Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng việt (trên cứ liệu nhóm t...

Tài liệu Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng việt (trên cứ liệu nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng nga)

.PDF
190
314
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________ LÊ THỊ THANH TÂM CƠ SỞ TRI NHẬN CỦA HIỆN TƯỢNG CHUYỂN NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT (trên cứ liệu nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh- đối chiếu Mã số:62.22.01.10 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _______________ LÊ THỊ THANH TÂM CƠ SỞ TRI NHẬN CỦA HIỆN TƯỢNG CHUYỂN NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT (trên cứ liệu nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh- đối chiếu Mã số:62.22.01.10 Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÝ TOÀN THẮNG Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu riêng của tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TSKH Lý Toàn Thắng. Tất cả các số liệu, kết quả có nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Thành phố Hồ Chí Minh 09 tháng 06 năm 2010 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lê Thị Thanh Tâm 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở châu Âu, Humboldt, từ thế kỉ XVII đã đưa ra luận điểm “con người bị vây kín trong cái vòng tròn ngôn ngữ huyền bí của tiếng mẹ đẻ của họ mà vốn tự nó đã có một thế giới đặc thù ràng buộc tất cả những ai sử dụng nó” [dt.66, tr.24]. Ở Châu Mĩ, Boas, Sapir và Whorf cũng quan niệm:“nghiên cứu ngôn ngữ là một bộ phận không thể tách rời của việc nghiên cứu tâm lí các dân tộc trên thế giới…ngôn ngữ là một địa hạt thuận lợi nhất để nghiên cứu các biểu tượng đạo lí” [dt.66, tr.24]. Như vậy, giữa ngôn ngữ, tư duy (rộng hơn là: tri nhận) và văn hóa luôn có mối quan hệ hết sức chặt chẽ và từ lâu đã được giới nghiên cứu khoa học rất quan tâm. Trong ngôn ngữ, mối quan hệ “bộ ba” này được biểu hiện ở nhiều đơn vị, nhiều cấp độ khác nhau, trong đó “từ” và “ý nghĩa của từ” là nơi thể hiện rõ nhất; bởi vì theo lý thuyết phản ánh của Lênin, “từ” được hiểu là “kết quả phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh đặc biệt qua ý thức của con người với tư cách là đại diện cho một cộng đồng văn hóa – ngôn ngữ nhất định” [dt.76, tr. 24]. Qua ý nghĩa của từ nói chung cũng như qua hiện tượng chuyển nghĩa của từ nói riêng, chúng ta có thể thấy rằng: mỗi cộng đồng ngôn ngữ bên cạnh cái “phổ quát”, cái “chung”, còn có cái “đặc thù”, cái “riêng” trong cách chia cắt và phạm trù hoá hiện thực khách quan, trong cách tri giác về hiện thực khách quan đó. Trong số các điạ hạt mà ở đó chúng ta thấy rõ nhất mối quan giữa ngôn ngữ và tri nhận – đó là không gian. Khái niệm không gian bao hàm trong nó nhiều vấn đề và khía cạnh khác nhau như: hình dáng, kích thước, chiều kích không gian, quan hệ không gian, v.v...Theo định hướng này, chúng tôi lựa chọn cho luận án của mình một trong những vấn đề đó là nghiên cứu mối quan giữa ngôn ngữ và tri nhận ở hiện tượng chuyển nghĩa của các từ đa nghĩa, đi sâu vào nhóm các từ chỉ hướng không gian bao gồm hai nhóm: các từ chỉ sự chuyển động có hướng và phương hướng trong không gian (ra - vào, lên - xuống, qua - lại) và nhóm các từ chỉ sự định hướng và phương vị trong không gian (trên - dưới, trước - sau, trong - ngoài). 2 Đó là những nhóm từ mang tính phổ quát, tồn tại tất yếu trong nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Nga – là ngôn ngữ mà chúng tôi đối chiếu. Luận án đặc biệt chú ý tới cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận về hiện tượng đa nghĩa và chuyển nghĩa, cũng như tới cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận về ẩn dụ (một trong hai phương thức của hiện tượng chuyển nghĩa) vốn được khởi xướng từ năm 1980, khi tác phẩm Metaphor we live by (Chúng ta sống nhờ ẩn dụ) của G. Lakoff và M. Johnson [100] ra đời. Ẩn dụ do đó không thể chỉ được xem xét ở riêng phạm vi ngôn từ mà cả ở các phạm vi tư duy và hành động; trong đời sống thường nhật chúng ta không chỉ dùng các ẩn dụ được qui ước hóa và trừu tượng hóa mà còn dùng cả những ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor). Hiện tượng chuyển nghĩa theo phép ẩn dụ, vì thế, được hiểu không phải và không phải chỉ là vấn đề “mở rộng ý nghĩa” từ một phạm trù này sang một phạm trù ở một trường khác và cốt lõi cũng không phải là vấn đề “ý nghĩa”, mà là vấn đề mở rộng “ý niệm” tương ứng vốn là cái chứa đựng sự hiểu biết đời thường hay tri thức khoa học của con người về thế giới. Đồng thời thông qua việc đối chiếu hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng của nhóm từ chỉ không gian trong tiếng Việt và có liên hệ với tiếng Nga chúng tôi muốn góp phần làm rõ thêm lối tư duy, dấu ấn văn hóa của hai dân tộc. Vì những lý do nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa tiếng Việt (trên cứ liệu của nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga) cho luận án này của mình. 2. Lịch sử vấn đề Nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trên thế giới từ trước tới nay có thể tạm chia làm ba khuynh hướng chính: Thứ nhất là khuynh hướng nghiên cứu theo logic học mà Paul là người khởi xướng. Những quan niệm của ông được thể hiện qua bảng phân loại logich học các hiện tượng chuyển nghĩa, trong đó chú ý so sánh nội dung khái niệm trước và sau khi biến đổi, đồng thời nêu lên mối quan hệ logich giữa chúng. 3 Thứ hai là khuynh hướng nghiên cứu theo tâm lý học mà đại diện là Wundt. Khuynh hướng này giải thích hiện tượng chuyển nghĩa căn cứ vào đặc trưng tâm lý với phương châm “việc nghiên cứu sự chuyển nghĩa cuối cùng phải vĩnh viễn quy thành nghiên cứu tâm lý”[dt.2, tr. 4]. Thứ ba là khuynh hướng nghiên cứu theo lịch sử do Wellander đứng đầu. Những người theo khuynh hướng này quan niệm: “sự chuyển hóa ý nghĩa là một quá trình lịch sử, chỉ khi nào nó được chứng thực trong quá trình thực tế trưởng thành của nó, quá trình này mới được trưởng thành một cách vừa ý”[dt.1, tr.50]. Với phương châm này, các nhà nghiên cứu chú trọng đi tìm sự trả lời cho câu hỏi là ý nghĩa mới của từ nảy sinh như thế nào trong lịch sử. Họ cho rằng kết quả của quá trình chuyển nghĩa được bảo lưu trong ý nghĩa mới của từ. Ngoài ba xu hướng này, còn có những tác giả khác đi theo một quan niệm về hiện tượng chuyển nghĩa có phần mang tính chiết trung hơn giữa ba nguyên tắc trên và xác định từ giác độ của ngôn ngữ học. Chẳng hạn, như các nhà nghiên cứu từ vựng – ngữ nghĩa học nổi tiếng ở Việt Nam: Nguyễn Văn Tu (1960, 1968, 1976), Đỗ Hữu Châu (1962, 1981, 1986), Nguyễn Thiện Giáp (1975, 1985), …. Ngoài ra, còn có một số luận văn, luận án đã đề cập đến hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng nói chung, chẳng hạn, Nguyễn Nhã Bản (1973) viết về “ Tìm hiểu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt”[2]. Nguyễn Đức Tồn trong “Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy người Việt (trong sự so sánh với các dân tộc khác)”[79] đã nghiên cứu đặc điểm của quá trình chuyển nghĩa của từ vựng chỉ động vật, thực vật, bộ phận cơ thể người (có so sánh giữa tiếng Việt và tiếng Nga). Tác giả đã thống kê số lượng chuyển nghĩa, các phương thức chuyển nghĩa và có những kết luận nhất định về hiện tượng này. Tiếp tục hướng nghiên cứu đó, là những công trình nghiên cứu về từ vựng và trường từ vựng ngữ nghĩa như: “Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên gọi động vật” của Nguyễn Thúy Khanh [34], “Tâm lý văn hóa người Việt phản ánh trong sự chuyển nghĩa của từ” của Kỳ Quảng Mưu [43]. Trong phạm vi nghiên cứu các từ chỉ không gian, Nguyễn Đức Dân (1992) 4 viết về “Triết lý tiếng Việt: không gian – điểm nhìn và sự chuyển nghĩa của từ”[13], đi vào nghiên cứu những quan hệ không gian của nhóm từ chỉ hướng không gian. Dư Ngọc Ngân [49] trong “Từ chỉ không gian thời gian khái quát trong tiếng Việt (từ thế kỉ XV đến nay)” đã khảo sát, hệ thống hóa lớp từ chỉ không gian, thời gian tiếng Việt. Đặc biệt là Nguyễn Lai trong cuốn sách “Nhóm từ chỉ hướng vận động tiếng Việt hiện đại”[37] đã đi sâu nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ này đồng thời với sự phát triển nhận thức, tư duy của người Việt. Tác giả Lý Toàn Thắng [66] cũng có nhiều nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa, ông đã so sánh hiện tượng chuyển nghĩa của một số từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt sang các từ chỉ bộ phận đồ vật và định vị không gian với các từ tương ứng trong tiếng Anh, thông qua nó để thấy được cách nhận thức về hiện thực của từng dân tộc. Những công trình này của các tác giả đi trước đã gợi ý cho chúng tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu mối quan giữa ngôn ngữ và tri nhận ở hiện tượng chuyển nghĩa của các từ đa nghĩa, đi sâu vào nhóm các từ chỉ hướng không gian, so sánh hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng Nga và tiếng Việt. Gần 20 năm qua, với sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học tri nhận đã xuất hiện những nghiên cứu mới về đa nghĩa và chuyển nghĩa. Điểm nổi bật của các nhà ngôn ngữ học tri nhận là đã tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa nói riêng trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự tri giác của con người về thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người tri giác, ý niệm hóa và phạm trù hoá các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận chỉ ra rằng: a. Ngôn ngữ không phải là một khả năng tri nhận tự trị, cơ chế ngôn ngữ chỉ là một phần của cơ chế tri nhận phổ quát. b. Ngữ nghĩa là sự ý niệm hóa. Nguyên lí này nói lên cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận tới các phương diện của cấu trúc ý niệm như cấu trúc phạm trù, tổ chức của các tri thức, cũng như quá trình ý niệm hóa ở các hiện tượng ngữ nghĩa từ vựng, như đa nghĩa, ẩn dụ và một số quan hệ từ vựng ngữ nghĩa khác. 5 c. Tri thức ngôn ngữ nảy sinh ra từ sự sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ học tri nhận định hướng vào sự sử dụng và người sử dụng ngôn ngữ, bao quát các bình diện chức năng, dụng học, tương tác và xã hội - văn hóa của ngôn ngữ trong sử dụng. Vào những năm 90, khi mà ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới đang phát triển mạnh, thì ở Việt Nam đã xuất hiện một số bài viết nghiên cứu về tiếng Việt theo phương pháp tiếp cận đó của tác giả Lý Toàn Thắng, đầu tiên năm 1994 với bài “Ngôn ngữ và sự tri nhận không gian” mở ra một cái nhìn mới về một số vấn đề ngữ nghĩa của các từ chỉ không gian. Tác giả đã đưa ra một phương hướng nghiên cứu phạm trù không gian trong tiếng Việt rất mới như: định hướng không gian, các bản đồ tri nhận không gian,…từ đó, khái quát về mô hình không gian và cách tri nhận không gian của người Việt Nam. Năm 2001, Lý Toàn Thắng lại cho đăng bài “Sự hình dung không gian trong ngôn ngữ của loại từ và danh từ chỉ đơn vị”, nêu lên cách thức mà người Việt dùng các loại từ để mô tả các thuộc tính không gian của vật thể và từ đó xếp loại chúng. Trên cơ sở đó có thể suy đoán về một cách thức riêng của tiếng Việt trong việc ý niệm hóa, phân loại và mô tả thế giới khách quan, một vấn đề đang rất được chú ý dưới ảnh hưởng của trào lưu ngôn ngữ học tri nhận. Đặc biệt là công trình “Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” (2005) của tác giả Lý Toàn Thắng [70] đã có những đóng góp không nhỏ trong việc nhận diện và trình bày một cái nhìn bao quát về sự tri nhận không gian nói chung và cách thức tri không gian của người Việt nói riêng, trong so sánh với các dân tộc khác. Cùng với Lý Toàn Thắng còn có tác giả Trần Văn Cơ viết về những vấn đề chung của ngôn ngữ học tri nhận:“Ngôn ngữ học tri nhận: Ghi chép và suy ngẫm” (2007) [5], đặc biệt là ông đi sâu vào ẩn dụ ý niệm (mà ông gọi là: ẩn dụ tri nhận) trong cuốn “Khảo luận - Ẩn dụ tri nhận” (2009) [6]. Bên cạnh những cuốn sách có nhiều đóng góp về mặt lí luận và thực tiễn nói trên, còn có khá nhiều bài báo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ quan tâm đến những vấn đề của ngôn ngữ học tri nhận như:“Từ chỉ quan hệ thân tộc trong tri nhận của người Anh và người Việt” của Dương Thị Nụ [47], “Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ 6 góc độ ngôn ngữ học tri nhận” của Võ Thị Dung [16], “Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận” của Nguyễn Ngọc Vũ [85], “Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (Qua các cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt)” của Phan Thế Hưng [31],… Song cho đến nay vẫn chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về hiện tượng chuyển nghĩa nói chung và phép ẩn dụ nói riêng theo quan niệm ngôn ngữ học tri nhận như một công trình độc lập, chi tiết; nhất là có liên hệ đối chiếu với tiếng Nga. Do đó mà như đã nói ở trên, luận án đã lựa chọn để triển khai nghiên cứu đề tài về “Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa tiếng Việt (trên cứ liệu của nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga)”. Luận án sẽ, một mặt, xem xét lại những vấn đề về chuyển nghĩa theo truyền thống của ngôn ngữ học và mặt khác, đặt ra những vấn đề mới chưa được nói đến, dựa theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận như là vấn đề về mối tương quan giữa ngữ nghĩa và thực tại khách quan, vấn đề không gian ngoài ngôn ngữ được “phóng chiếu” vào trong ngữ nghĩa của các ngôn ngữ tự nhiên và “bức tranh thế giới” (hay “thế giới được phóng chiếu”) về không gian được thể hiện trong ngôn ngữ là khác biệt với không gian trong thế giới thực v.v…Bởi vì trong các cấu trúc và quá trình tri nhận - mà trong đó ngôn ngữ chỉ là một trong số đó, đều có phản ánh một “lối nghĩ riêng” của cộng đồng bản ngữ về các sự vật và sự tình của thế giới hiện thực vốn cho ta thấy có những giới hạn và ràng buộc của văn hóa đối với lối nghĩ ấy. Đây chính là tư tưởng chủ đạo mà luận án dựa vào để từ đó trình bày về những cơ sở tri nhận trong sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ hướng không gian trên ngữ liệu của nhóm từ chỉ hướng không gian tiếng Việt có liên hệ với tiếng Nga. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu chính của luận án là tìm hiểu hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng của các từ chỉ sự chuyển động có hướng và phương hướng trong không gian (ra - vào, lên - xuống, qua - lại) và của các từ chỉ sự định hướng(orientation) và phương vị trong không gian (trên - dưới, trước - sau, trong - ngoài), trên cơ sở mối 7 quan hệ giữa ngôn ngữ và tri nhận, và có đối chiếu với tiếng Nga. Mục tiêu cụ thể của luận án: 1 - Tìm hiểu những quan điểm ngôn ngữ học truyền thống và quan điểm ngôn ngữ học tri nhận về đa nghĩa, chuyển nghĩa, các quy luật phát triển nghĩa, khả năng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ hướng không gian. 2 - Khảo sát nghĩa, sự chuyển nghĩa và các kết hợp của các từ chỉ sự chuyển động có hướng và phương hướng trong không gian (ra - vào, lên - xuống, qua - lại) và của các từ chỉ sự định hướng và phương vị trong không gian (trên - dưới, trước sau, trong - ngoài ). 3 - Tìm hiểu cơ sở và những đặc trưng tri nhận trong sự chuyển nghĩa và cách dùng của nhóm từ chỉ hướng không gian trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Nga). Tìm ra được những điểm giống nhau và khác nhau trong cơ chế, cách thức tri nhận không gian của người Nga và người Việt qua mối quan hệ giữa tư duy, ý thức và ngôn ngữ. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là: những cơ sở tri nhận qua hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng của nhóm từ chỉ hướng không gian trong tiếng Việt bao gồm hai nhóm nhỏ: các từ chỉ sự chuyển động có hướng và phương hướng trong không gian (ra vào, lên - xuống, qua - lại), nhóm từ chỉ sự định hướng và phương vị trong không gian (trên - dưới, trước - sau, trong - ngoài) có liên hệ, đối chiếu với tiếng Nga. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Luận án được tiến hành trên cơ sở áp dụng các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu ngôn ngữ như: phương pháp miêu tả, phương pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, phương pháp phân tích ngữ nghĩa. Luận án thực hiện bằng cách kết hợp giữa phân tích miêu tả định tính lẫn định lượng. Phương pháp miêu tả giúp luận án nêu lên được các nghĩa khác nhau của từ không chỉ trong từ điển mà còn trong các văn bản nghệ thuật, sách, báo,… từ thực tiễn. Phương pháp miêu tả còn là cách 8 thức nêu ra cụ thể các nghĩa gốc, nghĩa phái sinh, nghĩa chuyển của từ. Phương pháp đối chiếu là cách thức giúp luận án tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Nga của nhóm từ đang xét. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa được sử dụng để phân tích nghĩa của các từ trong nhóm đối tượng khảo sát. Qua khảo sát nhóm từ chỉ hướng không gian tiếng Việt và tiếng Nga chúng tôi có xem xét thống kê tỉ lệ sử dụng ở hai phạm vi chức năng động từ và chức năng ngoài động từ của nhóm từ này. 5.2. Nguồn ngữ liệu Nguồn ngữ liệu được lấy từ các tác phẩm văn học đương đại, các báo, tạp chí và các sách chuyên luận, sách tham khảo, các từ điển tường giải tiếng Việt, từ điển tường giải tiếng Nga, từ điển Việt - Nga, từ điển Nga - Việt, … Từ định hướng nghiên cứu đặt ra, chúng tôi thu thập các cứ liệu trong từ điển, sách, báo, để phân tích các nét nghĩa, các mối liên hệ ngữ nghĩa của chúng thông qua hiện tượng đa nghĩa, so sánh từng cặp các từ chỉ hướng, chỉ vị trí, xem xét các hiện tượng mở rộng nghĩa, chuyển nghĩa, các mối tương quan trong các cấu trúc so sánh của nhóm từ được mang ra khảo sát. Sau đó tiến hành so sánh với những dạng thức tương đương trong tiếng Nga, tìm ra những điểm tương đồng dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Nga. 6. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của luận án Giải quyết thấu đáo những nhiệm vụ đề ra, luận án có những ý nghĩa nhất định đối với lí luận và thực tiễn của ngôn ngữ học: 6.1. Ý nghĩa khoa học Về lí luận Kết quả của luận án sẽ góp thêm vào công việc nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa trong ngôn ngữ học hiện thời, cung cấp thêm khía cạnh lý luận mới về hiện tượng chuyển nghĩa của các từ chỉ sự chuyển động có hướng và phương hướng trong không gian và của các từ chỉ sự định hướng và phương vị trong không gian. Kết quả đạt được của luận án cũng sẽ góp phần thẩm định thêm đối với giả 9 thuyết Sapir – Whorf về mối quan hệ hữu cơ giữa tri nhận, văn hóa, và ngôn ngữ. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng góp phần thẩm định lý thuyết về hiện tượng đa nghĩa, đồng âm và chuyển nghĩa từ vựng của các nhà ngữ nghĩa học từ vựng. Ngoài ra, hiện nay do nhu cầu học tập và giao lưu văn hóa với các nước nói tiếng Nga ở Việt Nam, ngành ngôn ngữ học đối chiếu đang thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều trong giới nghiên cứu. Việc bắt buộc giảng dạy bộ môn ngôn ngữ học so sánh đối chiếu cho tất cả sinh viên chuyên ngữ ở các trường đại học từ năm 2007 cho thấy vai trò quan trọng của ngành học này trong tình hình mới. Bên cạnh đó, bộ môn ngôn ngữ học tri nhận cũng đang được đưa vào giảng dạy cho sinh viên Ngữ văn của các trường đại học. Tuy nhiên, các Giáo trình phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận của sinh viên Việt Nam hiện nay còn rất thiếu, vẫn chủ yếu chỉ là nguồn từ tiếng Anh, tiếng Nga hoặc tài liệu dịch. Như vậy, về mặt khoa học, luận án hy vọng sẽ làm phong phú thêm kho tàng lí luận ngôn ngữ học so sánh đối chiếu và cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam. Về thực tiễn Việc giải quyết các vấn đề được đặt ra trong luận án đề xuất những ứng dụng cơ bản cho việc dạy tiếng Nga cho người Việt, dạy tiếng Việt cho người Nga, đặc biệt là về hiện tượng chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ không gian. Những kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể được sử dụng khi biên soạn từ điển Nga – Việt, Việt – Nga, thậm chí là cả từ điển giải thích tiếng Nga hay tiếng Việt. Ngoài ra, công việc dịch thuật giữa hai ngôn ngữ Nga, Việt cũng có thể vận dụng những kết quả nghiên cứu này để chuyển ngữ một cách sinh động và chính xác, phù hợp với văn hóa của ngôn ngữ đích và ngôn ngữ nguồn. 6.2. Đóng góp của luận án Thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra, luận án sẽ có đóng góp nhất định vào việc phân tích các đặc điểm chuyển nghĩa từ vựng của nhóm từ chỉ hướng không gian trên cơ sở mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và tri nhận, cung cấp thêm những nhận xét, những dữ liệu về hiện tượng chuyển nghĩa này trên cơ sở lý luận mới của ngôn ngữ học tri nhận và trên ngữ liệu của các từ chỉ sự chuyển động có hướng và 10 phương hướng trong không gian và của các từ chỉ sự định hướng và phương vị trong không gian. Luận án có thể góp phần làm phong phú thêm các lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu và bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận. Về thực tiễn, với cách tiếp cận chuyên sâu vào hiện tượng chuyển nghĩa của những từ chỉ hướng không gian và có sự liên hệ so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ Việt – Nga, việc phân tích cặn kẽ các nét nghĩa của một nhóm từ cụ thể cũng sẽ giúp cho người dạy và người học tiếng có cái nhìn cụ thể hơn khi sử dụng nhóm từ này trong ngôn cảnh, sử dụng chúng tốt hơn, đa dạng hơn, tinh tế hơn, đạt hiệu quả giao tiếp cao. Mặt khác, các kết quả so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ Việt – Nga sẽ giúp làm sáng tỏ hơn những đặc thù về tri nhận, về văn hóa của người sử dụng hai ngôn ngữ này. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục, danh mục sách tham khảo và nguồn tư liệu trích dẫn, luận án gồm ba chương sau đây: Chương 1: Cơ sở lý thuyết Chương này chúng tôi trình bày một số vấn đề lí luận cơ bản liên quan đến đề tài: Hiện tượng chuyển nghĩa của từ tiếng Việt, các phương thức chuyển nghĩa,… xét trong mối quan hệ bộ ba “ngôn ngữ - tri nhận - văn hóa”, sự chuyển nghĩa nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, và những cơ sở tri nhận của cách dùng các từ chỉ không gian như: ý niệm hóa và quá trình ý niệm hóa không gian, nguyên lí: “dĩ nhân vi trung”, định hướng không gian và bản đồ tri nhận không gian v.v. Chương 2: Hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt (trên ngữ liệu nhóm từ chỉ hướng không gian và có liên hệ với tiếng Nga) Chương này chúng tôi tập trung khảo sát miêu tả sự chuyển nghĩa và cách dùng của nhóm từ định hướng (ra - vào, lên - xuống, qua - lại, đi - về,… và nhóm từ vị trí không gian: (trên - dưới, trước - sau, trong - ngoài) trong tiếng Việt, song song với việc khảo sát ngữ nghĩa đó chúng tôi tiến hành đối chiếu nhằm chỉ ra sự tương đồng và khác biệt trong khả năng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ hướng 11 không gian tiếng Việt và tiếng Nga, qua đó tìm hiểu sự tri nhận không gian của người Nga và người Việt. Chương 3: Những cơ sở tri nhận của phép ẩn dụ trong tiếng Việt (trên ngữ liệu của nhóm từ chỉ hướng không gian và có liên hệ với tiếng Nga) Trong chương này chúng tôi sẽ đi sâu vào những cơ sở tri nhận ẩn chứa trong hiện tượng chuyển nghĩa theo phép ẩn dụ của nhóm từ chỉ hướng không gian trong tiếng Việt và có liên hệ với nhóm từ tương đương của tiếng Nga. Cụ thể là những cơ sở tri nhận trong phép ẩn dụ theo quan điểm ngôn ngữ học truyền thống và theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận hiện đại - tức là các ẩn dụ ý niệm. Từ đó tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau trong cơ chế, cách thức tri nhận không gian của người Nga và người Việt. 12 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ Chuyển nghĩa từ vựng là một hiện tượng ngôn ngữ phổ quát trong các ngôn ngữ. Chuyển nghĩa theo Từ điển tiếng Việt [89, tr.188] là “Chuyển sang một nghĩa mới, ít nhiều vẫn còn mối liên hệ với nghĩa trước” và “Chuyển biến ý nghĩa là một phương thức để tạo thêm từ mới bên cạnh các phương thức ghép hoặc láy” [7, tr.27]. Sự chuyển nghĩa từ vựng có thể làm cho ý nghĩa của từ mở rộng ra hoặc thu hẹp lại. Nói nghĩa của từ “mở rộng” tức là nói tính khái quát của nó tăng lên, các nét nghĩa cụ thể, quy định phạm vi biểu vật bị loại bỏ hay mờ nhạt đi. Nói cách khác, sự mở rộng ý nghĩa là hậu quả của hiện tượng tăng thêm các ý nghĩa biểu vật của từ. Và sự thu hẹp ý nghĩa của từ đi kèm với sự cụ thể hóa ý nghĩa, đi kèm với việc tăng thêm những nét nghĩa cụ thể, quy định phạm vi biểu vật của từ. Mở rộng ý nghĩa là một quá trình phát triển ý nghĩa từ cái riêng đến cái chung, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng. Ví dụ: từ ra nghĩa ban đầu “biểu thị sự dời chỗ có hướng” dùng ở lĩnh vực chỉ mối quan hệ không gian, nhưng về sau ra đã được dùng rộng rãi ở nhiều phạm vi và nhiều lĩnh vực khác, thí dụ như chỉ kết quả quá trình thay đổi về hình thức: thon ra, đẹp ra, béo ra,…hay đánh giá theo thang độ như: trắng ra, đỏ ra, dài ra, to ra v.v… Trong sự chuyển biến ý nghĩa, bình thường nghĩa biểu vật “ít nhiều vẫn còn mối liên hệ với nghĩa trước” [89, tr.188], nhưng cũng có khi nghĩa biểu vật đầu tiên không còn nữa, chúng ta đã quên đi, như nghĩa “bên phải bên trái” của từ đăm chiêu; nghĩa “cái búa để điều khiển voi” của từ vố; nghĩa “không tiền, không tài sản” của từ ngặt; nghĩa “ở tình thế nguy hiểm, quẫn bách, có thể nguy hiểm” của từ nghèo. Hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng trong đó việc mở rộng và thu hẹp ý nghĩa không nhất thiết làm cho ý nghĩa cũ mất đi mà có khi cả hai nghĩa - nghĩa đầu tiên và các nghĩa mới - cùng tồn tại, tạo nên tính đa nghĩa của một từ. Những người bản ngữ 13 bình thường nhiều khi khó nhận biết hay khó khẳng định nghĩa nào là nghĩa đầu tiên của từ. Hiện tượng mở rộng nghĩa và thu hẹp ý nghĩa có khi xảy ra đối với cùng một từ và đôi khi lại là kết quả của một quá trình khái quát hóa, trừu tượng hóa. Quá trình chuyển nghĩa thứ hai diễn ra theo qui luật ẩn dụ và hoán dụ. Sự hình thành các từ mới dựa trên những từ vốn có được thể hiện bằng các phương thức chuyển nghĩa này. 1.1.1. Nguyên nhân chuyển nghĩa Sự chuyển biến ý nghĩa của từ xảy ra do nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp, bên trong và bên ngoài khác nhau như: sự phát triển không ngừng của thực tế khách quan, nhận thức của con người thay đổi, hiện tựơng kiêng cữ, sự phát triển và biến đổi của hệ thống ngôn ngữ,... Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng hơn cả là nhu cầu giao tiếp của con người. Những nhu cầu về mặt trí tuệ và những nhu cầu về mặt tu từ buộc ngôn ngữ phải luôn thay đổi và sáng tạo để biểu thị những sự vật, hiện tượng cùng những nhận thức mới, để thay thế cách diễn đạt, những tên gọi cũ đã mòn, không còn khả năng gợi tả, bộc lộ cảm xúc và gây ấn tượng sâu sắc ở người nghe nữa. Thay đổi ý nghĩa của từ có sẵn, thổi vào chúng một luồng sinh khí mới là một biện pháp tiết kiệm, sống động, giàu tính dân tộc, dễ dàng được sự chấp nhận của nhân dân, đáp ứng được kịp thời nhu cầu của giao tiếp. Nguyên nhân tiếp theo là sự biến đổi không ngừng của đời sống xã hội. Qua quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên và xã hội, con người đã làm cho xã hội ngày càng văn minh, đời sống ngày càng trở nên phong phú, tế nhị. Những cái mới nảy sinh trong thiên nhiên, xã hội và con người đòi hỏi phải được biểu hiện. Trong khi đó người ta không thể tăng vốn từ của mình lên mãi. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới phải phát triển thêm các nghĩa mới của từ thể hiện phương thức diễn đạt. Đồng thời với sự phát triển của xã hội, nhận thức của con người cũng ngày một nâng cao. Vẫn những sự vật, hiện tượng hay quan hệ ấy nhưng càng ngày người ta càng nhận thức sâu sắc hơn. Nhiều thuộc tính của sự vật trước đây bị che 14 mờ thì bây giờ được phát hiện. Do đó, ý nghĩa không thể không thay đổi với sự phát triển của nhận thức, suy nghĩ về sự vật. Sự phát triển của hệ thống ngôn ngữ cũng ảnh hưởng tới kết cấu ý nghĩa của từ, với tư cách là nhân tố bên trong. Với thời gian, ngôn ngữ đã được bổ sung thêm nhiều yếu tố mới, đồng thời yếu tố cũ bị đào thải. Do đó, mối quan hệ giữa các từ trong ngôn ngữ cùng với kết cấu chung của nó cũng bị thay đổi. Điều này cũng có thể làm cho từ có thêm nghĩa mới. Những nguyên nhân trên là động lực làm cho các từ phát triển thêm nghĩa mới, còn bản thân quá trình phát triển thêm ý nghĩa mới của từ lại gắn liền với hiện tượng chuyển nghĩa. 1.1.2. Các dạng chuyển nghĩa Hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng có thể xảy ra dưới những dạng khác nhau: a. Dạng “móc xích” Giữa nghĩa đầu tiên với các nghĩa mới có thể diễn ra sự biến đổi theo kiểu “móc xích”, nghĩa đầu tiên chuyển sang nghĩa S1, từ S1 chuyển sang S2, từ S2 chuyển sang nghĩa S3, v.v… b. Dạng “toả” ra Các trường hợp của từ chuyển biến theo lối “tỏa” ra nghĩa là các nghĩa mới đều dựa vào nghĩa đầu tiên mà xuất hiện. Mối liên hệ giữa nghĩa đầu tiên với những nghĩa xuất hiện sau có khi còn thấy rõ nhờ nét nghĩa cơ sở. Song có khi mối liên hệ này đã bị đứt quãng, lúc này, từ vốn là một, nhưng đã tách ra thành hai từ đồng âm. Như thế, lúc này sự chuyển biến ý nghĩa cũng là một phương thức để tạo thêm từ mới bên cạnh các phương thức ghép hoặc láy. c. Mối quan hệ giữa các ý nghĩa Các từ có ý nghĩa biểu vật cùng thuộc một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu niệm cùng một cấu trúc thì chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng giống nhau. Ví dụ: từ mũi là từ chỉ bộ phận cơ thể, được chuyển sang phạm vi đồ vật, vật thể địa lý, chỉ bộ phận của các đối tượng này. Những từ khác cũng chỉ bộ phận cơ thể như: cổ, chân, sườn, mặt, lòng…đều có khả năng chuyển sang phạm vi đồ vật, vật thể địa 15 lý… chỉ bộ phận của chúng. Ta có: mũi dao, mũi đất, thì cũng có cổ áo, cổ chai; chân giường, chân tủ; sườn núi, sườn đồi; mặt bàn, mặt biển; lòng sông, lòng hồ v.v… Sự chuyển nghĩa có thể dẫn tới kết quả là ý nghĩa sau khác hẳn với nghĩa trước. Thậm chí ngay cùng một từ, sự chuyển nghĩa có thể khiến cho nó trở thành đồng nghĩa với cái từ trái nghĩa trước kia của nó. Khi các nghĩa chuyển còn liên hệ với nhau, sự chuyển nghĩa có thể làm cho ý nghĩa của từ mở rộng ra hoặc thu hẹp lại. Tác giả Đỗ Hữu Châu nhận định: “từ (đơn hoặc phức) lúc mới xuất hiện đều có một nghĩa biểu vật. Sau một thời gian được sử dụng, nó có thể có thêm nhiều nghĩa biểu vật mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó càng có khả năng biến đổi” [7, tr.146]. Chẳng hạn mối quan hệ giữa các ý nghĩa biểu vật của từ đi. Phân tích cách nói đi học? đi làm? ta thấy đi học, đi làm có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là chỉ những hành động cụ thể dời chỗ hằng ngày để đến chỗ học hoặc làm việc, thứ hai là nghĩa miêu tả sự bắt đầu tham gia một hoạt động có tính chất nghề nghiệp trong xã hội. Với nét nghĩa “dời chỗ không cách thức, theo hướng xa rời vị trí gốc”. Ở nghĩa này, nét nghĩa thứ nhất vẫn là nét nghĩa chi phối. Trong các phát ngôn: “Tuổi lên bảy là tuổi đi học”, “Sau ba tháng nghỉ cô ấy mới đi làm hôm qua” là đều hàm ý rời bỏ tình trạng gốc “tuổi ấu thơ vô tư lự”, hay “tình trạng nghỉ ngơi”, hoặc “tình trạng chưa có việc làm”…Hay trong các cách diễn đạt chúng ta vẫn thường dùng hàng ngày như: “gầy đi”, “xấu đi”, “đen đi” (chứ không nói “béo đi”,“đẹp đi”), chúng ta nói như vậy là vì trong cách nói đó vẫn hàm ý “rời bỏ trạng thái gốc” vốn là trạng thái được xem là tích cực (béo hoặc khỏe mạnh, đẹp hoặc trắng trẻo…). Cái nghĩa hàm ý một sự mất mát, không còn như lúc ban đầu cũng hiện hữu trong cách dùng “Ông cụ đã đi hôm qua”. 1.1.3. Các phương thức chuyển nghĩa Xem xét đến hiện tượng chuyển nghĩa của từ không chỉ là việc tiến hành phân tích các hiện tượng liên quan như: đồng âm, đa nghĩa, đồng nghĩa, v.v. mà còn là việc xem xét các quy luật phát triển nghĩa của từ trong quá trình sử dụng. Sự phát triển nghĩa này của từ dựa vào hai quy luật: 16 1. Quy luật logic, gồm mở rộng và thu hẹp nghĩa. 2. Quy luật liên tưởng, gồm ẩn dụ và hoán dụ. Liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi sẽ xem xét kỹ những vấn đề sau: a. Mở rộng nghĩa: Đối với các từ chỉ hướng không gian, đây là con đường chuyển nghĩa chính theo logic. Chẳng hạn, hồ có nghĩa đầu tiên là: “bột quấy đặc để ăn”, nhưng giờ đây từ này được dùng phổ biến với nghĩa là “bột quấy đặc để dán”. Việc thu hẹp – mở rộng nghĩa còn được xem xét ở phạm vi các nghĩa trong từ nhiều nghĩa. Ví dụ: chân trong cách dùng chân bàn, chân đồi… dường như ta đã loại bỏ nét nghĩa “chi dưới của động vật hoặc người”. b. Ẩn dụ: Đối với các từ chỉ hướng không gian, đây là con đường chuyển nghĩa chính theo liên tưởng. Ẩn dụ là cách gọi tên một sự vật, hiện tượng khác dựa trên sự giống nhau giữa các sự vật, hiện tượng được so sánh với nhau. Thực chất của ẩn dụ cũng như hoán dụ là sự chuyển biến từ ý nghĩa sở thị này sang ý nghĩa sở thị khác, từ ý nghĩa sở biểu này sang ý nghĩa sở biểu khác. Nếu là chuyển biến nghĩa sở thị thì giữa các nghĩa sở thị vẫn có sự đồng nhất với nhau ở các nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa sở biểu của chúng. Ví dụ: trong tiếng Nga, từ гнездо có nghĩa là: “tổ chim”, “nhóm (người)”, “cụm (nấm)”, “ổ (gián điệp)”, “ụ (súng máy)”, v.v…Những đối tượng mà гнездо biểu thị rất khác nhau nhưng giữa chúng đều có một điểm chung là “chỗ chứa”. Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa dựa trên mối liên tưởng tương đồng. Có thể diễn giải định nghĩa này như sau: Giả sử ta có từ T là tên gọi của đối tượng Đ1 (và lẽ đương nhiên T có nghĩa S1). Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 nào đó, mà người ta thấy giữa Đ1 và Đ2 có những nét, những mặt nào đó giống nhau, người ta có thể dùng T để gọi tên cho cả Đ2. Lúc này, một nghĩa S2 tương ứng được xác lập trong T. Chúng ta nói rằng ở đây đã diễn ra một phép ẩn dụ. Hoặc có thể nêu khái niệm ẩn dụ từ vựng như sau: Cho A là một hình thức ngữ âm, x và y là những nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi của x (x là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y (biểu thị y) thông qua sự giống nhau giữa x và y. 17 Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong “Từ vựng học tiếng Việt” [21] đã phân chia ẩn dụ từ vựng trên tính chất của sự giống nhau. Kết quả là có những loại ẩn dụ dựa trên những sự tương đồng về: - Hình thức: (lá- lá phổi); - Màu sắc: (lá cây- màu xanh lá cây); - Chức năng (huyết mạch- con đường huyết mạch); - Thuộc tính, tính chất (khô – tình cảm khô khan, tình cảm ướt át); - Đặc điểm, vẻ ngoài nào đó (Hoạn Thư – máu Hoạn Thư); - Ẩn dụ cụ thể trừu tượng (nắm tay – nắm công thức); - Chuyển tên các con vật thành cách gọi con người (cún con, chó con – cún con của mẹ); - Chuyển tính chất của sinh vật sang sự vật hoặc hiện tượng khác (con tàu chạy, thời gian đi). Dựa trên nhiều tiêu chí, Đỗ Hữu Châu [9] phân chia thành các kiểu ẩn dụ từ vựng khác nhau: Thứ nhất, tùy theo x và y là các sự vật cụ thể (có thể cảm nhận bằng giác quan) hay trừu tượng mà ẩn dụ được chia thành ẩn dụ cụ thể - cụ thể (miệng người – miệng chén), ẩn dụ cụ thể - trừu tượng (con đường – con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội). Thứ hai, quan trọng hơn là phân biệt cơ chế ẩn dụ theo nét nghĩa phạm trù dựa vào đó mà xuất hiện ẩn dụ. Theo đó có các kiểu ẩn dụ sau: + Ẩn dụ hình thức, tức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức, ví dụ: mắt - mắt nai; + Ẩn dụ vị trí, tức là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về vị trí giữa các sự vật xét trong chỉnh thể sự vật, ví dụ đầu – đầu làng, đầu giường,…; + Ẩn dụ cách thức, tức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa hai hoạt động, hiện tượng như cắt hộ khẩu, nắm vấn đề;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất