1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà trường đại học quân sự.
Chất lượng đào tạo đội ngũ sĩ quan trong các nhà trường đại học quân sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, chất lượng đội ngũ giáo viên, học viên, cán bộ quản lý, cơ sở vật chất đảm bảo cho quá trình dạy học... Trong đó, nhân tố đóng vai trò trực tiếp quyết định thuộc về người học. Đặc biệt khi người học biết phát huy vai trò tích cực, sáng tạo biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Vì vậy, Nghị quyết 93 của Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ ra, tính tích cực học tập của học viên là một mặt, một khía cạnh chi phối đến nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Trong học tập tính tích cực học tập của học viên có vai trò quan trọng, là điều kiện để giúp người học viên nắm vững hệ thống tri thức, kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp hoạt động quân sự, là điều kiện để biến những nhu cầu đào tạo tại trường, yêu cầu đòi hỏi của quân đội, của xã hội thành nhu cầu, động cơ tích cực phấn đấu vươn lên của bản thân mỗi học viên. Đồng thời còn là điều kiện để học viên đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nền kinh tế tri thức và sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Tính tích cực học tập của học viên chỉ có thể được nâng cao khi chúng ta tìm ra được một tổng thể các tác động thúc đẩy họ học tập. Giải quyết vấn đề này có thể trên nhiều phương diện khác nhau: triết học, xã hội học, giáo dục học... Dưới góc độ tâm lý học, việc nghiên cứu chỉ ra cơ sở tâm lý nâng cao tính tích cực học tập của học viên là vấn đề cần thiết. Nó là cơ sở để chúng ta tìm ra một hệ thống các biện pháp tâm lý - xã hội thúc đẩy tính tích cực học tập, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả quá trình giáo dục đào tạo.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, vấn đề nâng cao tính tích cực học tập của học viên đã được lãnh đạo chỉ huy Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Lục quân 2 thường xuyên quan tâm, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về tính tích cực học tập của học viên để tìm ra những biện pháp góp phần nâng cao tính tích cực học tập cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo ở đối tượng này. Do vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài "Cơ sở tâm lý nâng cao tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội hiện nay".
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HÀ NỘI - 2004 BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ
==
LÊ DUY TUẤN
CƠ SỞ TÂM LÝ NÂNG CAO TÍNH TÍCH
CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO
SĨ QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI HIỆN
NAY
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số:
60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Cao Xuân Trung
2
MỤC LỤC
Trang
3
MỞ ĐẦU
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu vấn đề
1.2 Các khái niệm cơ bản
8
8
20
1.3 Đặc điểm hoạt động học tập và những yếu tố quy định
tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ
huy cấp phân đội
Chương 2
37
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP TÂM LÝ - XÃ HỘI NÂNG
CAO TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ
QUAN CHỈ HUY CẤP PHÂN ĐỘI HIỆN NAY
54
2.1 Thực trạng về tính tích cực học tập của học viên đào
tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội
54
2.2 Các giải pháp tâm lý - xã hội nâng cao tính tích cực học
tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội
89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
PHỤ LỤC
113
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, đặt ra yêu cầu khách quan
phải nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà trường đại học quân sự.
Chất lượng đào tạo đội ngũ sĩ quan trong các nhà trường đại học quân
sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nội dung, chương trình, phương pháp dạy và
học, chất lượng đội ngũ giáo viên, học viên, cán bộ quản lý, cơ sở vật chất
đảm bảo cho quá trình dạy học... Trong đó, nhân tố đóng vai trò trực tiếp
quyết định thuộc về người học. Đặc biệt khi người học biết phát huy vai trò
tích cực, sáng tạo biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Vì vậy,
Nghị quyết 93 của Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ ra, tính tích cực học tập
của học viên là một mặt, một khía cạnh chi phối đến nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo.
Trong học tập tính tích cực học tập của học viên có vai trò quan trọng, là
điều kiện để giúp người học viên nắm vững hệ thống tri thức, kỹ xảo, kỹ năng
nghề nghiệp hoạt động quân sự, là điều kiện để biến những nhu cầu đào tạo tại
trường, yêu cầu đòi hỏi của quân đội, của xã hội thành nhu cầu, động cơ tích
cực phấn đấu vươn lên của bản thân mỗi học viên. Đồng thời còn là điều kiện
để học viên đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của nền kinh tế tri thức và sự nghiệp
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Tính tích cực học tập của học viên chỉ có thể được nâng cao khi chúng
ta tìm ra được một tổng thể các tác động thúc đẩy họ học tập. Giải quyết vấn
đề này có thể trên nhiều phương diện khác nhau: triết học, xã hội học, giáo
dục học... Dưới góc độ tâm lý học, việc nghiên cứu chỉ ra cơ sở tâm lý nâng
cao tính tích cực học tập của học viên là vấn đề cần thiết. Nó là cơ sở để
chúng ta tìm ra một hệ thống các biện pháp tâm lý - xã hội thúc đẩy tính tích
4
cực học tập, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả quá trình giáo dục đào
tạo.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, vấn đề nâng cao tính tích cực
học tập của học viên đã được lãnh đạo chỉ huy Trường Sĩ quan Lục quân 1,
Trường Sĩ quan Lục quân 2 thường xuyên quan tâm, nhưng cho đến nay
chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về tính tích cực học tập của
học viên để tìm ra những biện pháp góp phần nâng cao tính tích cực học tập
cho học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội đáp ứng mục tiêu, yêu cầu
đào tạo ở đối tượng này. Do vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài "Cơ sở tâm lý
nâng cao tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp
phân đội hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Tính tích cực nói chung và tính tích cực học tập nói riêng đã được các
nhà tâm lý học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
Các nhà tâm lý học phương Tây đã đề cập đến các vấn đề này như:
S. Freud, J. Watson, Abraham - Maslow.
Các nhà tâm lý học Liên Xô đề cập đến vấn đề này như: S. D. Smiznov,
V. P. Điatrencô, V. Ia. Rômanov, P. Ia Ganperin, A. A. Linblinxcaia, B.
G. Iarosevxki, A. N. Lêônchiev, V. S. Lukevich, A. V. Daparogiet, L.
M. Ackhanghenxki, R. Minle. Đặc biệt là I. F. Kharlamov và V. O. Kôn.
Ở Việt Nam, nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học đã đưa vấn đề tính tích
cực học tập vào trong nghiên cứu của mình như: Nguyễn Hồi Loan, Trần Bá
Hoành, Thái Duy Tuyên, Hoàng Thị Thu Hà, Đỗ Thị Coỏng, Hoàng Thị Tuyết,
Nguyễn Xuân Thức, Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Ngọc Bảo, Phạm Minh Hạc,
Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Kim Phương.
Ngoài ra còn có tác giả trong quân đội nghiên cứu đó là: Nguyễn Ngọc
Phú, Ngô Minh Tuấn, Đinh Hùng Tuấn, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Văn
5
Tuân, Nguyễn Văn Sơn, Lê Hồng Thái... đó là những tiền đề quan trọng để
chúng tôi giải quyết vấn đề nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở tâm lý nâng cao tính tích cực học tập của học
viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, đề xuất một số giải pháp tâm lý xã hội cơ bản nhằm nâng cao tính tích cực học tập, góp phần vào quá trình tổ
chức huấn luyện giáo dục ở nhà trường hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải một số vấn đề lý luận về tính tích cực học tập, chỉ ra những
cơ sở tâm lý nâng cao tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ
huy cấp phân đội và những biểu hiện tính tích cực học tập của học viên trong
quá trình đào tạo.
- Nghiên cứu thực trạng tính tích cực học tập của học viên.
- Đề xuất các giải pháp tâm lý - xã hội nhằm nâng cao tính tích cực học
tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội hiện nay.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục quân
1 và Trường Sĩ quan Lục quân 2.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội phụ
thuộc một cách tất yếu và có tính quy luật vào những nhân tố xác định, trong đó
tính tích cực học tập của học viên giữ vai trò quyết định. Nếu chỉ ra được cơ sở
tâm lý của tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân
đội hiện nay, có những biện pháp tác động phù hợp thì sẽ nâng cao được tính
tích cực học tập cho học viên trong quá trình đào tạo.
6
6. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu đề cập những cơ sở tâm lý nâng cao tính tích cực học
tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội hiện nay.
7. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, của Quân đội nhân dân Việt Nam về giáo dục đào
tạo sĩ quan trong các nhà trường quân đội, đồng thời dựa vào các nguyên tắc
phương pháp luận của tâm lý học mác xít.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp của
tâm lý học và tâm lý học quân sự bao gồm:
* Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đề tài sử dụng nhằm phân tích,
tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá các nguồn tài liệu khác nhau, tham
khảo các công trình nghiên cứu có liên quan để giải quyết các nhiệm vụ mà
đề tài xác định.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra:
+ Mục đích: nhằm thu thập thông tin cần thiết về thực trạng, nguyên
nhân các dấu hiệu biểu hiện tính tích cực học tập, các yếu tố quy định tính tích
cực học tập của học viên và các giải pháp tâm lý - xã hội nâng cao tính tích
cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội.
+ Đối tượng điều tra: học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, giáo
viên và một số cán bộ làm công tác quản lý học viên của hai đơn vị: Trường Sĩ
quan Lục quân 1 và Trường Sĩ quan Lục quân 2.
7
+ Cách thức điều tra: thông qua hệ thống các bảng hỏi được thiết kế
thành 7 mẫu phiếu dùng cho 3 đối tượng:
Mẫu 1, 2, 3, 4 dành cho học viên
Mẫu 4, 5, 6, 7 dành cho cán bộ quản lý, giáo viên
- Phương pháp quan sát:
+ Mục đích quan sát: nhằm xác định những dấu hiệu biểu hiện tính tích
cực học tập của học viên.
+ Đối tượng quan sát: học viên đã được điều tra.
+ Cách thức quan sát: thông qua dự giờ lên lớp, xêmina, tự học của
học viên.
- Phương pháp tọa đàm, phỏng vấn:
+ Mục đích: nhằm khẳng định các kết quả, các số liệu đã thu thập được
về dấu hiệu biểu hiện tính tích cực học tập của học viên, các yếu tố quy định
tính tích cực học tập của học viên.
+ Đối tượng tọa đàm, phỏng vấn: học viên, cán bộ quản lý và giáo viên.
+ Nội dung tọa đàm, phỏng vấn: dựa theo nội dung các phiếu điều tra.
Ngoài các phương pháp cơ bản nêu trên, chúng tôi còn sử dụng phương
pháp chuyên gia, phương pháp nghiên cứu sản phẩm học tập, phương pháp
toán thống kê...
8. Những đóng góp của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở tâm lý nâng cao tính tích cực học tập của
học viên, làm rõ thực trạng và chỉ ra các giải pháp tâm lý - xã hội nhằm nâng
cao tính tích cực học tập của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội
hiện nay.
9. Cấu trúc của luận văn
8
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương, 5 tiết, kết luận, kiến nghị, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Tính tích cực là một phẩm chất tâm lý quan trọng của con người. Vì
vậy, từ xưa đến nay nó được nhiều nhà khoa học, nhiều ngành khoa học quan
tâm nghiên cứu.
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia như Khổng Tử, Socrate đã nói đến tầm
quan trọng to lớn của tính tích cực học tập và các biện pháp để phát huy tính
tích cực học tập của học sinh.
Khổng Tử (551 - 479 TCN) đã chú ý đến việc kích thích suy nghĩ của
học trò trong dạy học. Ông nói: Không tức giận vì muốn biết thì không gợi
mở cho, không bực tức vì không rõ thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc
bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy cho nữa
(trích luận ngữ). Như vậy, cách dạy của Khổng Tử chính là sự gợi mở để trò
tìm ra chân lý, thầy giáo chỉ giúp trò cái mấu chốt nhất, còn mọi vấn đề khác
học trò phải tự tìm ra. Trong cuộc đời dạy học của mình bằng kinh nghiệm,
ông đã đúc kết, khái quát và đề xuất nhiều cách dạy học hướng vào kích
thích hứng thú, tích cực suy nghĩ của học sinh trong quá trình học tập. Đây
chính là ý tưởng tiến bộ cho một cách dạy học mới: Không bao giờ làm thay
"bày sẵn" cho người học mà phải bằng sự khéo léo, hướng dẫn, khêu gợi, mở
mang, tạo nên ở người học sự hứng thú, tích cực, độc lập nhận thức trong
quá trình dạy học [5, tr.8].
Socrate (469 - 390 TCN) là người đề ra phương pháp tìm tòi phát hiện
chân lý bằng cách đặt ra câu hỏi cho người học tự tìm ra kết luận. Người ta
thường gọi phương pháp này là phương pháp đàm thoại gợi mở (thuật đỡ
đẻ). Chính nhờ phương pháp này đã dẫn dắt người học vào tình huống có
10
vấn đề, khơi dậy ở người học niềm say mê, hứng thú, tích cực, chủ động học
tập.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại vấn đề kích thích tính tích cực, chủ động
học tập của học sinh trong dạy học đã được các triết gia quan tâm nghiên
cứu. Những tư tưởng đó đến ngày nay vẫn còn giá trị về mặt lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử, những nghiên cứu của các triết gia
chủ yếu đi sâu vào khía cạnh tác động vào người học nhằm nâng cao tính
tích cực của họ, còn các vấn đề khác chưa được quan tâm đầy đủ, nhất là các
yếu tố về chủ thể người học.
* Nghiên cứu của tâm lý học phương Tây
- Trường phái phân tâm học, đứng đầu là S. Freud (1856 - 1939) nhà
tâm lý học và tâm thần học người áo, đã tuyệt đối hoá vai trò của bản năng.
Theo S. Freud, nguồn gốc tính tích cực của con người có từ trong sâu thẳm
của vô thức. Theo ông, bản năng vô thức là nguồn lực căn bản thúc đẩy tính
tích cực hoạt động của con người, nhất là bản năng tính dục. Với quan niệm
trên S. Freud đã phát hiện ra phần bản năng vô thức trong đời sống con
người. Đó là một đóng góp cho sự khám phá đời sống tâm lý con người. Tuy
nhiên do tuyệt đối hoá bản năng vô thức, quan niệm của S. Freud đã hạn chế
đến việc nghiên cứu động lực thúc đẩy con người như một hiện tượng tâm lý
cá nhân được hình thành trên cơ sở các yếu tố chủ quan và các yếu tố tác
động của môi trường tự nhiên, xã hội và hoạt động thực tiễn của con người.
Chính điều đó về sau các học trò của S. Freud như E. Fromm, R. Horney đã
xây dựng học thuyết phân tâm mới, trong đó đã có những quan điểm mới
phân tích hành vi con người dựa trên cơ sở các yếu tố xã hội, nhưng trong
giải thích của họ thì yếu tố bản năng vẫn còn bộc lộ vai trò chủ đạo đối với
việc thúc đẩy hành vi con người.
- Các nhà tâm lý học theo trào lưu hành vi chủ nghĩa đại diện là J.
Watson (1878 - 1958), E. L. Toócdai (1874 - 1949), B. Ph. Skinnơ (1904 -
11
1990), W. Mischel, A. Badura khi nghiên cứu về giáo dục và hành vi học tập
của con người cho rằng, các điều kiện bên ngoài: những "kích thích", "tổ hợp
kích thích" tạo phản ứng, "điều kiện Operant", là tình huống, hoàn cảnh
(Stuation) của hành vi học tập xã hội. Từ đó các nhà tâm lý học hành vi cho
rằng, nghiên cứu các yếu tố tâm lý thúc đẩy tính tích cực học tập của con
người là việc làm vô ích, bởi đối tượng nghiên cứu của tâm lý là hành vi, là
việc quan sát hành vi con người. Cơ sở nghiên cứu hành vi là mối quan hệ S
R (kích thích - phản ứng), là sự thích ứng của cơ thể với môi trường. Có
thể nói tâm lý học hành vi chủ nghĩa chưa quan tâm đến các yếu tố bên trong
thúc đẩy hành vi con người, mà lại đề cao các điều kiện bên ngoài, đề cao vai
trò yếu tố xã hội và coi giáo dục có thể thay thế các yếu tố tâm lý trong sự
hình thành và phát triển nhân cách. Họ chưa thấy được con người là chủ thể
có ý thức, mọi tác động xã hội, giáo dục đến con người đều phải thông qua
các điều kiện bên trong của chủ thể tiếp nhận. Sai lầm của chủ nghĩa hành vi
cũng được các nhà tâm lý học mác xít chỉ ra đó là họ ít quan tâm đến việc
con người nghĩ gì ? Ý thức, tài năng, chí hướng nguyện vọng của họ như thế
nào ?... mà chỉ chú trọng nhiều đến những biện pháp kích thích vào lợi ích
của con người để tạo ra hành vi mong muốn, điều này là chưa phù hợp thực
tế giảng dạy và học tập. J. Piagiet cho rằng, học tập không thể bị quy về hành
vi thuần tuý. Con người là chủ thể tìm kiếm tri thức, hướng vào thế giới bên
ngoài và đồng thời quy định sự phát triển thế giới bên trong của chủ thể [12,
tr.13].
- Các nhà tâm lý học nhân văn như, Abraham - Maslow (1908 - 1970)
cho rằng đông lực chính của nhân cách là mong muốn trở thành cái mà con
người có thể thực hiện bằng tất cả khả năng và ý chí của mình, nhu cầu là
động lực của nhân cách. Ông đã xây dựng hệ thống nhu cầu thành ba nhóm
chính theo thứ bậc nhóm các nhu cầu tự khẳng định, tự thể hiện; nhóm các
nhu cầu tâm lý như nhu cầu tự đánh giá, nhu cầu giao lưu... và nhóm nhu cầu
12
cơ sở, nhu cầu an toàn, nhu cầu sinh lý. Ông coi nhu cầu tự khẳng định là
nhu cầu có vị trí cao nhất, quyết định đến thái độ, hành vi, chiều hướng phát
triển của nhân cách, các nhu cầu về sinh lý là nhu cầu bậc dưới của con
người. Như vậy, những đóng góp của A.Maslow là rất đáng trân trọng, là đã
tìm ra được mối quan hệ gắn bó giữa động cơ và nhu cầu, điều này có ý
nghĩa lớn cho việc tìm hiểu động lực thúc đẩy hoạt động của con người.
Như vậy, trong tâm lý học phương Tây, có nhiều hướng khác nhau
nghiên cứu về nguồn gốc thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Đó
là những đóng góp đáng trân trọng trong lĩnh vực nghiên cứu tính tích cực
hoạt động nói chung, tính tích cực học tập của con người nói riêng. Tuy
nhiên chúng ta cần thấy rằng, các quan điểm đó mới chỉ nhìn nhận vấn đề đặt
ra trong một giới hạn hẹp, thậm chí có những hạn chế của nó như là đánh
đồng cái tâm lý với sinh lý, phủ nhận vai trò của ý thức, từ đó phủ nhận luôn
tính tích cực của con người, không thấy được vai trò của các yếu tố xã hội và
hoạt động thực tiễn của con người.
* Nghiên cứu của tâm lý học mác xít
Các nhà tâm lý học mác xít nghiên cứu tính tích cực hoạt động của con
người đã xuất phát từ quan niệm mác xít về bản chất xã hội của con người,
hoạt động của con người và động lực thúc đẩy hoạt động của con người. Dựa
trên quan điểm nổi tiếng của C. Mác: "... bản chất của con người không phải
là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" [3, tr.11], tâm lý
học mác xít chỉ ra, nghiên cứu tính tích cực hoạt động của con người phải
gắn với từng con người cụ thể, gắn hoạt động của họ cùng với những điều
kiện xã hội - lịch sử mà con người đó sống và hoạt động.
Dựa trên học thuyết hoạt động của C. Mác, đặc biệt là luận điểm về
hoạt động có đối tượng và bản chất xã hội - lịch sử của hoạt động con người,
13
tâm lý học mác xít đã đi đến kết luận quan trọng rằng: hoạt động có đối
tượng của con người chính là nơi sản sinh ra tâm lý con người và cũng là nơi
tâm lý thực hiện chức năng định hướng, điều chỉnh, điều khiển hoạt động,
tức là tâm lý trở thành thành phần của hoạt động, cũng có thể nói, tâm lý là
điều kiện vận hành của hoạt động. Điều đó cho thấy, việc nghiên cứu tính
tích cực hoạt động nói chung, tính tích cực học tập của con người nói riêng
không thể tách rời các yếu tố tâm lý trong bản thân chủ thể hoạt động. Đồng
thời do hoạt động của con người mang bản chất xã hội - lịch sử. Vì vậy,
nghiên cứu tính tích cực hoạt động của con người cũng không thể không gắn
liền với những tác động của điều kiện xã hội - lịch sử.
Từ luận điểm nổi tiếng của Ph. Ăng ghen: "Đáng lẽ người ta phải giải
thích hoạt động của mình từ nhu cầu của mình quyết định (...) thì người ta lại
quen giải thích hoạt động của mình từ tư duy của mình" [2, tr.651]. Tâm lý
học mác xít đã chỉ ra, nhu cầu là nguồn gốc tạo nên tính tích cực hoạt động
của con người. Nhu cầu của con người vừa mang tính khách quan vừa phản
ánh tính chủ quan, nó được hình thành trong quá trình sống, hoạt động và
chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên, xã hội và giáo dục. Khi nhu cầu bắt
gặp đối tượng thoả mãn thì trạng thái nhu cầu trở thành động cơ trực tiếp
kích thích, thúc đẩy con người hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng.
Vận dụng các quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng ghen, các công trình
nghiên cứu về tính tích cực trong tâm lý học Liên Xô đã đi theo 4 hướng cơ
bản sau.
- Hướng thứ nhất: Tính tích cực được xem xét từ góc độ chức năng, vai
trò của chủ thể với thế giới bên ngoài. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này
là S. D. Smiznov, V. P. Điatrencô, V. Ia Rômanov...
- Hướng thứ hai: Gắn tính tích cực hành động với hoạt động học tập và
được thể hiện trong các mức độ lĩnh hội khác nhau của chủ thể. Tiêu biểu là
P. Ia Ganperin, A. A. Linblinxcaia, B. G. Ia Rôsevxki...
14
- Hướng thứ ba: Tính tích cực hoạt động được nghiên cứu gắn liền với
cấu trúc tâm lý của hoạt động cụ thể, đó là quan điểm của A. N. Lêônchiev,
V. S. Iukêvích, A. V. Daparôgiet...
- Hướng thứ tư: Chỉ ra các chỉ số biểu hiện tính tích cực hoạt động
gồm: tính giá trị của hoạt động và tính tự nguyện, tính hiệu quả của hoạt
động, tính sáng tạo, tính phát triển; được thể hiện trong quan điểm của L. M.
Ackhanghenxki, Rimile... [22, tr.7].
Vận dụng trong lĩnh vực học tập, tính tích cực học tập được các nhà tâm
lý học Liên Xô nghiên cứu đó là:
+ L. M. Ackhanghenxki (1976), trong tác phẩm "Các bài giảng về lý
luận dạy học đại học" đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề để nâng cao tính
tích cực học tập như: tính độc lập học tập và nghiên cứu của người học, con
đường tìm tòi sáng tạo của người học như thế nào là tối ưu.
+ R. A. Nhizamov trong tác phẩm "Những cơ sở lý luận dạy học của
việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của sinh viên" đã cho rằng: Trong quá
trình dạy học, thầy và học sinh luôn tồn tại và hoạt động như hai chủ thể tích
cực, những hành động tích cực của thầy và trò liên hệ mật thiết với nhau tác
động lẫn nhau. Trong đó hành động tích cực của thầy có vai trò điều khiển
hoạt động nhận thức của sinh viên. Tính tích cực biểu hiện trong hành động
dạy, hành động học và đề ra các phương hướng để cho người học phát huy
cao độ tính tích cực nhận thức.
+ I. F. Kharlamov trong nghiên cứu "Phát triển tính tích cực học tập của
học sinh như thế nào ?", Ông đã nêu ra khái niệm tính tích cực nhận thức và
đề xuất những giải pháp nâng cao tính tích cực của học sinh trong dạy học.
Theo Ông tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của học sinh, đặc
trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình
nắm vững kiến thức.
+ Trong tác phẩm "Những vấn đề huấn luyện và giáo dục trong các
trường quân sự", các nhà sư phạm quân sự Xô Viết đã đề cập đến các vấn đề
15
như vai trò tính tích cực nhận thức, các biện pháp để phát triển tính tích cực
cho học viên quân sự Xô Viết. Đây là cơ sở để chúng ta nghiên cứu, vận
dụng trong điều kiện cụ thể của học viên các nhà trường quân sự ở Việt Nam.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
* Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, luôn
coi giáo dục là một công việc trọng tâm của cách mạng. Người luôn nhắc
nhở, động viên, khích lệ mọi người học tập. Người còn trực tiếp chỉ đạo việc
tổ chức giáo dục, huấn luyện quân đội từ ngày đầu thành lập. Những quan
điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành cơ sở lý luận cho
nền giáo dục Việt Nam hiện đại. Những quan điểm đó đã góp phần bồi
dưỡng nhiều thế hệ người Việt Nam trở thành đội ngũ cán bộ cách mạng
trung kiên, thông minh, sáng tạo, luôn tích cực vươn lên trong mọi lúc, mọi
nơi để hoàn thành trách nhiệm mà Đảng, nhân dân giao phó.
Trong thư "Gửi tập san" tháng 8 năm 1948 Người viết "Muốn trở thành
người quân nhân mới xứng đáng với cái vinh hạnh đứng trong quân đội nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì mỗi chiến sĩ, từ trên xuống dưới, các cấp
bậc đều phải nghiên cứu, học tập, luôn cầu tiến bộ" [26, tr.417].
Nếu ngại học tập, lười học tập thì trình độ nhận thức của họ ngày càng
mai một đi, không đáp ứng được yêu cầu mới của cách mạng, họ sẽ tụt hậu,
dẫn đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ không cao. Để hoạt động học tập đạt
kết quả cao, theo Hồ Chí Minh, phải biết khơi dậy tính tích cực bên trong
của người học, phải làm cho họ xác định được mục đích, động cơ học tập
đúng đắn, phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của các tầng lớp (thanh,
thiếu niên) và giúp đỡ họ giải quyết vấn đề học tập một cách thiết thực [29,
tr.307].
Để phát huy tính tích cực học tập của người học Hồ Chí Minh cho rằng,
phải thường xuyên chú trọng xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
16
Người viết "Muốn học tập có kết quả tốt thì phải có thái độ đúng và phương
pháp đúng" [30, tr.92], phải tự nguyện, tự giác xem công tác học tập cũng là
nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được do đó mà
tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố
gắng không lùi bước trước bất cứ khó khăn nào [28, tr.499], thái độ học tập
đúng phải được xây dựng trên cơ sở người học có động cơ học tập đúng đắn
"tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch"
[28, tr.497]. Người còn chỉ ra, muốn học tập có kết quả, người học phải xác
định mục đích học tập đúng đắn. Người viết: Nếu không có mục đích thì con
người không có được gì cả và không thể làm nên cái vĩ đại nếu mục đích tầm
thường. Mục đích chân chính của việc học tập là "học để phụng sự đoàn thể,
giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại" [27, tr.684]. Người cũng chỉ ra,
muốn giáo dục mang lại hiệu quả thiết thực thì phải thực hiện "học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã
hội". Đây là nguyên lý có ý nghĩa chỉ đạo toàn bộ quá trình giáo dục. Trong
chỉ đạo hoạt động dạy và học, Hồ Chí Minh nhiều lần bày tỏ quan điểm
chống lại cách dạy học, cách học không hướng vào sự phát triển của người
học, không kích thích tính tích cực suy nghĩ trong học tập. Người căn dặn
người dạy phải "tránh lối dạy nhồi sọ"; phải vận dụng nguyên lý "học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền thực tiễn" phải phát huy tính tự giác, chủ động
trong học tập của người học, lấy tự học làm chính. Với người học, Người
khuyên "không nên học thuộc lòng từng câu từng chữ" và nhấn mạnh, việc
cần tránh là thiếu sự chủ động và độc lập khi học tập "tuyệt đối không nhắm
mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều"...
Những quan điểm trên cho thấy Hồ Chí Minh đánh giá rất cao việc phát
huy tính tích cực học tập của người học. Người còn chỉ ra muốn xây dựng
tính tích cực học tập phải xây dựng ở người học động cơ, mục đích học tập
đúng đắn, đồng thời, giáo viên phải có những nội dung, phương pháp dạy
17
học thích hợp để kích thích nâng đỡ tính tích cực, độc lập, sáng tạo ở người
học.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng đã luôn quan tâm
chăm lo sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo. Đảng xác định: "coi giáo dục
là quốc sách hàng đầu" [8, tr.121], "đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển" [9, tr.29]. Chính vì vậy trong xác định mục tiêu, phương pháp giáo
dục, Đảng ta đặc biệt coi trọng đến việc phát triển trí tuệ, tư duy sáng tạo,
phát huy tính tích cực của cá nhân, khả năng làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định "Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và
sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học
vấn, tay nghề" [10, tr.35]; "Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư
duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực
nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay
[10, tr.204].
Như vậy, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta luôn chú trọng đến vấn đề phát huy tính tích cực học tập
của người học. Đó là những cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu tính tích
cực học tập của học viên. Đồng thời đây cũng là cơ sở để các trường đào tạo
sĩ quan nói chung và đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội nói riêng xác định
mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo sĩ quan cần phải chú trọng hơn đến
phát triển trí tuệ, tính độc lập, sáng tạo và tính tích cực của học viên.
* Nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học
Trên cơ sở các nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên Xô, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, gần đây ở Việt Nam đã
có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến nâng cao
tính tích cực học tập của học sinh, sinh viên. Trong đó có thể kể đến các
công trình của các tác giả sau:
18
- Giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Hoành khi nghiên cứu "Những đặc trưng của
phương pháp dạy học tích cực" đã cho rằng, tính tích cực là một phẩm chất
vốn có của con người, tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động,
đặc biệt trong hoạt động chủ đạo của chủ thể. Đồng thời tác giả đưa ra khái
niệm tính tích cực học tập, các biểu hiện của tính tích cực học tập như là: tập
trung chú ý vào vấn đề dạy học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản
bước trước những tình huống khó khăn...
- Tiến sĩ Thái Duy Tuyên trong tác phẩm "Những vấn đề cơ bản giáo
dục học hiện đại", tác giả đã chỉ ra vấn đề tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh, trong đó tác giả chỉ ra mặt tự phát và tự giác của tính tích cực,
những biểu hiện của tính tích cực như là: Các em có chú ý học tập không ?
Tốc độ học tập có nhanh không ? Có hứng thú trong học tập không hay vì
một ngoại lực nào đó mà phải học, có quyết tâm, có ý chí vượt khó khăn
trong học tập không ? Có sáng tạo trong học tập không ?... Từ đó tác giả cho
rằng, tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào hệ thống các nhân tố như: hứng
thú, nhu cầu, động cơ, năng lực, ý chí, sức khoẻ, môi trường. Ngoài ra tác
giả còn chỉ ra vấn đề hứng thú và vấn đề tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh cũng như các biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức...
- Tiến sĩ Nguyễn Hồi Loan khi nghiên cứu "Động cơ học tập của sinh
viên Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn" đã chỉ ra, động cơ thúc
đẩy hoạt động học tập của sinh viên gồm 4 loại, đó là: động cơ nhận thức
khoa học, động cơ xã hội trong học tập, động cơ cá nhân và động cơ nghề
nghiệp.
- Tác giả Hoàng Thị Thu Hà nghiên cứu "Các yếu tố kích thích hoạt
động học tập của sinh viên Đại học Sư phạm". Tác giả đã bàn đến các yếu tố
ảnh hưởng đến hoạt động học tập của sinh viên, bao gồm các yếu tố khách
quan và các yếu tố chủ quan như: sức hấp dẫn của bài giảng, nội dung,
chương trình sinh động thiết thực, phương pháp giảng dạy phù hợp, không
khí thi đua học tập trong lớp, điều kiện phương tiện học tập tốt, tài liệu học
19
tập phong phú, người học có ý thức tự khẳng định mình, họ muốn làm chủ tri
thức và bản thân có nhu cầu học tập...
- Tác giả Đỗ Thị Coỏng trong đề tài "Nâng cao tính tự giác, tính cực
trong hoạt động học tập của sinh viên" đã đề cập đến cấu trúc phương pháp
học tập tích cực bao gồm: tích cực quan sát, tích cực tưởng tượng, tích cực
nhớ, nỗ lực ý chí học, tập trung chú ý học, cùng nhau học, thảo luận và
nghiên cứu lý luận trong các tài liệu tham khảo.
- Tác giả Hoàng Thị Tuyết nghiên cứu về "Đặc điểm tâm lý của hoạt
động học tập tích cực" đã chỉ ra, tính tích cực của hoạt động học tập biểu
hiện khá phức tạp trong mọi tâm lý cá nhân người học và biểu hiện ra trên 3
phương diện: tích cực về nhận thức; tích cực về thái độ, tích cực về tình cảm,
cảm xúc; quan tâm, hứng thú, nhu cầu, mong muốn, tự trọng.
- Phó tiến sĩ Nguyễn Kim Phương khi nghiên cứu về "Một số yếu tố
tâm lý trong việc nâng cao tính tích cực hoạt động của chiến sĩ" đã chỉ ra một
trong những nhân tố chính, nền tảng để tích cực hoá hoạt động của chiến sĩ
là nhu cầu và lợi ích của họ. Việc hiểu biết các nhu cầu khác nhau của chiến
sĩ tạo điều kiện cho họ được thoả mãn chúng một cách hợp lý là một trong
những phương thức phát huy tính tích cực hoạt động của họ.
- Các tác giả Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng trong
"Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm" đã chỉ ra rằng: để hình thành
hoạt động học cho người học phải hình thành động cơ học tập, mục đích học
tập và hình thành các hành động học tập cho họ.
- Trong quân đội nghiên cứu xung quanh vấn đề tính tích cực học tập
phải kể đến một số tác giả như:
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Phú khi nghiên cứu về "Hoạt động học
và vấn đề tích cực hoá hoạt động học tập của học viên" đã chỉ ra đặc trưng
tâm lý hoạt động học của học viên nhà trường quân sự, cấu trúc tâm lý của
20
hoạt động học và vấn đề tích cực hoá hoạt động học tập của các học viên...
Để tích cực hoá hoạt động học tập của học viên, theo tác giả phải hình thành
các động cơ học tập đúng đắn cho người học, hình thành các mục đích gắn
liền với việc rèn luyện các hành động học tập cụ thể cho các học viên, rèn
luyện, hình thành, củng cố xu hướng nghề nghiệp quân sự cho học viên. Tích
cực hoá hoạt động học tập của học viên thông qua các tác động tích cực của
tập thể lớp học, thông qua các chính sách xã hội cụ thể.
Các tác giả Tiến sĩ Ngô Minh Tuấn, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đinh Hùng
Tuấn với đề tài "Nâng cao tính tích cực nhận thức của học viên trong
xêmina" đã chỉ ra lý luận về tính tích cực nhận thức, thực trạng tính tích cực
nhận thức và một số giải pháp cơ bản nâng cao tính tích cực nhận thức của
học viên trong xêmina.
Tác giả Nguyễn Văn Sơn trong đề tài "Nghiên cứu động cơ nghề nghiệp
của học viên đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị
Quân sự" đã chỉ ra: động cơ nghề nghiệp của học viên có vai trò quan trọng,
tạo ra sự thúc đẩy, định hướng học viên trong quá trình học tập, rèn luyện,
chiếm lĩnh mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nó kích thích tính tích cực và chi phối
việc xác định các mục đích học tập, là nhân tố để biến quá trình đào tạo
thành tự đào tạo. Theo tác giả, động cơ nghề nghiệp của học viên bao gồm
động cơ chính trị đạo đức, động cơ học và rèn, động cơ đồng nhất xã hội,
động cơ lợi ích cá nhân.
Tiến sĩ Phạm Duy Khiêm khi nghiên cứu đề tài "Tích cực hoá hoạt động
nhận thức của học viên sĩ quan trong quá trình học tập các môn toán và khoa
học tự nhiên" đã cho rằng, tích cực hoá quá trình hoạt động nhận thức của
học viên là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật của
giáo viên, của cán bộ quản lý giáo dục nhằm nâng cao tính tích cực hoạt
động nhận thức của người học. Đồng thời là quá trình người học phát huy
- Xem thêm -