Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cộng đồng kinh tế asean nhìn từ góc độ của chủ nghĩa kiến tạo và một số hàm ý ch...

Tài liệu Cộng đồng kinh tế asean nhìn từ góc độ của chủ nghĩa kiến tạo và một số hàm ý chính sách cho việt nam

.PDF
28
95
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------ Vĩnh Bảo Ngọc CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CỦA CHỦ NGHĨA KIẾN TẠO VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Hà Nội – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------ Vĩnh Bảo Ngọc CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CỦA CHỦ NGHĨA KIẾN TẠO VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM Chuyên ngành: KTTG & QHKTQT Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG Hà Nội - 2012 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ MỞ ĐẦU Trang i ii ii 1 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC KHU VỰC Ở ĐÔNG NAM Á 7 1.1. Chủ nghĩa khu vực và các lý thuyết về hội nhập khu vực 7 1.2. Các kiến giải về cộng đồng từ góc nhìn của chủ nghĩa kiến tạo xã hội 23 CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CỦA CHỦ NGHĨA KIẾN TẠO 32 2.1. Nội dung của cộng đồng kinh tế ASEAN 32 2.2 Tiếp cận sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dưới góc độ của chủ nghĩa kiến tạo 38 2.3 Triển vọng của Cộng đồng kinh tế ASEAN 50 CHƯƠNG III: MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI SỰ THAM GIA CỦA VIỆT VÀO CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN 58 Một số tác động của việc tham gia AEC đối với sự phát 58 3.1. triển kinh tế của Việt Nam 3.2. Kiến nghị về quan điểm và định hướng tham gia của 60 Việt Nam vào cộng đồng ASEAN và AEC 3.3 Kiến nghị về một số nhóm giải pháp chính sách đối với 68 sự tham gia của Việt Nam vào cộng đồng ASEAN và AEC KẾT LUẬN 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 PHỤ LỤC 83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Sáng kiến xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), một trong 3 trụ cột của Cộng đồng (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hoá – Xã hội (ASCC)) được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 9 vào năm 2003. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12 vào tháng Giêng năm 2007, đã quyết định rút ngắn thời hạn hoàn thành Cộng đồng ASEAN, từ năm 2020 xuống còn 2015. Tháng 11 năm 2008, Hiến chương ASEAN bắt đầu có hiệu lực và trở thành trụ cột thể chế của Cộng đồng ASEAN. Thời hạn hình thành AEC đang đến gần, trong khi đó những khó khăn và trở ngại trên con đường tiến tới AEC vẫn đang hiện hữu như chênh lệch phát triển lớn; sự khác biệt trong thể chế chính trị - xã hội và thiếu người lãnh đạo,… Do đó việc nghiên cứu sâu hơn về mô hình của AEC sẽ giúp hiểu sâu hơn về liên kết kinh tế này để đưa ra những biện pháp và sáng kiến nhằm thực hiện thành công AEC cũng như sự phát triển của cộng đồng này trong tương lai. Tuy là một thành viên của ASEAN từ năm 1995 nhưng Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước kém phát triển hơn và chưa tham gia một cách có hiệu quả cao vào các quá trình liên kết kinh tế của ASEAN. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu sâu hơn về mô hình AEC sẽ giúp tìm ra mô hình hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN, nhằm đạt được lợi ích cao nhất và giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực do quá trình này đem lại, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và sau khi AEC được hình thành vào năm 2015. Vì vậy, đề tài "Cộng đồng kinh tế ASEAN nhìn từ góc độ của 2 chủ nghĩa kiến tạo và một số hàm ý chính sách cho Việt Nam" nhằm tìm hiểu cơ sở lý luận về quá trình hình thành và phát triển của AEC, từ đó, đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tham gia vào AEC của Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu. Cho đến nay có rất nhiều nghiên cứu quốc tế và khu vực về liên kết kinh tế ASEAN nói chung và cộng đồng kinh tế ASEAN nói riêng. Các nghiên cứu về liên kết kinh tế của ASEAN tiêu biểu là của Ban thư ký ASEAN (2007) như “Hội nhập ASEAN trong lĩnh vực dịch vụ”; Wendy Dobson (2001) Hội nhập sâu hơn vào khu vực Đông Á: tổ chức khu vực và các hệ thống kinh tế quốc tế; Mahathir Mohammad (1997) “Tham vọng trong tương lai: Cộng đồng các quốc gia Đông Nam á đã sẵn sàng cho những thách thức của thế kỷ 21?”,… Bình luận về AEC còn được tìm thấy trong phát biểu của các nhà lãnh đạo các nước tại các hội nghị, diễn đàn khu vực, gần đây như hội nghị các Bộ trưởng kinh tế, các chuyên gia kinh tế và lãnh đạo ASEAN. Ngoài ra, còn có một số bài viết về AEC được đăng tải trên Internet cũng như báo chí các nước trong khu vực như Bangkok Post, Asia Times, Strait Times.... Các học giả tập trung phân tích, bình luận về triển vọng của AEC, kể cả các thách thức đối với thể chế này khi trong khu vực đã tồn tại các thể chế khác như AFTA, AICO, AFAS và AIA. Các nghiên cứu trong nước gần đây gồm có Đề án Chính Phủ “ Sự tham gia của Việt Nam vào Cộng đồng kinh tế ASEAN trong định hướng phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế” tiến hành năm 2006 đã phân tích và đánh giá mối quan hệ kinh tế, xã hội, ngoại giao của Việt 3 Nam khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN. Các nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thắng (2006) “Việt Nam và ASEAN: Những bước hội nhập tiếp theo”; Trần Văn Tùng và Phạm Ngọc Tân (2007) “Bối cảnh quốc tế và tác động của nó đối với quá trình hình thành AEC” cũng phân tích những điểm cơ bản ban đầu về bối cảnh, điều kiện và thể chế hình thành AEC.Tại Hội thảo quốc tế “ASEAN: Bốn mươi năm nhìn lại và hướng tới” do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 19/7/2007, các học giả trong nước cũng có nhiều bài tham luận có giá trị dự đoán về cấu trúc an ninh-chính trị ở ASEAN cũng như tương lai của các thể chế và diễn đàn đối thoại ở khu vực. Trong số các bài tham luận, Nguyễn Vũ Tùng (2007) cũng đã bước đầu tiếp cận nhìn nhận hợp tác ASEAN trong lĩnh vực chính trị và an ninh từ góc độ của chủ nghĩa kiến tạo. Tiếp theo các nghiên cứu kể trên, cuốn sách “ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): Mục tiêu, nội dung và lộ trình” do Nguyễn Hồng Sơn chủ biên tổng kết 6 bài học từ việc Việt Nam tham gia vào hợp tác kinh tế ASEAN và đưa ra một số khuyến nghị giúp Việt Nam tham gia AEC có hiệu quả.Chương trình cấp bộ: “Cộng đồng ESEAN: Cơ sở hình thành, triển vọng và phản ứng chính sách của các nước trong khu vực” năm 2010 do Lê Bộ Lĩnh làm chủ nhiệm cũng đã đóng góp những nghiên cứu tổng thể về hợp tác phát triển trong cộng đồng ASEAN về các mặt: chính trị, ngọai giao, kinh tế, xã hội… Bên cạnh đó, trên các tạp chí như “Những vấn đề kinh tế thế giới”, “Nghiên cứu quốc tế” và “Nghiên cứu Đông Nam Á”, các trang điện tử như google.com.vn, vietnam.net và vnexpress.net có thể thấy một số bài viết của các học giả Việt Nam đánh giá về sự ra đời của AEC 4 cũng như phân tích những mặt được và không được của cơ chế này… Từ góc độ lý thuyết, đã có một loạt nghiên cứu về mô hình cộng đồng nói chung và cộng đồng kinh tế nói riêng dựa trên trường hợp của Liên minh châu Âu. Các nghiên cứu truyền thống này tiếp cận hội nhập kinh tế của Châu Âu chủ yếu dưới góc độ của chủ nghĩa chức năng, chủ nghĩa chức năng mới (Hass, 1964; Mitrany, 1943), chủ nghĩa liên bang, chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa xuyên quốc gia (Keohane và Nye, 1977), chủ nghĩa chính phủ và chủ nghĩa chính phủ tự do (Hoffmann, 1966; Putnam, 1988; Moravcsik 1993). Bên cạnh đó, còn có nhiều nghiên cứu tiếp cận liên kết kinh tế ASEAN dưới góc độ chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa khu vực mới (Payne, 2003). “Cộng đồng kinh tế ASEAN nhìn từ góc độ của chủ nghĩa kiến tạo và một số hàm ý chính sách cho Việt Nam” là đề tài nghiên cứu mô hình AEC từ góc độ mới là chủ nghĩa kiến tạo. . 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. 3.1. Mục đích Trong khuôn khổ nghiên cứu, luận văn sẽ tập trung tìm hiểu cơ sở lý luận của quá trình hình thành AEC, trên cơ sở đó, đưa ra khuyến nghị đối với cách thức tham gia của Việt Nam vào AEC và mô hình hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu khung khổ lý thuyết cho quá trình hình thành và phát triển của “cộng đồng kinh tế” ASEAN; - Phân tích sự thay đổi nhận thức về hợp tác kinh tế khu vực ở Đông Nam Á; 5 - Phân tích sự thay đổi nhận thức về định hướng tham gia của Việt Nam trong quá trình xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; - Đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả tham gia vào AEC của Việt Nam. 3.3. Câu hỏi nghiên cứu Cần nhìn nhận quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng kinh tế ASEAN như thế nào? 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn. 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN nhìn dưới góc độ lý thuyết. 4.2. Phạm vi nghiên cứu luận văn Đề tài đi sâu nghiên cứu sự hình thành Cộng đồng liên kết kinh tế ASEAN từ khi thành lập năm 2003 đến tháng 6/2012. Vấn đề nghiên cứu chính là sự thay đổi nhận thức trên hai khía cạnh: - Về hợp tác kinh tế khu vực ở Đông Nam Á; - Về sự tham gia của Việt Nam vào hợp tác kinh tế ở khu vực ĐNA. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Kết hợp các phương pháp phân tích và mô hình hóa lý thuyết. - Phương pháp nghiên cứu tiến trình lịch sử để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của AEC. - Phương pháp nghiên cứu tiến trình nhận thức của chủ nghĩa kiến tạo (thông qua phân kỳ giai đoạn) để phân tích sự thay đổi nhận thức đối với hợp tác kinh tế ASEAN. - Tiếp xúc với các chuyên gia Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Vụ Đông Nam Á – Nam Á – Nam Thái Bình Dương. 6 - Phân tích sử dụng các tài liệu của Việt Nam kết hợp với việc khai thác các nguồn tài liệu của nước ngoài. Nguồn tài liệu chính được sử dụng trong luận văn là tài liệu thứ cấp và kết quả phỏng vấn với các chuyên gia. 6. Đóng góp mới Nghiên cứu về AEC có sự so sánh rõ hơn giữa AEC với các thể chế và diễn đàn hiện có ở khu vực, từ đó sẽ xác định sự cần thiết xây dựng và phát triển bền vững thể chế liên kết kinh tế. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế và các giảng viên về quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách đối ngoại. Ngoài ra, đề tài cũng sẽ cung cấp các thông tin cơ bản về AEC cũng như khung khổ lý thuyết về chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa cộng đồng, góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết của công chúng đối với các thể chế trong khu vực nói chung và AEC nói riêng. 7. Kết cấu và nội dung của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương: Chương I : Cơ sở lý luận về hợp tác khu vực ở Đông Nam Á Chương II: Cộng đồng kinh tế ASEAN nhìn từ góc độ của Chủ nghĩa kiến tạo . Chương III: Một số hàm ý chính sách đối với việc tham gia của Việt Nam vào Cộng đồng kinh tế ASEAN . 7 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC KHU VỰC Ở ĐÔNG NAM Á 1. 1 Chủ nghĩa khu vực và các lý thuyết về hội nhập khu vực Chủ nghĩa khu vực Chủ nghĩa khu vực mới coi khu vực hóa là một quá trình đến từ phía dưới, thúc đẩy bởi các chủ thể phi nhà nước, thay vì bị nhà nước áp đặt từ phía trên. Nó khắc phục hạn chế của chủ nghĩa khu vực truyền thống vốn chỉ coi trọng hội nhập kinh tế, cho rằng thương mại và kinh tế không thể tách rời khỏi phần còn lại của xã hội, và phát triển kinh tế cần đi cùng với phát triển xã hội để thành công. Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa khu vực mới là sự định nghĩa lại một loạt khái niệm liên quan đến quá trình liên kết khu vực như chủ nghĩa khu vực (regionalism) và khu vực hóa (regionalization). Chủ nghĩa khu vực mới không chỉ là một khái niệm địa lý mà nó còn thể hiện một quá trình năng động, bao gồm từ sự tập trung của các mối quan hệ kinh tế cho đến các mối quan hệ về chính trị và văn hóa-xã hội. Các lý thuyết về hội nhập khu vực Chủ nghĩa Chức năng Mới (Neo-functionalism) Chủ nghĩa Chức năng Mới được bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 1950 của thế kỷ XX. Chủ nghĩa Chức năng Mới vẫn dựa trên nền tảng lý luận cơ bản và cách tiếp cận tới hoà bình của Chủ nghĩa Chức năng cổ điển là quan niệm về con đường hợp tác kinh tế-xã hội là nơi quốc gia có nhiều lợi ích chung. Hợp tác chức năng kinh tế-xã hội có tác động tới các lĩnh vực khác. Cách thức hội nhập vẫn dựa trên việc xây dựng các tổ chức chuyên môn. Các tổ chức này dần dần sẽ vượt lên trên quốc gia để có thể thực thi hiệu quả sự hợp tác liên quốc gia. Trong quá 8 trình này, các giá trị và lòng trung thành với quốc gia dân tộc sẽ dần bị xói mòn và chuyển sang các thể chế hợp tác chung. Một sự vận động như vậy sẽ thúc đẩy tiến tới hoà bình và hội nhập chính trị. Chủ nghĩa Liên bang (Federalism) Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Liên bang là chủ trương hội nhập các quốc gia vào trong một liên minh chính trị trên cấp độ khu vực hoặc toàn cầu. Liên minh chính trị này có thể theo thiết chế liên bang kiểu Mỹ hoặc là một hệ thống chính phủ quốc gia nào đó. Đó chính là con đường hội nhập toàn phần từ dưới lên vì mục tiêu hoà bình. Như vậy, khác với các lý thuyết trên, Chủ nghĩa Liên bang đi vào chính trị trực diện và mạnh mẽ hơn hẳn. Nó hướng tới hội nhập chính trị trên cơ sở giải quyết vấn đề chủ quyền và lợi ích quốc gia bằng còn đường chia sẻ quyền lực vào trong một cơ cấu ở trên quốc gia. Chủ nghĩa xuyên quốc gia (Transnationalism) Chủ nghĩa Xuyên quốc gia dường như mang tính toàn diện và thực tiễn cao hơn so với các xu hướng lý luận trên. Nếu các xu hướng lý luận trên quan tâm nhiều tới mục đích chính trị của hội nhập quốc tế còn những thứ khác chỉ là phương tiện thì Chủ nghĩa Xuyên quốc gia đã xem xét hội nhập theo nhiều góc độ khác nhau, cả về chính trị, kinh tế, xã hội, cơ cấu thể chế lẫn ý thức cộng đồng. Nếu các xu hướng trên quan tâm nhiều tới việc tìm tòi con đường và cách thức tiến đến hội nhập, Chủ nghĩa Xuyên quốc gia cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng chính là con đường chủ yếu của hội nhập. Với quan niệm coi hội nhập là mức độ liên kết đã phát triển tới mức nhất định chứ không phải một hình thức liên kết nào đó, các học giả của Chủ nghĩa Xuyên quốc gia quan tâm nhiều tới việc đưa ra những tiêu chí đánh giá mức độ hội nhập trong các lĩnh vực cơ bản và các tác động của nó. 9 Chủ nghĩa liên chính phủ (intergovernmentalism) và chủ nghĩa liên chính phủ tự do (liberal intergovernmentalism) Chủ nghĩa liên chính phủ dựa trên sự kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực mới (neo-realism) vốn cho rằng có sự khác biệt về quyền lực giữa các nước và chủ nghĩa tự do mới (neo-liberalism) cho rằng có sự tùy thuộc lẫn nhau về mặt lợi ích giữa các quốc gia. Khác với chủ nghĩa chức năng mới, chủ nghĩa liên chính phủ cho rằng các chính phủ quốc gia kiểm soát quá trình hội nhập và có ảnh hưởng quyết định đến khả năng gia tăng quyền lực của các thể chế siêu quốc gia. Stanley Hoffmann (1966) cho rằng hội nhập do các chính phủ quốc gia tiến hành và bị chi phối bởi các vấn đề kinh tế và chính trị trong nước và vì thế khả năng “lan truyền hội nhập” là khó khả thi. Hội nhập thường dễ dàng hơn ở những lĩnh vực chính trị ít nhạy cảm (low politics) song sẽ trở nên khó khăn hơn đối với những lĩnh vực chính trị quan trọng (high politics). 1.2 Các kiến giải về cộng đồng từ góc nhìn của chủ nghĩa kiến tạo xã hội Khái niệm về „cộng đồng‟ lần đầu tiên được Ferdinand Tönies đưa ra vào cuối thế kỷ 19. Tönies (1887) phân biệt hai thuật ngữ xã hội học „Gesellschaft‟ và „Gemeinschaft‟ được dịch tương ứng là tổ chức hoặc hiệp hội và cộng đồng. „Gemeinschaft‟ được hình thành dựa trên các mối liên hệ theo hợp đồng vì lợi ích chung, còn „Gesellschaft‟ được hình thành dựa trên các mối liên hệ về văn hóa, truyền thống, chuẩn mực và bản sắc chung. Trong quan hệ quốc tế, khái niệm về “cộng đồng” (community) thường được dùng để chứng tỏ sự hợp tác sâu trong nhiều lĩnh vực. 10 Trong liên kết kinh tế, khái niệm “cộng đồng kinh tế” thường được dùng để chỉ một trong các hình thức hợp tác kinh tế là việc thành lập một khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung hoặc liên minh kinh tế. Bàn về "cộng đồng văn hoá-xã hội," theo Amitav Acharya (2009), sự gần gũi, các mối quan hệ lịch sử và nền văn hoá chung không phải lúc nào cũng tạo ra được cộng đồng, nhưng chúng có thể tạo ra động lực ban đầu để xây dựng cộng đồng. Chủ nghĩa đa nguyên và chủ nghĩa xuyên quốc gia chưa đủ “mạnh” để giải thích quyết tâm nâng hợp tác khu vực lên mức độ “cộng đồng,” nhất là khi các nước Đông Nam Á lại phụ thuộc vào bên ngoài về các mặt kinh tế và chính trị nhiều hơn. Chủ nghĩa chức năng mới cũng chỉ lý giải được phần nào quá trình hợp tác theo “chức năng” của ASEAN trong những thập niên 1980 và 1990, song cũng chưa thể giải thích được thực tế rằng ASEAN vốn bắt đầu từ hợp tác vì mục đích chính trị rồi chuyển sang lĩnh vực kinh tế trước khi có quyết tâm đột phá mạnh mẽ xây dựng một cộng đồng toàn diện hiện nay. Xét một khía cạnh nào đó, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa liên chính phủ dường như có thể lý giải được phần nào hợp tác khu vực ở Đông Nam Á. “Chủ nghĩa hiện thực ngoại vi” (peripheral realism) (Escude, 1998) và “chủ nghĩa hiện thực cấp dưới” (subaltern realism) (Ayoob, 1998) nói về một hệ thống khu vực ở thế giới thứ ba không phải lúc nào cũng ở tình trạng vô chính phủ mà có thể tồn tại theo một “thứ bậc” (hierarchy), trong đó có những nước nhỏ và những nước lớn; có những mối liên hệ mật thiết giữa chính trị trong nước và chính trị quốc tế, và giữa hòa bình và ổn định ở trong nước với ảnh hưởng từ bên ngoài. 11 Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực chưa thể giải thích được sức ép đối với ASEAN trước diễn biến nhanh chóng trong xu thế hợp tác khu vực ở Đông Á và châu Á-Thái Bình Dương: hoặc ASEAN sẽ bị hoà tan; hoặc ASEAN cần phải tăng cường bản sắc và liên kết chặt chẽ hơn nữa. Tầm nhìn 2020 về Cộng đồng ASEAN đã chia sẻ phần nào quan điểm của chủ nghĩa kiến tạo xã hội (social constructivism). Quan điểm này cho rằng các quốc gia có mối tương tác về mặt xã hội nên chúng là những thực thể xã hội, có bản sắc và lợi ích xã hội. Bản sắc (identity), theo nghĩa là những nhận thức cụ thể về vai trò của mình và mong muốn về mình, là lợi ích cơ bản của quốc gia và lợi ích này có thể dần thay đổi trong quá trình tương tác giữa các nước. Cấu trúc chủ quan liên thông (inter-subjective structure), theo nghĩa hiểu biết người khác và được người khác hiểu mình, về bản sắc và lợi ích sẽ chi phối hành động của quốc gia (Wendt, 1992). Những người theo chủ nghĩa kiến tạo xã hội cho rằng văn hóa và chuẩn mực là những yếu tố quan trọng tạo nên môi trường quan hệ quốc tế, và chính môi trường này tạo cho quốc gia những nhận thức nhất định về lợi ích. Do bản sắc xã hội và lợi ích được hình thành trong một quá trình và theo nhận thức, nên quá trình “ra hiệu – diễn giải – phản ứng” sẽ chi phối hành vi của các nước (Wendt, 1992). Chủ nghĩa kiến tạo và các lý thuyết xã hội học cho rằng “cộng đồng” được hình thành qua ba giai đoạn tiến triển về nhận thức và hành vi đối xử với nhau giữa các thành viên. Giai đoạn thứ nhất là xây dựng một tình cảm dung thứ (tolerance), thể hiện qua việc khép lại quá khứ, hướng tới tương lai cùng với sự ngưỡng mộ, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Giai đoạn thứ hai là sự đối xử tương hỗ (reciprocity), theo Robert Putnam (2000), thể hiện qua việc “tôi sẽ làm việc này cho bạn bây giờ 12 mà không trông đợi sự đáp trả tức thời, thậm chí không cần phải biết bạn là ai, và tự tin rằng sau này bạn hoặc một ai đó sẽ đáp trả.” Nói một cách khác, trong ngắn hạn, đối xử tương hỗ xuất phát từ sự thật lòng và trong dài hạn chính là vì lợi ích bản thân. Giai đoạn thứ ba là có được một mức độ tín nhiệm (trust), thể hiện qua sự tự tin rằng mọi người và các thể chế sẽ hành động một cách thống nhất, trung thực và hợp lý. Tín nhiệm không loại trừ sự góp ý và chỉ trích với mục đích tốt. Khi nghiên cứu về ASEAN, Amitav Acharya (2009) cho rằng cộng đồng này có hai đặc điểm chính. Thứ nhất, nó chỉ một quan hệ xã hội, chứ không phải một quan hệ chỉ thuần tuý mang tính phương tiện. Những thuộc tính chính yếu của cộng đồng là sự tin cậy, tình hữu nghị, sự bù đắp và tinh thần trách nhiệm. Thứ hai, cộng đồng không phải chỉ là một nhóm những người có cùng văn hoá mà cũng là nhóm người có tinh thần trách nhiệm chung, sự tin tưởng, quí trọng, và tự giác nhận thức được về sự đồng nhất. Việc phát triển một cộng đồng thường liên quan đến ý thức về sự đồng nhất chung song các cộng đồng cũng có thể tạo dựng được sự đồng nhất và mục tiêu chung bằng cách thu hút và hấp dẫn những người ngoài chứ không phải là loại trừ hoặc chống lại họ. Thực tế cho thấy, ASEAN đã có một lịch sử lâu dài về các mối quan hệ hướng ra bên ngoài với các nước lớn bên ngoài khu vực. Tuy nhiên, theo Acharya (2009), động lực của chủ nghĩa khu vực Đông Nam Á không chỉ do sức ép hay sự đe doạ từ bên ngoài mà nó phức tạp hơn nhiều, được hình thành trong quá trình „xã hội hoá‟ (socialization) các chuẩn mực và gây dựng tính đồng nhất. Vì thế, để trở thành một cộng đồng theo đúng nghĩa, thì các nước ASEAN cần tăng cường quan hệ hơn nữa bằng cách gạt ra những mối quan tâm thuần tuý mang tính phương tiện đi liền với chủ quyền quốc gia. 13 CHƢƠNG 2 CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CỦA CHỦ NGHĨA KIẾN TẠO 2.1. Nội dung của Cộng đồng kinh tế ASEAN Mục tiêu của Cộng đồng kinh tế ASEAN Tầm nhìn 2020 của ASEAN khẳng định “tạo ra một Khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và cạnh tranh cao có sự tự do lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tự do di chuyển vốn hơn, phát triển kinh tế bình đẳng, giảm đói nghèo và khác biệt về kinh tế-xã hội” Nội dung và hình thức của Cộng đồng kinh tế ASEAN Với mục tiêu trở thành “một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất” có tự do thương mại và tự do chuyển các yếu tố sản xuất, AEC chỉ có thể được xem là một Thị trường chung trừ (trừ đi hai nội dung gồm thuế quan chung và hài hòa chính sách kinh tế) hoặc một FTA cộng (cộng thêm nội dung di chuyển tự do các yếu tố sản xuất). Trong khi đó, mục tiêu “thị trường (và cơ sở sản xuất) duy nhất” của AEC chỉ dựa trên bốn tự do (4F) ở mức yếu là tự do di chuyển hàng hoá và dịch vụ, tự do di chuyển vốn hơn và lao động có tay nghề. AEC có đặc điểm khác nữa là một cộng đồng kinh tế mở. Tầm nhìn ASEAN 2020 khẳng định ASEAN sẽ là một tổ chức hướng ra bên ngoài (outward looking). Tiếp đó, Tuyên bố Bali cũng nêu rõ ASEAN tiếp tục đánh giá cao “tầm quan trọng của các luật lệ của hệ thống thương mại đa phương,” tăng cường “mở rộng kết nối với nền kinh tế thế giới” (Mục 7) và trở thành “một mắt xích năng động và mạnh mẽ hơn trong dây chuyền cung ứng toàn cầu” (phần B.3). Trong đó, ASEAN đặc biệt coi trọng thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác trong tiến trình ASEAN+3 (Mục 8). 14 Biện pháp và Lộ trình của Cộng đồng kinh tế ASEAN Hình 2.1: Lộ trình hội nhập kinh tế tổng thể ASEAN (RAI) Lộ trình hội nhập kinh tế của ASEAN Mục tiêu: Tầm nhìn 2020 - AEC ASEAN-6 và ASEAN-4 Toàn bộ ASEAN Toàn bộ ASEAN Thu hẹp khoảng cách phát triển Hợp tác kinh tế sâu hơn Hội nhập sâu hơn Kế hoạch thực hiện IAI 4 lĩnh vực ưu tiên: - Cơ sở hạ tầng - Phát triển nguồn nhân lực - ICT - Hội nhập kinh tế khu vực Lĩnh vực: Giao thông, năng lượng, du lịch, viễn thông. Dự án: Tuyến đường sắt xuyên Á, Tuyến đường cao tốc ASEAN, mạng lưới Hội nhập thị trƣờng: AFTA AIA AFAS e-ASEAN truyền tải điện toàn ASEAN Nguồn: Dựa trên Krishnam, Gary. 2007. Initiative for ASEAN Integration: Narrowing the Development Gap. IAI Unit. ASEAN Secretariat. Theo Tuyên bố Bali II và khuyến nghị của HLTF, về cơ bản các biện pháp nhằm thực hiện AEC gồm có: + Đẩy nhanh hoàn thành các chương trình hội nhập kinh tế hiện thời + Đẩy mạnh hội nhập một số ngành ưu tiên + Tăng cường triển khai Sáng kiến hội nhập ASEAN và thu hẹp khoảng cách phát triển + Tăng cường hoàn thiện thể chế 2.2. Tiếp cận sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dƣới góc độ của Chủ nghĩa kiến tạo Chủ nghĩa kiến tạo xã hội cho rằng Cộng đồng kinh tế ASEAN là một sự kiến tạo mang tính chất xã hội (socially constructed) trong quan 15 hệ quốc tế ở khu vực Đông Nam Á. Giả thiết đưa ra là: mặc dù AEC là bước phát triển tiếp theo của các chương trình hợp tác kinh tế đã và đang được thực hiện trong ASEAN song AEC hình thành không phải là kết quả tất yếu khách quan mà là do sự thay đổi về nhận thức đối với hợp tác kinh tế ở khu vực Đông Nam Á. Sự tiến triển nhận thức về nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và thể chế Cùng với sự ra đời của Hiến chương ASEAN là những tiến triển rõ rệt về cơ cấu tổ chức của ASEAN để hướng tới một cộng đồng. Trong những năm đầu, cơ quan cao nhất của ASEAN là Hội nghị Ngoại trưởng, và số lượng các tổ chức của ASEAN còn rất hạn chế, thậm chí là không có Ban thư ký. Theo Hiến chương ASEAN, hội nghị Thượng đỉnh, được tổ chức hai lần một năm, là cơ quan hoạch định chính sách cao nhất của ASEAN. Ngoài hội nghị Thượng đỉnh ra, ASEAN còn có các Hội nghị cấp Bộ khác và các Hội nghị này cứ tăng dần theo thời gian. Bên cạnh các Hội nghị, ASEAN còn có các Hội đồng và các Uỷ ban, tính đến nay số lượng các Hội đồng và Uỷ ban này nhiều hơn hẳn so với khi ASEAN mới được thành lập. Cũng theo Hiến chương ASEAN, cơ cấu tổ chức của ASEAN sẽ còn phát triển hơn với các cơ quan hoàn toàn mới như các Hội đồng Cộng đồng ASEAN: Chính trị An ninh, Kinh tế và Văn hoá – Xã hội. Mỗi Hội đồng này chịu trách nhiệm quan lý các cơ quan cấp bộ có liên quan. Điều này có thể coi là một sự phát triển đột biến trong cơ cấu tổ chức của ASEAN và nó làm cho cơ cấu tổ chức của ASEAN ngày càng hoàn thiện hơn. Sự tiến triển nhận thức về lộ trình tiến tới cộng đồng. Nếu ban đầu ASEAN phải mất đến 30 năm (1967-1997) để xác định chuyển từ Hiệp hội sang Cộng đồng thì chỉ cần thêm 10 năm (1997-2007), ASEAN đã xác định được mô hình và cách thức hoạt động 16 của Cộng đồng ASEAN. Nếu trong sáu năm từ 1997 đến 2003, ASEAN xác định sẽ xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 thì chỉ trong hai năm từ 2005 đến 2007 ASEAN lại quyết định hoàn thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. “Chính trị tốc độ” đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ hơn bao giờ hết và quan trọng là không thể đảo ngược được của các nhà lãnh đạo ASEAN đối với việc đẩy mạnh hội nhập khu vực và xây dựng một cộng đồng các quốc gia và dân tộc ở Đông Nam Á. Như Tổng thư ký ASEAN Ong Keng Yong (Vietnamnet, 23/10/2006) nói “Năm 2020 còn lâu mới đến. Trong quá trình chờ đợi sẽ có những bất lợi xảy ra và nảy sinh ý định trì hoãn...Chúng tôi chuyển thời hạn từ năm 2020 xuống còn 2015 và bây giờ thì các nước ASEAN biết rằng không thể trì hoãn nữa.” 2.3 Triển vọng của Cộng đồng kinh tế ASEAN Cơ hội Cơ hội lớn nhất cho ASEAN là hơn bao giờ hết hiện ASEAN đã đạt được quyết tâm chính trị rất cao, của cả các nhà lãnh đạo, giới tinh hoa và người dân, đối với việc xây dựng cộng đồng. Điều này thể hiện qua ý chí đẩy nhanh tiến trình hội nhập ASEAN và rút ngắn thời hạn hoàn thành cộng đồng trước thời hạn, sự ủng hộ của mọi nước thành viên đối với các kế hoạch chung, coi việc thúc đẩy hội nhập khu vực là một trong những hướng ưu tiên của mình và nỗ lực hết sức để triển khai các Chương trình hành động của AEC thuận lợi và suôn sẻ. Thách thức Thách thức lớn nhất của ASEAN là sự ly tâm và chia rẽ nội khối. Tính đa dạng về chế độ chính trị và chênh lệch về phát triển kinh tế trong ASEAN trong khoảng 5-10 năm nữa về cơ bản chưa có gì thay đổi. 17 Ngoài sự đa dạng về thể chế và trình độ phát triển, ASEAN hiện tại và trong tương lai gần vẫn còn lúng túng trong việc xác định mô hình phát triển với những nguyên tắc chủ đạo có tính chiến lược cho mình. Những năm gần đây, sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc và sự gia tăng cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung trước hết là ở Đông Nam á cũng như sự trở lại của nước Nga, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang lan rộng và sự suy giảm tương đối vị thế của siêu cường Mỹ cũng đang tạo ra những cơ hội và thách thức mới, một mặt, thúc đẩy hợp tác khu vực, bổ sung "phương tiện mặc cả" cho việc theo đuổi chính sách "cân bằng nước lớn" của ASEAN, mặt khác cũng làm khó dễ trong việc lựa chọn và ưu tiên đối tác và quan hệ bạn hàng với từng nước lớn; có thể gây tổn thương đến tình đoàn kết và thống nhất lập trường chung của ASEAN, làm tăng xu hướng “ly tâm”, “đi riêng lẻ” trên một số vấn đề, kể cả chính trị và an ninh. Hơn nữa, sự nổi lên của Trung Quốc và ấn Độ, sự gia tăng Hợp tác Đông á theo cơ chế ASEAN +1, ASEAN +3, v.v. có thể làm giảm đi sức hấp dẫn của ASEAN với tư cách là một khu vực kinh tế năng động và giữ vai trò chủ đạo trong các nỗ lực hợp tác khu vực. Ngoài ra, Ngoài các tác động trên, sự tái chạy đua vũ trang và đề cao sức mạnh quân sự cùng với sự gia tăng tranh chấp chủ quyền lãnh hải, tài nguyên thiên nhiên, khủng bố bạo lực và ly khai dân tộc trên quy mô toàn cầu cũng ảnh hưởng tiêu cực đến nỗ lực hợp tác đa phương trong ASEAN, nhất là đối với các nước thành viên mới. Điểm yếu khó vượt qua nhất của ASEAN là tính chất hợp tác lỏng lẻo, thiếu sự ràng buộc về mặt pháp lý vẫn tiếp tục duy trì các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như không can thiệp, đồng thuận, chưa nhận thức và hành động đúng mức về sự cần thiết phải thúc đẩy LKKV. Tiếp đến, các nước ASEAN chủ yếu còn là những nước nghèo, thiếu lực hướng tâm, chưa đủ nguồn tài chính để giúp các thành viên mới kém phát triển hơn. . 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất