế trên cơ sở giao kết và thực hiện hợp đồng. Khi thiết lập các giao dịch, hợp đồng, vấn đề các bên quan tâm là thực hiện các cam kết, thỏa thuận, khả năng thực hiện nghĩa vụ - điều kiện đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, nhất là đối với các quan hệ dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng, ngân hàng theo nghĩa chung nhất là quan hệ giao dịch giữa bên cho vay và bên vay, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho các bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi phát sinh. Thực tiễn cho thấy, hiện nay, rất nhiều trường hợp bên vay không đủ khả năng thanh toán lãi và gốc cho ngân hàng do nhiều nguyên nhân khác nhau như làm ăn thua lỗ, phá sản....Chính những yếu tố này đã làm cho trong những năm gần đây, các bản án xét xử và việc thi hành án dân sự liên quan đến các Ngân hàng thương mại tăng vọt. Chỉ tính riêng tại thành phố Hà Nội, năm 2019, việc thi hành các bản án để thu hồi nợ liên quan đến ngân hàng thương mại đã thụ lý khoảng 4 nghìn việc tương đương với số tiền gần 30 nghìn tỷ đồng; đặc biệt với sự xuất hiện của các vụ đại án có số tiền phải thi hành rất lớn, có tính chất đặc biệt phức tạp, nhiều vụ việc không có điều kiện thi hành hoặc bán đấu giá tài sản không có người mua..... Thực tế, không phải lúc nào người phải thi hành án có điều kiện thi hành đều tự nguyện trả tiền cho ngân hàng thương mại. Dẫn đến, cơ quan Thi hành án dân sự phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ cho ngân hàng. Nhưng khi cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức cưỡng chế thi hành án các bản án để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại thường rất khó khăn, quá trình thi hành án diễn ra hết sức phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức; liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau. Các cơ quan thi hành án dân sự thường phải chịu áp lực, tác động từ nhiều phía. Trong khi đó, để tổ chức thi hành án các bản án 1 để thu hồi nợ cho ngân hàng được nhanh chóng và đúng đắn, ngoài việc nắm vững nội dung quyết định bản án, quyết định được đưa ra thi hành, nội dung yêu cầu thi hành án của phía ngân hàng thương mại thì cơ quan thi hành án dân sự còn phải nắm vững được tất cả những vấn đề khác có liên quan đến việc thi hành án như địa chỉ, tài sản, thu nhập...của người phải thi hành án. Tuy nhiên, người phải thi hành án thường giấu giếm các thông tin về địa chỉ, tài sản, thu nhập của họ...để trốn tránh việc thi hành án. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã từng bước được hoàn thiện tạo ra hành lang pháp lý cần thiết để hoạt động cưỡng chế thi hành bản án nói chung và cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại nói riêng diễn ra thuận lợi, có hiệu quả. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các thông tư, quy chế có liên quan vẫn còn những hạn chế nhất định dẫn đến thực tiễn tổ chức cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. “Công lý bị trì hoãn cũng có nghĩa là công lý bị từ chối” (Justice delayed is justice denied). Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đang đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội, đòi hỏi các cơ quan THADS phải có những nỗ lực, chuyển mình, từ tư duy, nhận thức cho đến những hành động cụ thể là việc làm có tính cấp bách và có ý nghĩa chiến lược, nhất là việc việc thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại lại càng cấp bách, góp phần giải phóng nguồn lực kinh tế bị “đóng băng” trong các khoản nợ xấu, thúc đẩy các giao dịch liên quan đến kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho xã hội.... Bằng đề tài “Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn từ thành phố Hà Nội” luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành án bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự, đem đến cho người đọc cái nhìn toàn cảnh về thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội, chỉ rõ và phân tích nguyên nhân của những vướng mắc từ đó kiến nghị một số giải 2 pháp để nâng cao chất lượng công tác cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong khoảng thời gian năm năm trở lại đây chứng kiến sự gia tăng đáng kể các đề tài nghiên cứu về THADS, có thể kể đến các đề tài: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới ” do Bộ Tư pháp chủ trì. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” do Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp chủ trì. - Các sách “Kỹ năng thi hành án dân sự” của Học viện Tư pháp; Giáo trình “Luật Thi hành án dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội; “Sổ tay Chấp hành viên” của tác giả Lê Thu Hà; “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, Lê Thị Kim Dung; “Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Văn Luyện... - Các đề tài luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” luận án của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động THADS ở Việt Nam hiện nay” luận án của tác giả Nguyễn Quang Thái; “Hiệu qủa áp dụng pháp luật trong THADS ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình Quyền; “Giám sát THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Thế Anh... - Đối với các đề tài nghiên cứu về cưỡng chế thi hành án: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Lê Anh Tuấn, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2017; “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Lê Xuân Tùng, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2016; “Biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản trong thi hành án dân sự”, Nguyễn Thanh Phong, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2011; “Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Lê Đình Nam, luận văn thạc sĩ luật 3 học, 2012. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học như: “Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Phương Thảo, tạp chí Luật học số 11/2018; “Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Doãn Phương, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 08/2016… Nhìn chung, các công trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, các công trình này đều chú trọng nghiên cứu toàn diện về cưỡng chế thi hành án, chưa có công trình nào tập trung đi sâu vào phân tích cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự, đặc biệt là của địa phương có những đặc thù riêng biệt với lượng án nhiều, phức tạp nhất cả nước như Hà Nội. Vì vậy, sau khi nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm, phân tích, đánh giá của các công trình khoa học trên, tác giả xác định việc nghiên cứu chuyên sâu cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội là cần thiết và có giá trị áp dụng thực tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự; thực tiễn áp dụng cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội (trong đó tập trung đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn áp dụng cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự tại Hà Nội), luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trước yêu cầu mới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Phân tích khái niệm, đặc điểm; vai trò và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự; pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại Việt - Phân tích, đánh giá tác động của vị trí địa lý, tự nhiên và kinh tế - xã hội tác động đến việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự thành phố Hà Nội; phân tích những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại Hà Nội. - Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản quy định của pháp luật THADS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có phạm vi nghiên cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau và với nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu vào những nội dung cơ bản như sau: - Nghiên cứu cơ quan trực tiếp tổ chức THADS trong thành phố Hà Nội gồm cơ quan THADS cấp thành phố (Cục THADS thành phố Hà Nội) và cơ quan THADS cấp huyện (Chi cục THADS quận, huyện, thị xã trực thuộc) với các cơ 5 quan có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan THADS. Các “cơ quan” trong phạm vi nghiên cứu của luận văn là các cơ quan Nhà nước hoặc đơn vị chuyên môn thuộc cơ quan Nhà nước. - Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự và đánh giá thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội. 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; về đổi mới và tổ chức hoạt động của nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng sử dụng các quan điểm khoa học được rút ra từ các công trình nghiên cứu trước đó. Các phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Để hoàn thành luận văn, tác giả cũng sử dụng các phương pháp truyền thống khác như phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, thống kê...., trong đó: - Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp được sử dụng chủ yếu tại Chương 1, nêu lên các cơ sở lý thuyết của vấn đề đặt ra, từ đó khái quát hóa thành những luận điểm, quan điểm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội dung của luận văn. - Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng nhằm làm rõ những nội dung của Chương 2. Đây là chương phân tích thực tiễn về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội với những ví dụ, số liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế tạo cơ sở đề xuất các giải pháp tại Chương 3. Ngoài ra phương pháp phân tích cũng được áp dụng nhằm làm sáng tỏ những nhận định, quan điểm đã được đưa ra về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn. - Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 để làm rõ những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về thực tiễn cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân 7 sự tại thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. - Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự hiện nay và thực tiễn tại thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được, nguyên nhân của kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp luật về thi hành án dân sự. - Luận văn đã đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng thi hành án dân sự công tác thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội từ nay và tầm nhìn trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương, gồm: - Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cưỡng chế thi hành bản án thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự. - Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại tại thành phố Hà Nội. - Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH BẢN ÁN VỀ THU HỒI NỢ CHO NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.Khái niệm và vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành bản án dân sự và cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự Hoạt động Thi hành án dân sự được hiểu là quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên khi được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác ghi nhận. Tuy nhiên, khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án, nếu người phải thi hành án mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trốn tránh, trì hoãn, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì lúc này Cưỡng chế thi hành án được xem là công cụ hữu hiệu nhất để bản án, quyết định của Tòa án được thực thi triệt để. Tại điều 45 và Điều 46 - Luật thi hành án dân sự cũng quy định sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không thi hành hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Vậy cưỡng chế thi hành bản án dân sự được hiểu như thế nào? Cưỡng chế Nhà nước là dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường xuyên được áp dụng trong quản lý Nhà nước [32-Tr.63]. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng quyền lực nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân 9 sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án. Bản án là văn bản ghi nhận phán quyết của Toà án sau khi xét xử một vụ án.Thuật ngữ “bản án” được sử dụng lần đầu tyên tại Sắc lệnh thiết lập các toà án quân sự ngày 13/9/1945. Tuy nhiên, đến ngày 3/3/1969 Toà án nhân dân tối cao mới ban hành Thông tư số 1-UB hướng dẫn về cơ cấu bản án và cách viết bản án. Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ viết bản án. Một số nước, thuật ngữ bản án chỉ dùng trong trường hợp xét xử vụ án hình sự, còn trong việc giải quyết vụ kiện dân sự thì văn bản ghi nhận quyết định của toà án tuyên xử gọi là quyết định của toà án. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hình sự cũng như dân sự đều dùng thuật ngữ chung là bản án. Bản án trong lĩnh vực hình sự gọi là bản án hình sự. Bản án trong lĩnh vực dân sự gọi là bản án dân sự [32-Tr.63]. Cưỡng chế thi hành án bản án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của các cơ quan có thẩm quyền thi hành án, do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án. Như vậy, từ những khái niệm này có thể xác định được những vấn đề về cưỡng chế thi hành bản án dân sự như sau: - Chủ thể áp dụng cưỡng chế thi hành án là các Chấp hành viên được cơ quan thi hành án phân công theo quyết định phân công để giải quyết thi hành án theo từng vụ việc cụ thể. - Khách thể: là việc thực thi các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền khác. 10 - Đối tượng: là người phải thi hành án được nêu trong phán quyết của Tòa án, có thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan… - Mục đích áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành bản án dân sự là buộc người phải thi hành án thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản, hoặc cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Trong phạm vi bài viết, luận văn chỉ tập trung vào mục đích cưỡng chế thi hành bản án dân sự nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại. Trong đó, thu hồi nợ được hiểu là là yêu cầu khách nợ thanh toán cho chủ nợ các khoản tiền, tài sản khác đến hạn/quá hạn mà khách nợ phải trả cho chủ nợ theo hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa chủ nợ và khách nợ hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [19-Tr.62]. Doanh nghiệp đạt trạng thái hoạt động lý tưởng khi không nợ quá hạn và không bị doanh nghiệp nào đó chiếm dụng vốn quá thời gian quy định. Tuy nhiên, thật khó để tìm ra doanh nghiệp nào có thể đạt được trạng thái này trong hàng trăm ngàn doanh nghiệp tại Việt Nam. Trên thực tế, các doanh nghiệp đều muốn chiếm dụng vốn được của doanh nghiệp khác càng lâu, càng có lợi cho mình, đặc biệt khi mà hoàn cảnh kinh tế khó khăn như những năm gần đây. Và bằng chứng là hầu hết các doanh nghiệp bị phá sản bởi không thể thanh toán được các khoản nợ, hoặc không thể thanh khoản các khoản nợ của khách nợ quá hạn. Như vậy có thể hiểu cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là: là biện pháp thi hành án dân sự dùng quyền lực Nhà nước nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ về tài sản để thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, do Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành nhưng không tự nguyện thi hành án. Cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại trong thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, cưỡng chế thu hồi nợ thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Chỉ có cơ quan chức năng và 11 người có thẩm quyền được Nhà nước quy định mới được phép áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo luật định. Ở nước ta, thẩm quyền thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc về cơ quan Thi hành án dân sự các cấp và người có thẩm quyền là các Chấp hành viên được phân công thực hiện nhiệm vụ. Thứ hai, cưỡng chế thi hành án là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án dân sự. Điều 9 Luật Thi hành án dân sự quy định: “1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. 2. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của luật này.” Luật này cũng quy định người phải thi hành án có thời gian tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày họ nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Như vậy, tinh thần của Điều luật đã thể hiện quan điểm việc thi hành án được tổ chức tuân theo nguyên tắc kết hợp giữa thái độ tự nguyện của người phải thi hành án và sự cưỡng chế của Nhà nước thông qua hoạt động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên. Tuy nhiên, có thể hiểu Nhà nước đã trao cho đương sự quyền lựa chọn phương thức thi hành án, và sự tự nguyện thi hành án được khuyến khích thực hiện trước khi Nhà nước phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Thứ ba,cưỡng chế thi hành án bản án dân sự không chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với người phải thi hành án mà tất cả những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều phải tôn trọng và thực hiện. Nói một cách khác, để đảm bảo hoạt động cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều phải có trách nhiệm phối hợp và thực hiện. Chẳng hạn Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông A, trong khi đó gia đình ông B hiện đang ở nhờ trên diện tích đất này thì ngoài ông A, gia đình ông B cũng phải có trách nhiệm thực hiện quyết định này của cơ quan thi hành án. Thứ tư, người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án còn phải 12 chịu tất cả các chi phí để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án, như chi phí cho việc định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản, tiền bồi dưỡng cho những người trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án. Thứ năm, việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Chấp hành viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phải tiến hành xác minh điều kiện của người phải thi hành án để xem người này có hay không có điều kiện thi hành án. Quy định này thể hiện quan điểm nhân đạo của Nhà nước, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án, đồng thời cũng đảm bảo hoạt động cưỡng chế khi được áp dụng sẽ đạt hiệu quả khả thi trong thực tiễn. Ngoài những đặc điểm chung, hoạt động cưỡng chế thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại cũng có đặc điểm riêng. Đối tượng nhắm đến của hoạt động này không bao gồm hành vi của người phải thi hành án mà chỉ là các nghĩa vụ về tài sản của người phải thi hành án đối với các Ngân hàng thương mại. Từ đặc điểm này đã xác định không phải tất cả biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật Thi hành án dân sự đều được áp dụng, mà chỉ những biện pháp cưỡng chế mà đối tượng mà nó nhắm đến là tài sản của người phải thi hành án nhằm mục đích thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại. 1.1.2. Vai trò của cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh, hiệu quả bản án, quyết định của Tòa án đối với các nghĩa vụ về tài sản, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan. Pháp luật quy định và đề cao tính tự nguyện thi hành của người phải thi hành án theo phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, mà chủ yếu xuất phát từ phía người phải thi hành án, việc để các bên liên quan tự nguyện chấp hành đã không mang lại hiệu quả thi hành án cao. Các biện pháp cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương 13 mại bằng hiệu lực cưỡng chế Nhà nước mang tính bắt buộc của mình trên thực tiễn đã chứng minh tính hiệu quả cao và kịp thời. Nếu không có chế định cưỡng chế nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại, các bên đương sự sẽ có tâm lý chây ì và thiếu tôn trọng phán quyết của Tòa án nói riêng, pháp luật của Nhà nước nói chung vì cho rằng Nhà nước thiếu cơ chế xử lý đối với các nghĩa vụ mà họ phải thi hành, từ đó dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng thương mại không được đảm bảo. Đối với những người phải thi hành án có thái độ không hợp tác, chống đối thì cưỡng chế thi hành án sẽ là biện pháp sử dụng sức mạnh Nhà nước buộc họ phải chấp hành để đảm bảo lợi ích hợp pháp bị xâm hại được khôi phục. [32-Tr.63] Góp phần nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự. Nói như vậy bởi lẽ giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng nhằm đưa phán quyết của Tòa án thực thi trong thực tiễn. Và cưỡng chế thi hành án nói chung, cưỡng chế thi hành bản án nhằm thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại nói riêng khi được áp dụng và đạt hiệu quả thì không chỉ phán quyết của Tòa án được thực thi, mà nó còn mang lại những hiệu quả gián tiếp đối với các giai đoạn tố tụng. Để giải quyết một vụ án hình sự, phải trải qua các giai đoạn tố tụng theo những thủ tục, trình tự chặt chẽ do luật định. Tuy nhiên, các giai đoạn tố tụng trước đó gần như sẽ không thể hiện được nhiều giá trị, bởi nếu thiếu đi giai đoạn thi hành án dân sự thì phán quyết của Tòa án dù trong lĩnh vực hình sự hay dân sự cũng đều khó có thể được thực thi một cách đầy đủ, trọn vẹn, thậm chí không thể thực hiện. Vì vậy, kết quả của hoạt động cưỡng chế thi hành án chính là sự phản ánh hiệu quả và giá trị của hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Ngoài ra, hiệu lực của hoạt động cưỡng chế có tác dụng lớn trong việc răn đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người phải thi hành án, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân, tăng cường pháp chế. Rõ ràng, với những kết quả khả quan đã đạt được, cưỡng chế thi hành án dân sự giúp người dân hiểu rằng Nhà nước có đủ quyền năng pháp lý để thiết lập lại và ổn định trật tự xã hội. Vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc sử dụng quyền lực của Nhà 14 nước đã có tác dụng trong việc răn đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người phải thi hành án nói riêng, ý thức của người dân nói chung. Đồng thời, hoạt động cưỡng chế thi hành án vô hình chung cũng góp phần nâng cao ý thức, thái độ tuân thủ pháp luật của người dân, và cao hơn là tăng cường pháp chế. 1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò và các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự Pháp luật về cưỡng chế thi hành bản án về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật điều chỉnh, quy định về vấn đề cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm mục đích thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại. Các quy định này được cụ thể hóa trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (các Nghị định, Thông tư và các văn bản hưỡng dẫn chuyên ngành). Bên cạnh đó, còn có các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động cưỡng chế trong lĩnh vực đất đai, ngân hàng… Các quy định này nêu rõ những hình thức, biện pháp, cách thức, thủ tục thực hiện việc cưỡng chế; quy định rõ ai là người thẩm quyền được áp dụng biện pháp cưỡng chế, chủ thể bị cưỡng chế là ai, đối tượng bị cưỡng chế, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong thực hiện tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự.[19-Tr.62] Như vậy, có thể hiểu rằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án bản án dân sự về thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các vấn đề về trình tự, thủ tục, đối tượng, chủ thể và các vấn đề khác của chế định cưỡng chế nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án để thu hồi nợ cho các Ngân hàng thương mại. Cưỡng chế thi hành án bản án thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại là giải pháp cuối cùng được áp dụng khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan