Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành...

Tài liệu Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh thcs hướng về biển đảo quê hương bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia trên biển

.DOC
23
68908
94

Mô tả:

CUỘC THI “ VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỀ GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG TRONG THỰC TIỄN” Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đan Phượng Trường THPT Đan Phượng Địa chỉ: Thị trấn Phùng – Đan Phượng – Hà Nội Email:…………………………………………… SĐT:…………………………………………… Thông tin học sinh: Họ và tên: Nguyễn Thị Ninh Ngày sinh: 12/07/1997 Trần Thị Kim Ngân Lớp: 12A11 1 Ngày sinh: 27/7/1997 1) TÊN TÌNH HUỐNG “HƯỚNG VỀ BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG: BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ VÀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN BIỂN" Những kiến thức liên môn dự kiến áp dụng trong bài thi: môn Địa lý, môn Lịch sử, môn Ngữ văn, môn Giáo dục quốc phòng, môn Giáo dục công dân. Đặc biệt là kiến thức môn Địa lý. 2) MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG Từ xưa đến nay, Trung Quốc luôn có ý đồ xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam. Mới đây, Trung Quốc đã có những hành động gây hấn ở biển Đông. Vì vậy việc giải quyết vấn đề biển Đông sẽ: - Khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở biển Đông, các đảo ven bờ và đặc biệt là hai quần đảo xa bờ Hoàng Sa và Trường Sa. - Đập tan âm mưu xâm chiếm biển Đông của Trung Quốc. - Vùng biển đảo nước ta có nhiều tài nguyên quan trọng giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và chính trị của nước ta. 3. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG - Sử dụng kiến thức Địa lý + Địa lý 12 bài 2: “ Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ”; bài 8: “ Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển” và bài 42: “ Vấn đề phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng ở biển Đông và các đảo, quần đảo” + Địa lý 11 bài 10: “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ( Trung Quốc)” - Từ sách lịch sử 11 và 12 thấy được những hành động của triều đình nhà Nguyễn, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ về việc cai trị toàn lãnh thổ nước ta nhất là trong việc cai trị ngoài vùng biển nước ta - Kiến thức môn Giáo dục quốc phòng 11 bài 2: “ Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh” và bài 3: “ Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia” - Áp dụng kiến thức môn Giáo dục công dân 12 bài 10: “ Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại” - Vận dụng những kiến thức của môn Ngữ văn bài tập làm văn thuyết minh – Ngữ văn 11 và Luyện tập làm văn Nghị luận – Ngữ văn 10, 11, 12. 2 4) GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG Trong buổi ngoại khóa đầu tuần của trường trung học phổ thông Đan Phượng, tuyên truyền cho các bạn học sinh những thông tin và kiến thức về chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia nhằm nâng cao hiểu biết của học sinh về chủ quyền quốc gia và khơi dậy lòng yêu nước trong mỗi người: - Âm mưu và hành động của Trung Quốc đối với biển Đông -Những giải pháp của Việt Nam trước những hành động của Trung Quốc - Đưa ra các tài liệu chứng minh chủ quyền biển – đảo Cuối buổi ngoại khóa, đưa ra những câu hỏi để kiềm tra những kiến thức mà học sinh đã nắm được trong buổi ngoại khóa và từ đó mỗi học sinh có ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối với chủ quyền biền – đảo. 5. THUYẾT MINH TIẾN TRÌNH GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG * Âm mưu của Trung Quốc đối với biển Đông: Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có âm mưu xâm chiếm biển Đông. Vậy nguyên nhân vì sao Trung Quốc lại có ý đồ như vậy? Thứ nhất, mục tiêu của Trung Quốc là phấn đấu đến năm 2050 vươn lên trở thành siêu cường thế giới ngang hàng với Mỹ. Do kinh tế phát triển nhanh, nguồn tài nguyên thiên nhiên và năng lượng trong nước có hạn nên Trung Quốc đã trở thành "con rồng đói" về nguyên, nhiên liệu. Đồng thời, để có thể chuyên chở, nhập khẩu nguyên nhiên liệu và xuất nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc ngày càng coi trọng quyền tự do hàng hải và an toàn thương mại hàng hải. Thứ hai, từ những năm 1990, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế, Trung Quốc bắt đầu xây dựng và triển khai chiến lược biển mới, đẩy mạnh sự kiểm soát và khai thác các vùng biển gần và vươn ra các đại dương. Thứ ba, biển Đông có nguồn tài nguyên khoáng sản(đặc biệt là dầu khí) với trữ lượng lớn và nguồn tài nguyên sinh vật ( tôm, cá,… và có nhiều loài hải sản có giá trị cao như: tôm hùm, sò huyết, đồi mồi,…) vô cùng phong phú. Không những vậy biển Đông còn có vị trí đặc biệt quan trọng cả về kinh tế và chính trị:Biển Đông là tuyến vận tải của hơn 80% hàng hóa chiến lược của khu vực Đông Bắc Á - trong đó bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, - và hơn 40 % hàng 3 hóa chiến lược của hầu hết các quốc gia phương Tây. Với khoảng 70% lượng dầu khí nhập khẩu đi qua biển Đông, Trung Quốc coi biển Đông là “con đường sinh mệnh” của mình . *Những hành động của Trung Quốc trên biển Đông:Số vụ việc gây hấn của Trung Quốc với các nước láng giềng tăng gấp 3 lần so với năm 2011, mức độ nghiêm trọng hơn, phạm vi mở rộng hơn và xâm phạm sâu hơn vào thềm lục địa của các nước ở Biển Đông Thứ nhất, Trung quốc chính thức đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” vào tháng 5/2009 bằng cách đính kèm một bản đồ vẽ đường yêu sách này kèm theo công hàm gửi Liên Hợp quốc phản đối Báo cáo của Việt Nam và Báo cáo chung Việt NamMalaysia về ranh giới thềm lục địa được vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, theo đó đòi hỏi chủ quyền 2 quần đảo gọi là “Tây Sa” (Hoàng Sa) và “Nam Sa” (Trường Sa) và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng của 2 quần đảo này. Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, giáo giục ý thức “quốc gia đại dương”, khẳng định các yêu sách chủ quyền biển. Báo chí Trung Quốc đăng tải một cách có hệ thống các bài viết kích động dư luận, vu cáo các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam, chiếm đoạt tài nguyên biển của Trung Quốc Thứ ba, ráo riết tiến hành công tác xây dựng Pháp luật về biển để làm cơ sở pháp lý triển khai chiến lược biển. Thứ tư, ra sức tăng cường xây dựng tiềm lực quốc phòng, đặc biệt là không quân và hải quân (tàu sân bay, tàu ngầm, tàu khu trục tên lửa, máy bay SU 27, SU 30, tiếp dầu trên không, tổ chức tập trận hải quân). Thứ năm, củng cố và mở rộng các vị trí đã chiếm đóng trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. 4 + Trung Quốc đã đặt nhiều giàn khoan dầu khí tại biển Đông. Năm ngoái Trung Quốc đã đặt hàng một giàn khoan lớn tải trọng 30.000 tấn, nhằm đưa ra khai thác ở Biển Đông năm 2016. Nam nay, vào ngày 1/5, Trung Quốc đã đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tháng 7 Trung Quốc kéo Hải Dương 981 về gần Hải Nam. Tiếp đó, Nam Hải 9 (Nanhai Jiu Hao) là giàn khoan nước sâu thứ hai của Trung Quốc đưa vào sử dụng ở biển Đông vào ngày 20/6. Giàn khoan Hải Dương 981 Giàn khoan Nam Hải 9 Không những vậy, tàu của Trung Quốc đâm va , phun vòi rồng vào tàu cá của ngư dân hay tàu của cảnh sát biển Việt Nam Trên không, Trung Quốc đã sử dụng nhiều lượt máy bay tuần thám, trinh sát, trực thăng bay nhiều vòng trên các tàu Việt Nam ở độ cao từ 300 - 1500 mét để trinh sát, đe dọa, gây tâm lý căng thẳng cho lực lượng tàu Việt Nam. 5 Tàu hải giám 2168 của Trung Quốc mở hết tốc lực truy cản tàu Cảnh sát biển 4032 của Việt Nam. Tàu Trung Quốc đâm va vào tàu cá của ngư dân Việt Nam Tàu Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu cảnh sát biển Việt Nam Những hành động trên của Trung Quốc đã gây ra thiệt hại không nhỏ về người và tài sản đối với Việt Nam 6 Ngư dân Việt nam bị Trung Quốc đánh ở ngư trường Hoàng Sa Thứ sáu, Trung Quốc thực hiện chính sách vừa lôi kéo vừa chia rẽ các nước ASEAN, dùng nước này ép nước kia, hạn chế vai trò và ảnh hưởng của các nước lớn khác như Mỹ, Nhật; tập trung sức mạnh mũi nhọn sức ép vào Việt Nam. Trước những âm mưu và hành động của Trung Quốc, Việt Nam cần có những hành động và chủ trương nhằm ngăn chặn Trung Quốc xâm chiếm Biển Đông 7 Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982 Nội thủy Bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở (phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy. Lãnh hải Vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều ngang 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại không gây hại" mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ cũng có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh. Vùng nước quần đảo Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo trong phần IV, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, đảm bảo rằng các điểm này phải đủ gần 8 Các vùng biển theo luật biển quốc tế Khoảng cách của quần đảo Hoàng Sa Về khoảng cách đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần Việt Nam nhất. Khoảng cách từ đảo Tri Tôn (15o47'N, 111o12'E) tới Lý Sơn hay Cù lao Ré (15o22'N, 109o07'E) là 2 độ 03 phút trên thước đo khoảng cách vĩ độ, tức chỉ có 123 hải lý. Nếu lại lấy toạ độ (Lý Sơn 15o23.1'N, 109o09.0'E) từ trong bản tuyên-cáo đường cơ-sở nội-hải của chính-quyền CHXHCN ViệtNam (Declaration on Baseline of Territorial waters, 12 Nov. 1982) nhau một cách thích đáng. Mọi vùng thì khoảng cách đến bờ Cù-lao Ré nước bên trong đường cơ sở này sẽ thu ngắn lại dưới 121 hải-lý. là vùng nước quần đảo và được coi như Từ đảo Tri-Tôn này đến Mũi là một phần của lãnh hải quốc gia đó. Ba Làng An (Cap Batangan 15o14'N, 108o56'E) tức đất liền Vùng tiếp giáp lãnh hải lục-địa Việt-Nam, khoảng cách đo Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh được 135 hải-lý. hải là một vành đai có bề rộng 12 hải Trong khi đó, khoảng cách lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam đây, nước chủ có thể vẫn thực thi luật xa tới 140 hải lý (đảo Hoàng Sa pháp của mình đối với các hoạt động 16o32N, 111o36 E và Ling-sui Pt như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp hay Leong-soi Pt - 18o22 N, pháp. 110o03 E). Vùng đặc quyền kinh tế Khoảng cách từ Hoàng Sa tới Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. đất liền lục địa Trung Hoa còn xa Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai hơn rất nhiều, tối thiểu là 235 hải thác đối với tất cả các tài nguyên thiên lý. nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá, tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm. Thềm lục địa Được định nghĩa là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn 9 hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống. Căn cứ vào Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982: Nội dung công ước có một loạt điều khoản. Những điều khoản quan trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh các vùng đặc quyền kinh tế quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp. Từ đó có thể khẳng định chủ quyền của nước ta về biển – đảo cho các bạn học sinh biết. 10 Tiếp đến là vô số những bản đồ thế giới chứng minh chủ quyền của nước ta đối với biển Đông và 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Dưới đây là một số bản đồ: Bản đồ Asia noviter delineata do Willem Janszoom Blaeu vẽ năm 1630 Tấm bản đồ do Thủ tướng Vương quốc Hà Lan Mark Rutte tặng Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 29/9/2011. Bản đồ này minh chứng Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. 11 Trong tập bản đồ Complete Atlas của Trung Quốc xuất bản 1917, không có bản đồ nào đề cập Tây Sa quần đảo và Nam Sa quần đảo như cách gọi hiện nay của Trung Quốc “An Nam đại quốc họa đồ” của giám mục người Pháp Louis Taberd (1838). Trên bản đồ này, dọc theo khu vực duyên hải và ngoài khơi An Nam có vẽ cụm đảo với dòng chữ Paracel (Cát Vàng) và đã được vùa Gia Long sáp nhập vào lãnh thổ An Nam từ năm 1816 Đại Nam nhất thống toàn đồ là bản đồ được vẽ theo lệnh của vua Minh Mạng, hoàn tất vào năm 1838. Trên bản đồ này đã thể hiện hình vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lãnh hải Việt Nam, và ghi chú là Hoàng Sa và Vạn 12 lý Trường Sa. Đại Nam nhất thống toàn đồ có vẽ gộp hai quần đảo Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa Theo TSKH Trần Đức Anh Sơn, lúc đầu những người đi khám phá Hoàng Sa và Trường Sa đã nghĩ rằng hai quần đảo này là một. Họ gọi tên là Bãi Cát Vàng, hayCồn Vàng, rồi gọi là Hoàng Sa. Về sau thì họ tách quần đảo này thành hai phần, gọi là Hoàng Sa và Bắc Hải. Kế đến họ gọi Bắc Hải là Vạn Lý Trường Sa như trong Đại Nam nhất thống toàn đồ. Sau cùng thì mới phân biệt rõ ràng là quần đảo Hoàng Savà quần đảo Trường Sa như hiện nay. Điều này cũng tương tự như cách gọi Hoàng Sa và Trường Sa của các nhà hàng hải phương Tây. Lúc đầu họ gọi chung 2 quần đảo này là Pracels hay Paracels. Về sau họ mới phân biệt Pracels hay Paracels để chỉ quần đảo Hoàng Sa và Spratlys để chỉ quần đảo Trường Sa. 13 Tấm bản đồ trong sách Khải đồng thuyết ước có vẽ Hoàng Sa Chử được in năm 1853 dưới triều vua Tự Đức (phần đảo Hoàng Sa được khoanh ô vuông đỏ). Bản đồ các nguồn năng lượng và nguyên liệu, ấn bản đặc biệt của Cục mỏ (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) xuất bản năm 1975 cho thấy, phần lãnh thổ Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Địa danh Đại Trường Sa trong tập Cảnh Hưng Giáp Ngọ Thuận Quảng bản đồ vẽ Nam. vào năm 1774. “Sách Khải đồng thuyết ước là sách giáo khoa tiểu học dưới triều Nguyễn. Việc địa danh Hoàng Sa Chử được đưa vào sách giáo khoa để dạy cho học sinh, chứng tỏ triều Nguyễn đã coi trong việc giáo dục ý thức chủ quyền quốc gia cho trẻ em đương thời” 14 Bằng chứng tiếp theo là Châu bản triều Nguyễn và Mộc bản triều Nguyễn: Châu bản triều Nguyễn Đây là tư liệu minh chứng đắt giá nhất, chứng cứ quan trọng, có giá trị lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Nhà nước ta. Đây là di sản quốc gia của Việt Nam, là nguồn tư liệu có giá trị cao nhất để khẳng định một cách trực tiếp và mạnh mẽ chủ quyền của vương triều Nguyễn Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, mà không có một nước thứ hai nào tham gia tranh chấp hiện nay có được nguồn tư liệu như thế này. Châu bản triều Nguyễn là các bản tấu, sớ của triều đình nhà Nguyễn (tính từ năm 1802 cho đến năm 1945) đã được nhà vua “ngự phê”, “ngự lãm”. Đặc biệt, ngày 14/5/2014, tại Quảng Châu (Trung Quốc), UNESCO đã chính thức công nhận Châu bản triều Nguyễn là "Di sản tư liệu, ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương". Điều này càng làm tăng thêm tính quốc tế, tính pháp lý khi được thừa nhận là giá trị di sản nhân loại. Tấu của Bộ Công về việc đoàn khảo sát Hoàng Sa do Đỗ Mậu Thưởng, Lê Trọng Bá trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được. Đoàn mang về 4 bức hoạ và 1 quyển nhật ký ghi chép. Bản tấu gồm 2 trang, ở quyển Minh Mệnh 68, trang 215 - 216 Tấu của Bộ Công về việc thường năm có lệ đưa binh thuyền vãng thám xứ Hoàng Sa thuộc hải cương nước ta để cho thuần thục đường đi. Nay đã khai xuân phải bắt đầu chuẩn bị cho kỳ tới. Nhưng công việc hiện rất nhiều, xin cho đình đến sang năm. Châu phê “đình”. Bản tấu gồm 2 trang, ở quyển Thiệu Trị 51, trang 235 - 236 Mộc bản triều Nguyễn là bản khắc gỗ chính sử của nhà Nguyễn, vua trực tiếp giao cho Quốc Sử quán soạn chính sử. Bản khắc gỗ bộ Quốc sử triều Nguyễn 15 Đại Nam thực lục Tiền biên và Chính biên, được biên soạn từ những năm đầu đời vua Gia Long, hoàn thành năm Đồng Khánh thứ 3 (1888). Soạn xong, vua cho phép khắc gỗ để in, thể hiện chính thức hoá của Nhà nước ở trình độ cao thời đó. Đây là bộ sử ghi lại trung thực các hoạt động của chúng ta tại Hoàng Sa, Trường Sa. năm 2007, Mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là "Di sản Tư liệu thế giới", từ đó có thể đánh giá được giá trị lịch sử Bản dập Mộc bản nói về vua Gia Long sai Cai cơ và pháp lý của tư liệu Võ Văn Phú cho mộ dân bổ sung vào đội Hoàng này. Sa Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật... Pháp đã đưa Hoàng Sa vào quản lý hành chính của tỉnh Quảng Nam, Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Cũng với tư cách là quốc gia thừa kế của Việt Nam, chính phủ Pháp đã cho xây dựng trạm khí tượng trên Hoàng Sa và cấp phép cho các công ty khai thác phân dơi trên quần đảo này… 16 Trạm quan trắc khí tượng do người Pháp xây dựng tại Hoàng Sa năm 1932 Người Pháp và người Việt Nam đồn trú tại Hoàng Sa đang đào giếng nước ngọt năm 1938 Bia chủ quyền do Pháp xây dựng tại Hoàng Sa những năm 1930. Bia này là sự tiếp nối bia chủ quyền được Vua Minh Mạng cho xây dựng tại Hoàng Sa đầu thế kỷ 19 Ngày 26/11/1937, Pháp phái kỹ sư trưởng công chính J. Gauthier ra Hoàng Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ và các điều kiện định cư ở quần đảo này. Tháng 6/1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Hoàng Sa. 17 Ngày 5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương J. Brévié ký quyết định tách đơn vị hành chính Hoàng Sa thành hai đơn vị hành chính “Croissant và các đảo phụ thuộc” và Amphitrite và các đảo phụ thuộc”. Đầu tháng 1/1947, một phái đoàn quân sự Pháp đến đảo Hoàng Sa. Ngày 14/10/1950, chính phủ Pháp chính thức trao cho chính phủ Bảo Đại quyền kiểm soát các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Biển Đông nổi sóng hay yên bình đang là một vấn đề được tất cả các quốc gia trong khu vực và thế giới quan tâm. Vậy quốc tế đã có thái độ như thế nào trước tình hình biển Đông hiện nay? Hoa Kỳ là nước đi đầu trong việc phê phán những việc làm sai trái của Trung Quốc. Tại các hội nghị ở PhnomPenh trong năm 2012 (ARF, EAS và diễn dàn ASEAN – Hoa Kỳ), Hoa Kỳ đã nhiều lần bày tỏ lo ngại về tình hình Biển Đông, kêu gọi “ tránh sự ép buộc, dọa dẫm, đe dọa và sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp” ở Biển Đông; giải quyết đa phương các tranh chấp ở Biển Đông. Nhiều Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ như John Kerry, John Mccain, Jim Webb, Joseph Lieberman … phát biểu phê phán mạnh mẽ các hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông. Điểm nổi bật là chính các nước Châu Âu đã đề xướng đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự và văn kiện của Hội nghị cấp cao ASEM 9 tại Lào, dẫn đến việc lần đầu tiên vấn đề Biển Đông được nêu ra tại Hội nghị cấp cao Á – Âu. Theo một số nguồn tin, Đại diện của Hội đồng Châu Âu (EU) đã triệu Đại sứ Trung Quốc tại Brussels lên để bày tỏ sự lo ngại của mình trước việc làm này của Trung Quốc. Trong Tuyên bố chung nhân chuyến thăm Nga của ông Trương Tấn Sang tháng 7/2012 và trong chuyến thăm Việt Nam của ông Méc-ve-đép tháng 11/2012, Nga đều khẳng định kiên trì hợp tác dầu khí với Việt Nam trên thềm lục địa của Việt Nam phù hợp các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982. 18 Nhật Bản công khai phê phán yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, cho rằng yêu sách của Trung Quốc vượt quá các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982; chủ động đề nghị thành lập Hội nghị cấp cao ASEAN – Nhật về an ninh biển. Các nước đều nhận ra rằng, Trung Quốc đã không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để thực hiện tham vọng của mình; Trung Quốc càng lớn mạnh thì càng hành động táo tợn. Những thái độ trên cho thấy các nước không thể im lặng ngồi nhìn Trung Quốc “vẽ lại bản đồ hàng hải thế giới” và áp đặt “luật chơi của Trung Quốc” trên đại dương. * Không những vậy nhà nước cần nâng cao hiểu biết của người dân về biển – đảo và khơi dậy tinh thần yêu nước, đoàn kết vốn có của nhân dân ta. Con đường dễ dàng tuyên truyền về biển đảo với nhân dân chính là thơ ca và âm nhạc: Có thể nói, trong những ngày biển Đông “dậy sóng” vừa qua; ngọn lửa thi ca biển đảo, thi ca yêu nước VN đã kịp bùng lên dữ dội, góp phần cổ động và hiệu triệu muôn trái tim VN cùng hướng về chủ quyền biển đảo thiêng liêng. 19 TỔ QUỐC NHÌN TỪ BIỂN Nguyễn Việt Chiến Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa Ngàn năm trước con theo cha xuống biển Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc Các con nằm thao thức phía Trường Sơn Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa Trong hồn người có ngọn sóng nào không TỔ QUỐC GỌI TÊN ( Trích) Nguyễn Phan Quế Mai Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ Thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông... Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo Lạc Long cha nay chưa thấy trở về Lời cha dặn phải giữ từng thước đất Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ Thương Hòn Mê bão tố phía âm u Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích Những đau thương trận mạc đã qua rồi Bao dáng núi còn mang hình góa phụ Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa Đã mười lần giặc đến tự biển Đông 20 HÌnh ảnh Trường Sa TỔ QUỐC VÀ CÁNH SÓNG Huệ triệu Lưng tựa núi, mắt nhìn hút biển Tổ quốc rộng dài cho tới tận Trường Sa Nửa phần đất thiêng liêng hình chữ S Biển phần kia máu thịt – nước ôm òa Lịch sử đã hoài thai từ lòng Mẹ Tổ quốc sinh thành trong tiếng sóng oa oa Rồi Mẹ đặt con lên chiếc nôi biển cả
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan