VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN XUÂN TÙNG
CÔNG LÝ VÀ SỰ THỂ HIỆN CÔNG LÝ
TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM
Ngành: Luật Hiến pháp và Hành chính
Mã số: 9 38 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
Hà Nội - năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Xuân Tùng
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước ...................................... 7
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ... 23
1.3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu .......................................... 25
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG LÝ VÀ SỰ THỂ
HIỆN CỦA CÔNG LÝ TRONG HIẾN PHÁP .................................................... 31
2.1. Khái niệm công lý ................................................................................... 31
2.2. Cơ sở kinh tế - xã hội, các thành tố thiết yếu, đặc điểm cơ bản và
phân loại công lý ............................................................................................ 33
2.3. Quá trình hình thành, tư tưởng và lý luận về công lý tại Việt Nam........ 62
2.4. Vai trò của hiến pháp và nội dung thể hiện công lý trong hiến pháp...... 71
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỂ HIỆN CÔNG LÝ TRONG HIẾN PHÁP
VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................... 89
3.1. Thực trạng thể hiện công lý trong Hiến pháp Việt Nam ......................... 89
3.2. Thực trạng bảo vệ công lý ở Việt Nam ................................................. 112
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY VÀ BẢO VỆ
CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................ 128
4.1. Yêu cầu thúc đẩy và bảo vệ công lý ...................................................... 128
4.2. Các quan điểm thúc đẩy và bảo vệ công lý ........................................... 135
4.3. Các giải pháp thúc đẩy và bảo vệ công lý ............................................. 139
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ.................................................... 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 159
ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CCTP
Cải cách tư pháp
CL
Công lý
CBXH
Công bằng xã hội
ĐCSVN
Đảng Cộng sản Việt Nam
KTTT
Kinh tế thị trường
NNPQ
Nhà nước pháp quyền
NXB
Nhà Xuất bản
Nghị quyết 49-
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính
NQ/TW
trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020
TA
Tòa án
TAND
Toà án nhân dân
VKSND
Viện Kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công lý là kết tinh của những nỗ lực, cố gắng không ngừng của nhân loại
để hiện thực hoá lý tưởng công bằng, là giá trị nền tảng, cốt lõi trong việc tổ
chức một xã hội trật tự, ổn định và hợp tác.
Trong lịch sử phát triển của Nhà nước cách mạng nhân dân, quan niệm về
công lý đã xuất hiện từ rất sớm, ngay từ năm 1945, với tư cách là một giá trị
“chính trị-tư pháp”, phản ánh bản chất ưu việt của chế độ mới và mang tính chất
định hướng phát triển sâu sắc cho nền tư pháp Việt Nam. Từ năm 1986, cùng với
chính sách nhất quán về đổi mới kinh tế và quyết tâm chính trị dân chủ hóa mọi
mặt của đời sống xã hội, CL cùng những giá trị thiên chức của mình đã được ghi
nhận trở lại, từng bước chiếm lĩnh một vị trí trọng yếu, thiêng liêng và trở thành
một nội dung căn bản tại các văn kiện chính trị-pháp lý quan trọng hàng đầu như
Cương lĩnh, Nghị quyết - văn kiện thể hiện đường lối cách mạng của ĐCSVN
hay Hiến pháp - đạo luật cơ bản, văn kiện thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của
mỗi Nhà nước và chế độ.
Trong NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, mỗi cá
nhân đều có quyền được sống trong môi trường xã hội ổn định và hợp tác. CL là
một giá trị căn bản, phổ quát của cộng đồng xã hội Việt Nam với ý nghĩa lớn lao,
niềm tin mãnh liệt về một trật tự xã hội ổn định, hợp tác trên nền tảng của lương
tri, lẽ phải, lẽ công bằng. Yêu cầu tiếp cận, thực thi, tôn trọng và bảo vệ CL là
những cụm từ đang ngày càng được sử dụng phổ biến, rộng rãi (1.640.000 kết
quả/0,36 giây trên công cụ Google) tại các văn kiện chính trị, pháp lý quan trọng
[1, 2, 3, 4], các bài phát biểu của lãnh đạo Đảng và Nhà nước [14, 15], trong lời
tuyên thệ nhậm chức của người đứng đầu cơ quan thực hiện quyền tư pháp
[108], trong hoạt động chất vấn của Quốc hội [115], hoạt động chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ [16], tại các tác phẩm báo chí đấu tranh bảo vệ các quyền cơ
bản [81], tại các công trình nghiên cứu cải cách pháp luật, CCTP [39] hay trong
hoạt động của các tổ chức xã hội [180].
1
Tuy nhiên, cho đến nay, CL còn chưa thực sự trở thành nguyên tắc cơ
bản, nền tảng trong tổ chức và quản lý xã hội. Sự thể hiện của CL thông qua các
chế định của Hiến pháp còn chưa được nhận diện, phân tích và làm rõ. Hiệu lực,
hiệu quả phát huy các giá trị CL của các chế định Hiến pháp còn nhiều hạn chế.
Hoạt động bảo vệ CL còn một số tồn tại, yếu kém. Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến những tồn tại, hạn chế nêu trên, trong đó đặc biệt nổi lên là lý luận về CL
trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN còn chưa được quan tâm
nghiên cứu một cách đầy đủ; Nhận thức của các cơ quan nhà nước và xã hội về
CL còn thiếu đầy đủ, sâu sắc và thống nhất; Việc nghiên cứu, triển khai toàn
diện các phương diện, giá trị của CL trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước còn chưa kịp thời; Vai trò của TA sau khi được Hiến pháp năm
2013 xác định là cơ quan thực hiện nhiệm vụ bảo vệ CL còn mờ nhạt, chưa được
đánh giá, nghiên cứu thấu đáo, cụ thể.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài"CL và sự thể hiện CL
trong Hiến pháp Việt Nam" là hết sức cấp thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về CL
và sự thể hiện của CL trong hiến pháp ở nước ta; phân tích, đánh giá những khó
khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế và yếu kém trong thực tiễn phát huy các giá trị
CL trong tổ chức, quản lý xã hội và trong hoạt động bảo vệ CL, tìm ra nguyên
nhân của thực trạng này. Từ đó, kiến nghị hoàn thiện hiến pháp và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động triển khai, phát huy các giá trị CL trong
hiến pháp, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách
nhiệm và hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, đồng thời, góp phần
hoàn thiện lý luận về CL trong NNPQ XHCN Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận án là:
- Thứ nhất, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về CL, bao gồm: nguồn
gốc; khái niệm; chức năng, vị trí, vai trò; phân loại; mối quan hệ; hệ thống các tư
tưởng, học thuyết; các phương diện thể hiện trong hiến pháp; thiết chế bảo vệ
2
CL; điều kiện đảm bảo; các tiêu chí đánh giá; và kinh nghiệm của một số quốc gia.
- Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng thể hiện CL trong các chế định
cơ bản của hiến pháp, kinh nghiệm hiến pháp một số quốc gia trong thể hiện CL.
Thực trạng phát huy các giá trị CL trong tổ chức, quản lý xã hội mà tập trung
nhất là trong hoạt động bảo vệ CL của các TA, cơ quan thực hiện quyền tư pháp
và là thiết chế trung tâm có nhiệm vụ bảo vệ CL.
- Thứ ba, từ những phân tích, đánh giá về lý luận và thực tiễn hoạt động bảo vệ
CL, luận án nêu lên những quan điểm, nguyên tắc cơ bản và các kiến nghị hoàn thiện
một số chế định của hiến pháp cũng như giải pháp chủ yếu góp phần tiếp tục nâng
cao hiệu quả thực thi và bảo vệ các giá trị của CL trong NNPQ XHCN Việt Nam.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về CL,
sự thể hiện của CL trong hiến pháp và thực tiễn hoạt động bảo vệ CL ở nước ta
hiện nay.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu về CL và hoạt động bảo vệ CL ở Việt
Nam, đồng thời có tham khảo, đánh giá kinh nghiệm một số quốc gia, bao gồm
Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Pháp, Đức, Ba Lan, Hoa Kỳ, Nam Phi… và đề
xuất giải pháp phù hợp với thực tiễn điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
- Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu từ khi thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà (1945) đến nay, trong đó tập trung vào giai đoạn từ
khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW và Hiến pháp năm 2013 đến nay, có tính đến
giai đoạn tuyên truyền, vận động cách mạng giai đoạn trước Cách mạng tháng
Tám và đề xuất những giải pháp đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm: Những tư tưởng, lý luận, học
thuyết về CL; một số bản Hiến pháp trên thế giới, các bản Hiến pháp Việt Nam,
đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 liên quan đến việc công nhận, thúc đẩy và bảo
vệ CL và Thực tiễn hoạt động bảo vệ CL tại Việt Nam.
3
4. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án phân tích, đánh giá, hệ thống hoá các công trình nghiên
cứu lý luận và thực tiễn trong và ngoài nước liên quan đến CL. Từ tổng quan
tình hình nghiên cứu, trên cơ sở các nguyên lý khoa học của Chủ nghĩa MácLênin, luận án định nghĩa khái niệm CL, làm rõ cơ sở kinh tế - xã hội, các thành
tố thiết yếu, đặc điểm cơ bản và phân loại CL, qua đó góp phần làm giàu lý luận
về CL trong NNPQ XHCN và triển khai hiệu quả hơn các giá trị CL trong Hiến
pháp năm 2013.
Thứ hai, luận án tập trung phân tích vai trò của hiến pháp và các phương
diện thể hiện cơ bản của CL trong Hiến pháp, qua đó luận giải CL là một giá trị
cơ bản trong mỗi cộng đồng xã hội và trong hoạt động tổ chức và quản lý một xã
hội tiến bộ, văn minh. CL thể hiện tính chính đáng/chính nghĩa của sự tồn tại của
một chính quyền cai trị, là biểu hiện sâu sắc của nền dân chủ và các giá trị của
quyền con người, giúp giảm thiểu các khuyết tật của chính thể đại diện, ngăn
ngừa sự tha hóa quyền lực, gắn kết và nâng cao sự đồng thuận xã hội... Luận án
cũng tập trung lý giải việc lý luận hiến pháp lựa chọn TA là thiết chế cơ bản có
nhiệm vụ bảo vệ CL từ những đặc trưng của nhánh quyền lực tư pháp, về vị trí
độc lập, trung lập về chính trị, về ý chí và quyết tâm bảo vệ lẽ phải, về yêu cầu
liêm chính, thái độ khách quan, vô tư, thận trọng, bình tĩnh, suy xét và với những
nguyên tắc tố tụng chặt chẽ, công bằng. Việc hệ thống hoá các quy định của hiến
pháp, luật pháp trong hoạt động thúc đẩy và bảo vệ CL thông qua các quy định
hiến pháp của một số quốc gia trên thế giới tại luận án cũng đã góp phần quan
trọng làm sáng tỏ các luận điểm nêu trên.
Thứ ba, qua phân tích các bản hiến pháp, đặc biệt là hiến pháp năm 2013,
luận án làm rõ các giá trị CL được thể hiện qua các khía cạnh, chế định cơ bản
của các bản Hiến pháp Việt Nam như Định danh và tuyên ngôn CL là một giá trị
cơ bản của cộng đồng xã hội; Khẳng định tính chính nghĩa của cuộc cách mạng
giành chính quyền và tính chính đáng trong sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước;
Bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là các quyền trong tố
4
tụng; Thiết lập cơ chế CL phân phối thông qua chế định về nền KTTT định
hướng XHCN... Luận án cũng phân tích và khẳng định, làm rõ vai trò của TA
với tư cách là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp và là thiết chế trung tâm
trong các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ CL.
Thứ tư, luận án khái quát bức tranh tổng thể về thực tiễn hoạt động bảo vệ
CL chủ yếu thông qua các tiêu chí về số lượng bản án phải sửa, huỷ thông qua
các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, qua đó xác định rõ ưu điểm của
những kết quả đã đạt được, đồng thời chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, yếu kém và
nguyên nhân của tình trạng này.
Thứ năm, mặc dù đã có nhiều tác giả ở các góc độ khác nhau có những kiến
nghị giải pháp liên quan đến thúc đẩy và bảo vệ CL, nhưng trên khía cạnh từng
yếu tố hoặc từng nhóm các yếu tố cụ thể, chưa xem xét ở góc độ hệ thống để
kiến nghị đối với hoạt động này. Luận án nêu rõ các quan điểm, nguyên tắc và đề
xuất một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp chủ yếu thúc đẩy và bảo vệ CL,
trong đó, có những đề xuất mới như tiếp tục nâng cao quyết tâm chính trị coi CL
là một giá trị căn bản trong tổ chức và quản lý xã hội; tiếp tục hoàn thiện một số
chế định của Hiến pháp năm 2013; nghiên cứu các biện pháp tổ chức triển khai
thi hành kịp thời, đồng bộ, hiệu quả Hiến pháp năm 2013 và các luật. Trong số
những giải pháp nêu trên, có những nhóm giải pháp mang tính cấp bách, có
những giải pháp lâu dài nhưng đều là những giải pháp căn bản và cần được thực
hiện trong mối tương quan, hỗ trợ lẫn nhau.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CL ở
Việt Nam trong bối cảnh cải cách hành chính, cải cách pháp luật, CCTP, xây
dựng NNPQ XHCN Việt Nam và hội nhập quốc tế sâu rộng. Kết quả nghiên cứu
của luận án sẽ góp phần đưa ra cách nhìn toàn diện, sâu sắc, khoa học về lý luận
và thực tiễn hoạt động thúc đẩy và bảo vệ CL ở nước ta, qua đó góp phần tích
cực bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả
hoạt động của các cơ quan nhà nước, đồng thời, góp phần hoàn thiện lý luận về CL.
5
Kết quả nghiên cứu luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
hoạt động nghiên cứu và giảng dạy lý luận nhà nước và pháp luật, là nguồn tham
khảo đối với việc xây dựng và hoàn thiện đường lối lãnh đạo của Đảng; sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp, các đạo luật về tố tụng và các văn bản có liên quan; đồng
thời, là nguồn tài liệu hữu ích phục vụ cho các nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp
trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
bốn chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận về công lý và sự thể hiện của công lý
trong hiến pháp
Chương 3. Thực trạng thể hiện công lý trong Hiến pháp và thực tiễn bảo vệ
công lý ở Việt Nam
Chương 4. Quan điểm và giải pháp thúc đẩy và bảo vệ công lý ở Việt Nam
hiện nay.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc và ngoài nƣớc
1.1.1. Các tư tưởng, học thuyết pháp lý - lý thuyết gốc về công lý
- Một số tư tưởng sơ khai về công lý
Các học thuyết, lý thuyết về CL có một chiều dài lịch sử hình thành và
phát triển khá dày dặn. Các nghiên cứu đều tựu chung cho rằng những ý niệm về
CL đã xuất hiện nhiều thế kỷ trước khi hình thành ngành triết học. Những tư
tưởng sơ khai về CL này xuất hiện đa dạng, ở nhiều loại hình ý thức xã hội khác
nhau như thần thoại, trường ca, bi kịch, tôn giáo…Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm:
Cuốn sách Thần thoại Hy Lạp do Nguyễn Văn Khỏa biên soạn, Nxb Văn
học (2012). Truyện thần thoại Hy Lạp (khoảng từ 2000 - 1100 TCN) quan niệm
CL là hoạt động xét xử của các TA (Judicial Justice) với hình ảnh khắc họa nữ
thần CL Thésmis một tay cầm cân, một tay cầm thanh kiếm, mắt bịt một băng
vải để chứng tỏ sự vô tư, không thiên vị, đem lại sự ổn định và phát triển hài hòa
của thế gian [80, Tr.37]. Tương tự, cuốn Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta
của X.X. A-Lếch-Xây-Ép, Nxb Pháp lý (1986) khắc họa hoạt động xét xử của
nước Nga cổ đại dưới dạng một cô gái tốt bụng mặc bộ lễ phục màu vàng, trên
đầu đội vương miện, ở cổ đeo dây chuyền bằng kim cương, điều đó có nghĩa là
trên thế gian này không có gì cao quý và giá trị hơn CL [17, Tr.165].
Cuốn sách Câu chuyện Kinh thánh của Selina Hastings, Nxb Tôn giáo
(2007) kể về câu truyện “Vườn địa đàng” (Sáng thế ký - năm 400 TCN) khởi đầu
cho CL thủ tục/CL tự nhiên (Procedural/Natural Justice), đó chính là CL của
lương tri, là nghĩa vụ thực thi công bằng, chặt chẽ về thủ tục nhằm chống lại
những thành kiến, định kiến thiên lệch [60].
Về vai trò của CL, tại cuốn Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước
Lưỡng Hà cổ đại của Nguyễn Anh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia (2008), CL
7
được coi là giá trị cốt lõi mang lại trật tự và sự hài hòa trong tổ chức và quản lý
xã hội. Bộ luật Hammurabi (ra đời khoảng từ 1792 - 1750 TCN) coi CL (mi-sara-am) là cơ sở của nền cai trị nhân từ, công bằng nhằm “phát huy chính nghĩa ở
đời, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh
không hà hiếp người yếu”, “đình chỉ phân tranh làm cho đất nước được hưởng
thái bình, nơi ăn chốn ở của nhân dân được che chở, không có gì phải lo âu sợ
hãi” và “để cho người cô quả có nơi nương tựa, để cho TA trong nước tiện việc
xét xử, để cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định, để cho những kẻ thiệt
thòi được trình bày chính nghĩa…” [130].
Tương tự, Kinh Thi, Nxb Đà Nẵng (2003) - bộ sách (khoảng năm 770
TCN) gồm những câu ca dao rất cổ về phong tục tốt xấu của Trung Hoa để các
nhà cai trị biết được sự “đắc thất” về chính trị cũng khẳng định nếu không có
CL, kẻ cai trị sẽ rắc họa xuống mãi cho dân chúng với hình ảnh “Cầm cân CL
quốc gia, Giữ gìn toàn cõi nước nhà bốn phương”…[82, Tr.234, 235].
Ngay từ rất sớm của nền văn minh nhân loại, CL đã trở thành công cụ
phản kháng để những người dân yếu ớt, bị áp bức mạnh mẽ đứng lên, dùng tiếng
nói của “thần CL” thách thức lại những điều luật phi lý, tàn bạo, bất công của kẻ
cai trị, chống lại sự tùy tiện, độc tài để bảo vệ địa vị của mình. Tại cuốn Bi kịch
Hy Lạp của Hoàng Hữu Đản, Nxb Giáo dục (2007), vở kịch “Antigone” của
Sophocle (496-406 TCN) coi CL là “luật lệ của thần linh”, là giới hạn của kẻ
cầm quyền với lập luận “Quốc gia là tài sản chung của nhân dân giao cho kẻ cầm
quyền quản lý; nhưng quản lý không có nghĩa là biến quốc gia thành của riêng,
muốn làm gì thì tùy ý, muốn giết ai thì tùy lòng” [51, Tr.163-222].
Tương tự, cuốn Tóm lược lịch sử về CL (A brief history of Justice), David
Johnston, Nxb Wiley-Blackwell (2011) cho rằng ngay tại Kinh Cựu ước (khoảng
từ năm 1200 TCN) đã coi CL như là sự đồng ý của Chúa về sự trừng phạt trực
tiếp kẻ xâm phạm; trừng phạt những người về sai phạm của họ với người khác;
và đặc biệt là sự trừng phạt đến cấp độ thứ ba, đó là trừng phạt những kẻ cai trị
mà không bảo vệ CL cho người nghèo và kẻ yếu thế [207, Tr. 22-25].
8
Về phân loại, các tư tưởng cổ đại cho rằng CL có thể được biểu thị là sự
ngang bằng trong trừng phạt, điển hình như Điều 196 hay Điều 230 Bộ luật
Hammurabi quy định “Kẻ nào làm hỏng mắt của người dân tự do, kẻ đó sẽ bị
người ta chọc mù mắt”, “Người thợ xây xây nhà không cẩn thận làm đổ nhà chết
con chủ nhà thì phải giết con người thợ xây”, hay là sự công bằng trong phân
phối như tại tác phẩm Illiad của Homer (khoảng 750-700 TCN), Nxb Thế giới
(2013), CL được quan niệm là “sự công bằng trong việc phân chia các phần
thưởng một cách xứng đáng tùy theo mức độ đóng góp, cống hiến được ghi nhận
mà không nhất thiết phải căn cứ vào thứ bậc xã hội” [70, Tr.101].
- Các lý thuyết gốc về CL
Các lý thuyết về CL được phát triển khá đa dạng, theo đó, các lý thuyết
gốc về CL đã hình thành và phát triển nhằm lý giải bản chất, cơ chế vận hành, vị
trí và các hình thức tồn tại của CL. Từ các công trình nghiên cứu, cần phải kể
đến ba lý thuyết CL tiêu biểu, bao gồm lý thuyết của Plato (427-347 TCN), lý
thuyết của Aristoste (384-322 TCN) và lý thuyết của Karl Marx (1818-1883).
- Lý thuyết Plato
Lý thuyết CL của Plato được trình bày chủ yếu trong tác phẩm Nền Cộng
hòa (khoảng năm 380 TCN) trong cuốn sách Plato chuyên khảo của Benjamin
Jowett & M.J.Knight, Nxb Văn hóa Thông tin (2008). Nhìn chung, Plato luôn
đặt CL trong khung khổ học thuyết về đạo đức với một số luận điểm cơ bản sau:
Một là, CL là một dạng phẩm hạnh cộng đồng. Trong một nhà nước lý
tưởng bao gồm 03 tầng lớp: bảo hộ, chiến binh và lao động thủ công, CL đòi hỏi
trật tự để mỗi tầng lớp, cá nhân làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. CL
là kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có đức hạnh tham gia
giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia. Sự cản trở nỗ lực thi hành bổn
phận và trách nhiệm của con người chính là nguyên nhân dẫn đến bất công.
Hai là, CL là phẩm hạnh giúp con người liên kết với nhau trong xã hội, là
sức mạnh mang lại sự hài hòa nội tại và những điều tốt đẹp trong xã hội. Trong
một thành bang lý tưởng có 04 phẩm hạnh cơ bản: thông thái, dũng cảm, sự tiết
9
chế và CL. Trong bốn phẩm hạnh đó, CL là yếu tố nuôi dưỡng, giúp cho ba
phẩm hạnh phía trước phát triển, từ đó giúp các cá nhân, các tầng lớp trong xã
hội tự tiết chế và làm đúng vai trò, bổn phận của mình, không can thiệp vào công
việc của cá nhân, tầng lớp khác. CL và lòng dũng cảm là những điều kiện cần
thiết cho đời sống tốt đẹp của đất nước, là đức hạnh bao trùm các đức hạnh khác.
Ba là, CL là hình thức đạo đức phổ biến mà bất cứ cá nhân nào cũng phải
tuân thủ, là nhận thức của công dân về các nghĩa vụ. CL là mệnh lệnh “để ngăn
chặn một người chiếm đoạt thứ mà thuộc về người khác hoặc ngăn chặn việc
chiếm đoạt những thứ gì thuộc về mình”, là luân lý có thiên chức là nuôi dưỡng,
bồi đắp một trật tự nội tại trong mỗi cá nhân mà ở đó nguyên tắc của lẽ phải và
sự khôn ngoan phải đứng trên mọi sự xô đẩy và cảm xúc của con người. Quan hệ
CL mang lại ích lợi cho tất cả các bên, giúp tâm trí, suy nghĩ của các bên đến gần
và phù hợp với nhau hơn, từ đó thuận nguyện với các yêu cầu của CL.
Bốn là, do CL là phẩm hạnh quan trọng của xã hội nên mỗi hình thái xã
hội có thể bị phê phán, kiểm soát và có thể được định hình lại dựa trên những
quan niệm về CL thông qua đấu tranh và các cuộc cách mạng. CL bao gồm
những gì tạo lên lợi ích chung, của cải và tự do và là điều kiện cần cho sự hiện
hữu của nhà nước, do đó, CL chính là trọng tâm của khoa học chính trị.
- Lý thuyết Aristoste
Lý thuyết CL của Aristoste được trình bày chủ yếu trong hai tác phẩm
Đạo đức Nicomachean (Nicomachean Ethics) và Chính trị luận (The Politics).
Những lý luận nền tảng này được khái quát, phân tích bởi nhiều nhà nghiên cứu,
trong đó điển hình là nghiên cứu của Anton-Hermann Chroust và David
L.Osborn tại bài viết Định nghĩa CL của Aristotle (Aristotle’s Conception of
Justice), Notre Dame Law Review (1942). Các luận điểm nổi bật trong lý luận
CL của Aristoste bao gồm:
Thứ nhất, CL là sản phẩm của một xã hội văn minh và là “trật tự của một
xã hội chính trị”. Khi không có đức hạnh, con người là “kẻ dã man nhất, đê tiện
nhất”, chỉ biết chiều theo nhục dục. Chính sự công chính, phân biệt thế nào là
công bằng, là lẽ phải đã tạo ra con người tốt hơn về đạo đức.
10
Thứ hai, CL được hình thành bằng sự thỏa thuận, quy ước tự nhiên hoặc
chính trị trong mỗi cộng đồng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cách
mạng là sự bất công và mỗi mô hình chính quyền đều phải dựa trên nền tảng CL.
Bất công sẽ trở nên tệ hại hơn khi đó là sự bất công được vũ trang. Người đứng
đầu mỗi chính quyền phải trung thành với cơ cấu chính trị của hiến pháp, có khả
năng điều hành, có đạo đức cá nhân và đặc biệt là phải tôn trọng CL tương hợp
với từng loại chính quyền. Ngược lại với mô hình này là sự chuyên chế bởi “Kẻ
chuyên chế cai trị bằng bạo lực mà không đếm xỉa đến CL và luật pháp”.
Thứ ba, CL có tính giai cấp sâu sắc. Mỗi mô hình thiết chế chính trị sẽ
dẫn đến cơ chế vận hành công lý khác nhau. Theo Aristotle, CL luôn mang tính
giai cấp. Điển hình như trong chế độ chính trị Quả đầu (thiểu số, chỉ lo quyền lợi
cho dân giàu), CL sẽ vận hành theo cơ chế “nếu mọi người giàu nghèo khác
nhau thì họ sẽ có những quyền khác nhau, những người đóng góp cho nhà nước
một đồng không thể có ngang quyền với những người đóng góp một trăm đồng”.
Ngược lại, trong chế độ chính trị Dân chủ (chỉ lo cho quyền lợi của dân nghèo),
CL sẽ vận hành theo cơ chế “mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, như vậy mọi
người đều có quyền ngang nhau [18, Tr.23].
Thứ tư, CL hàm ý tồn tại các quyền và có xung đột lợi ích, mọi người hối
thúc những yêu cầu và được căn chỉnh bằng những nguyên tắc hoặc chuẩn mực.
CL cấu thành từ sự đối xử với những người ngang hàng một cách bình đẳng và
những người không ngang hàng một cách không bình đẳng một cách tương xứng
với sự khác nhau đó. Điều này liên quan đến sự không thiên vị, một loại hình của
sự bình đẳng. Nói cách khác, CL không phải là phẩm chất phân biệt địa vị, giàu
có hay quý tộc, và do đó vị thẩm phán chỉ xem xét những những tình tiết của vụ
việc có liên quan đến luật pháp mà thôi.
Thứ năm, có hai hình thức tồn tại cơ bản của CL, bao gồm CL phân phối
(Distributive Justice) và CL cải tạo (Corrective Justice).
CL dựa trên sự “bình đẳng hình học”, cách thức, nỗ lực, cố gắng để công
bằng với mỗi người, đúng theo những gì mà người đó xứng đáng, được gọi là CL
11
phân phối. CL là cho mọi người những gì họ xứng đáng, trao cho mỗi người cái
họ đáng hưởng. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp và xây dựng
chính sách, vì vậy, một số nghiên cứu gọi đây là “CL chính phủ” (Goverment Justice).
CL cải tạo là nơi mà toà án sửa chữa lỗi lầm do một bên phạm phải đối
với bên khác, theo đó thẩm phán dựa trên một tỷ lệ mang “tính chất số học” (2:1,
3:1, 5:1...) giữa mức độ trừng phạt hoặc bồi thường đối với người gây ra thiệt
hại. CL cải tạo phát triển hình thức ngang bằng, quan hệ cân bằng thành sự công
bằng, phù hợp giữa sự trừng phạt và tội phạm. Thẩm phán có nhiệm vụ khôi
phục lại trạng thái cân bằng, nguyên trạng xã hội giữa các bên như trước khi có
hành động bất công bằng cách tước đoạt những lợi ích không công bằng có được
để bù đắp cho bị hại [18, Tr.49, Tr.61-62, Tr.267-295], [95, Tr.154], [110,
Tr.276-279], [225, Tr. 31, 32], [212, Tr.63].
- Lý thuyết Karl Marx
K. Marx đặt vấn đề CL trong tổng thể học thuyết về giai cấp thống trị và
đấu tranh giai cấp. Những luận điểm nổi bật của ông về CL được phân tích, đánh
giá và trình bày khá sâu sắc tại cuốn Marx and Justice-The Radical Critique of
Liberalism (Marx và CL - Phê bình chủ nghĩa tự do) của Allen E.Buchanan, Nxb
Metheuen (1984), bao gồm:
Một là, lý luận hình thái kinh tế - xã hội khẳng định cũng như những quan
hệ xã hội khác, CL là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp và tính lịch sử
sâu sắc. CL chỉ xuất hiện, hình thành khi các yếu tố kinh tế-xã hội của xã hội loài
người đã phát triển và đạt đến một trình độ nhất định. CL phụ thuộc chặt chẽ và
do mỗi hình thái kinh tế - xã hội mà nó tồn tại chi phối, quyết định. Ngược lại,
các giá trị của CL cùng với các quan hệ sản xuất khác có tác động trở lại, ảnh
hưởng mạnh mẽ, sâu rộng đến các phương thức tổ chức xã hội, từ đó thúc đẩy
hoặc cản trở, kìm hãm sự phát triển của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong mỗi chế độ, nội hàm về CL sẽ có các nội dung, tính chất và phương thức
vận hành khác nhau. Không tồn tại một thứ CL chung chung, trừu tượng, duy
tâm, siêu hình. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng CL có bản chất “vô vụ lợi”.
12
Trong bài viết Cơ sở kinh tế-xã hội cho sự hình thành và phát triển của
CL, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2015), với những luận cứ cụ thể, tác giả
Nguyễn Xuân Tùng cũng đã tập trung phân tích và làm rõ tính khoa học của học
thuyết này trong lý giải nguồn gốc và sự hình thành của CL.
Hai là, từ luận điểm nêu trên, ông nhấn mạnh về một sự dự đoán chắc
chắn của tội phạm có nguồn gốc từ hình thái kinh tế của xã hội tư sản, do đó, tội
phạm không chỉ thuần túy là nô lệ của CL mà cần phải chú ý xóa bỏ nguồn gốc
xã hội hay nguyên nhân giai cấp của tội phạm. Ông từ chối cách tiếp cận của cả
học thuyết cải tạo và công lợi, cho dù hình phạt là cơ chế cải thiện hay răn đe thì
cá nhân không thể bị trừng phạt bởi xã hội mới là nguồn gốc tội phạm.
Ba là, nguyên tắc phân phối theo nhu cầu. Ông đã liên hệ công bằng với
trình độ phát triển của sản xuất xã hội và cho rằng trong giai đoạn đầu việc phân
phối được thực hiện theo nguyên tắc đóng góp “làm theo năng lực, hưởng theo
lao động”. CL ở đây là nguyên tắc phân phối cho mỗi người dựa trên đóng góp
lao động của họ, từ đó hình thành nguyên tắc phân phối phúc lợi dựa trên nỗ lực,
cố gắng của người lao động. Khi chuyển sang giai đoạn của xã hội cộng sản, sản
phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để
kích thích lao động nữa thì thực hiện nguyên tắc mới là “làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu” [196, Tr.23-24, Tr.70-73], [23, Tr. 254].
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về CL
Tại Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về CL có ảnh hưởng hết sức sâu
rộng đến quá trình hình thành và phát triển lý luận về CL. Tại bài viết Tư tưởng
Hồ Chí Minh về CL của Nguyễn Xuân Tùng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
tháng 11 (260) năm 2014, tác giả đã khái quát những nội dung, giá trị cơ bản của
CL trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm: (1) Là hiện thân, giá trị của xã hội
văn minh, đối lập với trạng thái xã hội dã man, bán khai; (2) Là lẽ phải, lẽ công
bằng mà TA phải bảo vệ và mang lại cho mọi người dân; (3) Là quyền cơ bản,
chân chính của mỗi quốc gia, dân tộc; (4) Là vũ khí tư tưởng, chính trị, pháp lý
sắc bén góp phần làm sáng rạng tính chính nghĩa, chính đáng, hợp pháp, cũng
13
như bản chất của nhà nước thân dân, vì dân; (5) Là căn cứ pháp lý, là điểm tựa
đạo lý quốc tế vững chắc để lên án các cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa,
khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến gian khổ của nhân dân Việt
Nam, qua đó, bảo vệ hòa bình, tự do, công bằng và các quyền cơ bản của con người;
(6) Là giá trị phổ quát, là lương tri, phẩm giá tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ hướng tới.
Luận án tiến sỹ luật học Tư tưởng khoan dung và ý nghĩa hiện thời của nó
của Nguyễn Thị Phương Mai, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
(2010) cũng nhấn mạnh ở khía cạnh này, có thể khẳng định tư tưởng khoan dung
của Hồ Chí Minh được hình thành và dựa trên nền tảng của CL.
Bài viết Quan niệm về CL ở Việt Nam từ năm 1945 đến cuộc CCTP năm
1950, Nguyễn Xuân Tùng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2014) cũng có những
nhận định về ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về CL cũng như quá trình
phát triển nhận thức về CL, đặc biệt là sự du nhập, tiếp biến của các học thuyết
Mác - Lênin trong nhận thức về CL và xây dựng nền tư pháp nhân dân.
Về khái niệm CL, tại bài viết Một số vấn đề lý luận cơ bản về CL, Tạp chí
Công thương (2019), tác giả Trần Trí Dũng định nghĩa CL là lẽ đúng đắn mà
mọi người đều thừa nhận, dùng làm cơ sở để phán xét, để xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với các chủ thể tham gia trong những mối quan
hệ nhất định. Đây là một khái niệm tương đối phù hợp với bối cảnh CL trong tố tụng.
Ở Việt Nam, các học thuyết và lý luận cơ bản về CL cũng được tiếp tục
chú trọng chắt lọc, du nhập, nghiên cứu và truyền bá nhiều hơn, đặc biệt khi Việt
Nam phát triển và hoàn thiện học thuyết NNPQ XHCN và thực hiện công cuộc
CCTP từ năm 2002 đến nay. Các công trình nghiên cứu là sách tiêu biểu là Pháp
quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh của Vũ Đình Hòe, Nxb Văn hóa Thông tin
(2001); Quyền con người, GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb Khoa học xã
hội (2011); Vũ Trọng Khánh - Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên, Nhiều tác giả, Nxb
Tri thức (2015); CL và tiếp cận CL - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nguyễn
Đăng Dung và Vũ Công Giao đồng chủ biên, Nxb Hồng Đức (2018). Công trình
nghiên cứu là tạp chí tiêu biểu là Về khái niệm “CL” trong Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992, Nguyễn Xuân Tùng, Tạp chí Tổ chức nhà nước (2013)...
14
Nhìn chung, các nghiên cứu nêu trên đều tiếp tục tập trung phân tích và
làm rõ nguồn gốc, quan niệm, bản chất, nội dung, chức năng, vị trí, vai trò của
CL, từ đó góp phần phát triển và hoàn thiện các học thuyết về CL cũng như khả
năng ứng dụng trong tổ chức và quản lý xã hội nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
1.1.2. Nhóm các nghiên cứu về vai trò của công lý trong tổ chức và
quản lý xã hội
CL có một vai trò hết sức to lớn, ý nghĩa trong tổ chức, quản lý và vận
hành xã hội một cách trật tự, ổn định và văn minh. Các công trình nghiên cứu
chuyên ngành về ứng dụng này của CL khá đa dạng và phong phú.
Trước hết, phải kể đến một số nghiên cứu khẳng định tính đa dạng, năng
động trong quan niệm CL. Cuốn sách Nhân loại học về pháp luật- Một lý thuyết
so sánh (Anthropology of Law-A Comparative Theory) của Leopold Pospísil,
Nxb Đại học Yale (1971) coi quan niệm CL như một phần của nền văn hóa mỗi
dân tộc và sự đa dạng về văn hóa, tính cách sẽ mang lại những quan niệm về CL
khác nhau. Tại cuốn sách Vượt trên CL (Beyond Justice) của Agnes Heller, Nxb
Basil Blackwell Inc. (1987), phân tích bốn phương pháp tiếp cận cơ bản đưa đến
bốn định nghĩa khác nhau về CL, từ đó đưa ra những ứng dụng khác nhau của CL.
Các công trình nghiên cứu điển hình như Khế ước xã hội (The Social
Contract) của Jean-Jacques Rousseau, Nxb Thế giới (2014); CL (Justice) của
Josef Pieper, Nxb Pantheon Books (1955); CL (Justice) do Alan Ryan chủ biên,
Nxb Oxford University Press (1993); CL (Justice) của Harry Brighouse, Nxb
Polity Press (2004); CL (Justice) do Eugene Kamenka và Alice Erh-Soon Tay
chủ biên, Nxb Edward Arnold (1979);… đều tập trung lý giải vai trò không thể
thiếu của CL nói chung và vai trò luân lý của CL nói riêng trong quá trình đưa xã
hội tiến hóa từ trạng thái dã man, bán khai sang trạng thái kỷ cương, văn minh.
Các công trình nghiên cứu bao gồm Chính trị luận (The Politics) của
Aristotle, Nxb Thế giới (2013); Chính thể đại diện (Representative Government)
của John Stuart Mill, Nxb Tri thức (2008); Bàn về chính quyền (On Government)
của Marcus Tullius Cicero, Nxb Hồng Đức (2017); “CL” (Justice) do Alan Ryan
15
chủ biên, Nxb Oxford University Press (1993);… đều tập trung làm rõ tính chất
chính trị của CL với tư cách là một nhân tố chính nghĩa của mỗi bộ máy chính
quyền. Ngược lại, bất công hay cảm giác bất công cũng chính là một nhân tố
quan trọng dẫn đến các cuộc cách mạng lật đổ chính quyền.
Các công trình nghiên cứu cũng khẳng định mối quan hệ biện chứng, chặt
chẽ giữa CL và pháp luật. Các quan điểm phổ biến coi CL là căn cứ để ban hành
các chính sách pháp luật. Pháp luật công bằng phải thể hiện được CL trong lĩnh
vực mà nó điều chỉnh. Các công trình tiêu biểu về mối tương quan giữa CL và
pháp luật bao gồm: Lý thuyết về CL (The theory of justice) của Rudolf Stammler,
Nxb Macmilan (1925); Lý luận chung về pháp luật và nhà nước (General Theory
of Law and State) của Hans Kelsen, Nxb Harvard University Press (1946); CL
dựa trên nền tảng luật pháp (Justice according to law) của Nathan Roscoe
Pound, Nxb Yale University Press (1951); Sự hình thành của khoa học luật
(Foundations of Jurisprudence) của Jerome Hall, Nxb The Bobbs-Merrill
Company (1973); Luật tự nhiên và CL (Natural Law and Justice), Lloyd L.
Weinbeb, Nxb Havard University Press (1987); Triết học về luật thực định (The
Philosophy of Positive Law) của James Bernard Murphy, Nxb Yale University
Press (2005); Triết học luật pháp (The Philosophy of Law) của Raymond Wacks
Nxb Trẻ (2011); Luật pháp và Triết học: Dẫn nhập với những bài đọc (Law and
Philosophy: An introduction with readings) của Thomas W.Simon, Nxb
Mc.Graw Hill (2001).
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu cũng tập trung cụ thể hóa các ứng
dụng của CL trong tổ chức và quản lý xã hội, đặc biệt là để bảo đảm phân phối
một cách công bằng nhất cho xã hội, điển hình như: Cuốn sách Một lý thuyết về
CL (A theory of justice) của John Rawls, Nxb The Belknap Press (1977); CL:
Đâu là việc đúng nên làm? (Justice: Whats’s the right thing to do?) của Michale J.
Sandel, NXB Trẻ (2011); CL như là sự phù hợp (Justice as fittingness) của
Geoffrey Cupit, Nxb Clarendon Press (1996). Theo đó, các tác giả khái quát các
phương pháp/nguyên tắc tiếp cận CL mà chủ yếu là CL phân phối và việc áp dụng
16
- Xem thêm -