Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ sở hình thành chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước...

Tài liệu Cơ sở hình thành chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

.DOCX
17
107
103

Mô tả:

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Viện Ngân hàng – Tài chính Bộ môn: Ngân hàng thương mại Môn: Ngân hàng phát triển BÀI TẬP LỚN Cơ sở hình thành chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước 1. Tổng quan về tín dụng đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất hiện có và tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là tiền đề để thực hiện tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Ý nghĩa quan trọng của ĐTPT là góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu kinh tế – xã hội của đất nước. Nói cách khác ĐTPT thúc đẩy tăng trưởng kinh tế song song với thay đổi cơ cấu kinh tế – xã hội. Để đáp ứng nhu cầu ĐTPT, các quốc gia phải có nguồn vốn ĐTPT thông qua tích lũy vốn trong nước và ngoài nước. Vốn ĐTPT là nguồn vốn không thể thiếu trong nền kinh tế. Nguồn vốn này được hình thành bởi vốn ĐTPT của tất cả các thành phần kinh tế xã hội bao gồm: vốn ĐTPT của Nhà nước, doanh nghiệp, vốn nhàn rỗi của các tổ chức cá nhân trong nước, vốn đầu tư của các cá nhân tổ chức nước ngoài. Tuy nhiên trong điều kiện Ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp và để việc hỗ trợ đầu tư mang tính hiệu quả và lâu dài, các quốc gia thường thực hiện hỗ trợ ĐTPT thông qua hình thức tín dụng. Đó là tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Tín dụng Đầu tư phát triển của Nhà nước là hình thức tín dụng Nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước , là quan hệ vay – 1 trả giữa Nhà nước với các pháp nhân, thể nhân trong xã hội, được Nhà nước quy định với các ưu đãi nhất định , nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển theo định hướng Nhà nước. Chính sách tín dụng Đầu tư phát triển của Nhà nước là tập hợp các chủ trương, định hướng cho hoạt động tín dụng của Nhà nước đưa ra nhằm thực hiện các mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vậy cơ sở để hình thành chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước là gì? Nhóm xin được tiếp cận từ 3 khía cạnh để làm rõ vấn đề. Thứ nhất là Cơ sở khách quan về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Phần này cho thấy tầm quan trọng và tại sao phải có sự can thiệp của bàn tay hữu hình của Chính phủ vào nền kinh tế. Qua đó thấy được CS tín dụng ĐTPT là một trong những công cụ để Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế. Thứ hai là tại sao Chính phủ lại sử dụng hình thức tài trợ bằng tín dụng mà không phải các hình thức khác Thứ ba là đặc điểm của dự án phát triển, hay chính là đối tượng của chính sách tín dụng ĐTPT. Từ những đặc điểm riêng của dự án phát triển, kết hợp với phần thứ nhất se làm rõ vấn đề về cơ sở hình thành chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước. 2. Cơ sở khách quan về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Định lý cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi cho rằng nền kinh tế chỉ có hiệu quả Pareto trong các điều kiện nhất định.Có 6 trường hợp dẫn tới nền kinh tế không đạt được mục tiêu hiệu quả Pareto.Đó chính là những thất bại của thị trường và cũng chính là những cơ sở khách quan của sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. 2.1. Thất bại của cạnh tranh. Năm 1776, trong công trình nghiên cứu lớn của kinh tế học hiện đại, “ Sự giàu có của các quốc gia ”, Adam Smith đã lập luận rằng cạnh tranh có thể dẫn dắt con người theo 2 đuổi lợi ích công cộng khi đang theo đuổi lợi ích cá nhân,giống như là một bàn tay vô hình.Vậy để bàn tay vô hình hoạt động được cần phải có cạnh tranh.Trong một số ngành nhất định của nền kinh tế,chỉ có rất ít hãng hoặc một hai hãng chiếm tỷ trọng thị trường khá lớn.Điều đó dẫn tới thiếu cạnh tranh mạnh me.Tuy nhiên ở đây vẫn xảy ra sự cạnh tranh lẫn nhau và có sự cạnh tranh từ những hãng có tiềm năng tham gia thị trường.Chính sự xuất hiện không ngừng của các hãng tiềm năng tham gia vào thị trường khiến cho các hãng hiện hữu không thể độc quyền.Chừng nào các hãng hiện hữu còn cố gắng chiếm lợi nhuận độc quyền thì tất yếu các hãng có tiềm năng se tham gia vào thị trường để hạ giá xuống.Dù vậy,trên thế giới vẫn xuất hiện những hãng độc quyền do chính phủ tạo ra nhằm quản lý đối với những mặt hàng trọng yếu của quốc gia.Ngoài ra còn những trường hợp khác,có những hàng rào hạn chế tham gia nảy sinh từ cái mà các nhà kinh tế gọi là tăng hiệu quả theo quy mô. Có nghĩa là chi phí sản xuất cho1 đơn vị sản phẩm se giảm theo quy mô sản xuất.Se là ít đắt hơn nếu có 1 máy phát điện lớn phục vụ cho 1 quận hơn là nhiều máy phát điện nhỏ phục vụ cho từng phường.Do đó se là tiết kiệm về chi phí hơn. Tương tự thì se hiệu quả hơn nếu chỉ có 1 công ty cấp thoát nước hay 1 công ty cung cấp các thiết bị điện,hãy thử tưởng tượng việc có nhiều công ty cấp thoát nước,nhiều công ty cung cấp thiết bị điện trên thị trường se dẫn tới việc quá nhiều loại đường dây,đường ống,đầu cắm điện với những kích cỡ,chủng loại khác nhau gây phức tạp cho thị trường,từ đó những cty nhỏ đó se khó mà đạt được tăng hiệu quả theo quy mô do thị trường bị xé nhỏ.Trong những ngành hiệu quả tăng theo quy mô,những hãng mới có sản lượng thấp se gặp tình trạng chi phí cao hơn các hãng có công suất lớn.Khi một hãng chiếm được độc quyền do hiệu quả tăng theo quy mô,chúng ta gọi đó là độc quyền tự nhiên.Như đã nhận định ở trên thì trong những điều kiện nhất định,việc chỉ có 1 hãng lớn tồn tại có thể se có lợi hơn so với nhiều hãng nhỏ,vậy độc quyền đem lại những tác động xấu gì đối với cạnh tranh thị trường và nền kinh tế? Lí do chính là khi độc quyền không được quản lý,độc quyền dù là độc quyền tự nhiên se hạn chế sản lượng để đạt giá cao hơn.Chính điều này gây ra sự mất trắng của xã hội do độc quyền gây ra. 3 Vì chủ hãng se tìm cách tăng tối đa lợi nhuận,nên chỉ sản xuất đạt đến điểm mà tại đó doanh thu cận biên của hãng đúng bằng chi phí cận biên của hãng.Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì doanh thu cận biên chính là giá bán.Nhưng với nhà độc quyền thì doanh thu cận biên se ít hơn giá bán.Chừng nào nhà độc quyền tăng doanh số thì ông ta còn phải hạ giá xuống.Doanh thu cận biên từ việc bán thêm 1 đơn vị hàng hóa se ít hơn trước do việc tăng doanh số làm hạ giá bán tất cả các đơn vị hàng hóa Giá MC Pm Pc B A A B C D Qm Qc MR MR Sản lượng Hình: Mấất không từ sức mạnh độc quyềền Theo hình ve ta thấy nếu thị trường là cạnh tranh hoàn hảo thì giá và sản lượng se là Pc và Qc. Nếu thị trường là độc quyền bán thì giá và sản lượng là P m và Qm. Như vậy so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thì thị trường độc quyền bán tạo ra phúc lợi ít hơn, một phần thặng dư tiêu dùng (diện tích A) và thặng dư sản xuất (diện tích B) bị mất do chỉ sản xuất ở mức sản lượng Qm. Phần phúc lợi bị mất gọi là mất không và được tính bằng S∆ABC. 2.2. Hàng hóa công cộng 4 Luôn tồn tại những hàng hóa mà thị trường không thể cung cấp đủ số lượng hoặc là không do thị trường cung cấp. Ví dụ ở quy mô lớn như quốc phòng,ở quy mô nhỏ như hệ thống đèn chiếu sáng đường. Đó là những hàng hóa công cộng thuần túy.Hàng hóa công cộng thuần túy là những hàng hóa có đủ 2 đặc điểm sau :  Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền và không bảo vệ những ai không trả tiền. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát se ngăn cản những người không có vé vào xem.  Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng. Chính việc thị trường tư nhân không thể cung cấp hoặc không thể cung cấp đầy đủ hàng hóa công cộng thuần túy là cơ sở khách quan của sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế bằng việc cung cấp hàng hóa công cộng cho xã hội. 2.3. Các yếu tố ngoại lai. Có nhiều trường hợp hành động của một người hay một hãng có ảnh hưởng đến người khác hay hãng khác,khi một hãng gây thiệt hại cho một hãng khác nhưng lại không phải bồi thường hoặc ngược lại đem lại lợi ích cho hãng đó nhưng không được sự đền đáp xứng đáng,đó chính là những ảnh hưởng ngoại lai tới hoạt động sản xuất kinh doanh của 5 các hãng,có thể hạn chế chứ không thể loại trừ hay ước lượng.Những ảnh hưởng ngoại lai mang lại những hiệu ứng tích cực cho môi trường xung quanh được gọi là ngoại ứng tích cực, ngược lại những ảnh hưởng ngoại lai mang lại hiệu ứng tiêu cực cho môi trường xung quanh gọi là ngoại ứng tiêu cực.Một ví dụ điển hình về ngoại ứng tiêu cực chính là ô nhiễm môi trường.Khi một hãng sản xuất vật liệu polime thải khí thải chưa qua xử lí ra môi trường tất yếu se gây ra ô nhiễm môi trường chung của mọi người hay một người đi xe ô tô không đạt chuẩn về xử lí khí thải ô nhiễm môi trường tất yếu se gây hại cho môi trường xung quanh,có thể một người không nhận ra được tác động rõ rệt song nhiều người cùng như vậy tất yếu se dẫn tới môi trường ô nhiễm.Một ví dụ khác về ngoại lai tích cực chính là việc chính quyền phường tổ chức xây một nhà văn hóa,khu vui chơi cho trẻ em trong phường se tạo ra ngoại ứng tích cực cho khu phố khi thỏa mãn được nhu cầu giải trí lành mạnh và không gian vui chơi cho dân cư.Tuy nhiên có những yếu tố ngoại lai không thể phân biệt rõ rang là tích cực hay tiêu cực,yếu tố này có thể là tích cực với người này song lại là tiêu cực với người khác, ranh giới rất khó xác định.Ví dụ chính là việc xây cầu vượt có thể tạo ngoại ứng tích cực là giảm ùn tắc giao thông,hạn chế tai nạn giao thông và những chi phí sửa chữa không đáng có song ngoại ứng tiêu cực se xuất hiện với những nhà ven đường ví dụ như ô nhiễm tiếng ồn trong quá trình làm cầu và khi đưa vào hoạt động, hạn chế kinh tế vỉa hè phát triển….Khi nào còn những yếu tố ngoại lai như vậy thì việc phan bổ nguồn lực còn chưa đạt hiệu quả.Do các cá nhân không chịu toàn bộ chi phí của các yếu tố ngoại lai tiêu cực do họ gây ra, họ se tham gia nhiều vào những hoạt động như vậy.Ngược lại các cá nhân không được hưởng trọn vẹn lợi ích họ tạo ra từ các hoạt động đem lại ngoại ứng tích cực,điều này dẫn đến họ se tham gia ít hơn vào những hoạt động như vậy.Chính vì vậy cần sự can thiệp của chính phủ nhằm điều hòa thích hợp những lợi ích được tạo ra từ ngoại ứng tích cực cho các tầng lớp dân cư và hạn chế các yếu tố ngoại lai tiêu cực. Các chính phủ khác nhau giải quyết vấn đề yếu tố ngoại lai theo những cách khác nhau.Trong một số trường hợp ( chủ yếu liên quan tới yếu tố tiêu cực ) chính phủ cố gắng 6 điều hành hoạt động này, ví dụ như việc chính phủ đề ra các tiêu chuẩn chống ô nhiễm không khí, môi trường.Chính phủ có thể sử dụng hệ thống giá cả, bằng cách áp đặt hình phạt đối với các yếu tố ngoại lai tiêu cực và thưởng đối với những yếu tố ngoại lai tích cực. 2.4. Thị trường không hoàn hảo Hàng hóa và dịch vụ công cộng thuần túy là những hàng hóa và dịch vụ mà thị trường không thể cung cấp một cách đầy đủ. Do đó ngoài Chính Phủ thì thị trường tư nhân là một nơi cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Chừng nào khu vực tư nhân không thể cung cấp đủ hàng hóa dịch vụ, mặc dù chi phí cho việc cung cấp thấp hơn chi phí mà các cá nhân có thể trả thì có sự thất bại của thị trường gọi là thị trường không hoàn hảo. Thị trường bảo hiểm Thị trường tư nhân không cung cấp bảo hiểm cho nhiểu rủi ro quan trọng mà mọi người gặp phải. Đây là một luận cứ để xây dựng bảo hiểm công cộng. Ví dụ, đối với sản suất nông nghiệp bà con luôn chịu những rủi ro rất lớn về thiên tai như bão lụt hạn hán hay sâu bệnh đặc biệt là rủi ro về giá cả mà họ thì không thể mua bảo hiểm cho những rủi ro này. Chính Phủ có thể can thiệp bằng cách trợ cấp trợ giá cho bà con nông dân, bảo hiểm giá cả theo đúng mức phản ánh chi phí cung cấp bảo hiểm đó. Thị trường vốn Trong những năm gần đây, Chính phủ đã đóng một vai trò tích cực không chỉ trong việc tìm cách khắc phục những khiếm khuyết của thị trường rủi ro mà còn cải thiện những ảnh hưởng của thị trường vốn. Một ví dụ đó là việc cho sinh viên nghèo vay tiền, những sinh viên mà gia đình có hoàn cảnh khó khăn se được trợ cấp giáo dục, thông qua giấy xác nhận của địa phương và nhà trường thì những sinh viên này có thể đến Ngân hàng vay tiền 7 với lãi suất rất thấp. Ngoài ra Chính phủ còn thực hiện nhiều hoạt động cung cấp vốn như cho nông dân vay; Ngân hàng ưu đãi cho một số doanh nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài… Thị trường phụ trợ Giả sử tất cả mọi người đều thích uống café có đường, giả đinh rằng không có thị trường café thì không có thị trường đường và ngược lại. Một nhà kinh doanh dự định xản suất café nhưng vì đường không được sản xuất nên đã quyết định không sản xuất café nữa, một nhà sản xuất đường khác quyết định không sản xuất đường vì café không được sản xuất. Tuy nhiên nếu hai nhà kinh doanh kết hợp se có một thị trường tốt cho cả café và đường. Có thể thấy sự phôi hợp có thể thực hiện giữa các cá nhân mà không cần đến sự can thiệp của Chính phủ. Song, vơi những trường hợp cần kết hợp ở quy mô lớn đặc biệt là ở các nước kém phát triển thì cần phải có sự can thiệp của Chính phủ. 2.5. Thất bại về thông tin Nhiều hoạt động của Chính phủ được thúc đẩy bởi thông tin không hoàn hảo về người tiêu dùng, và thị trường thì lại cung cấp quá ít thông tin. Ví dụ như hoạt động chính phủ cho những hộ nghèo vay, thì việc có được thông tin chính xác về những hộ này là khó do đó có những hộ nghèo không được tiếp cận với những khoản vay khoản trợ cấp này. Ngoài ra vẫn còn tồn tại thông tin không đối xứng trong thị trường. Được hiểu đơn giản là trường hợp một bên nào đó khi tham gia trên thị trường có đầy đủ thông tin hơn bên còn lại ( VD như giữa ng bán và người mua). Khó khăn trong việc thông tin không đầy đủ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của thị trường, khiến các nguồn lực được phân bổ quá nhiều hoặc quá ít cho 1 bộ phận nào đó. Mặt khác, nó còn tạo động cơ cho bên có thông tin đầy đủ hơn lợi dụng lợi thế này để thu lợi cho mình. Do đó chính phủ cần can thiệp vào thị trường để giúp bổ sung thông tin hoặc kiểm soát hành vi của nhưng bên có lợi thế về mặt thông tin trên thị trường. Tuy vậy, vai trò của Chính phủ trong việc bù đắp những thất bại về thông tin còn vượt quá những biện pháp thông thường để bảo vệ người tiêu dùng. Về nhiều khía cạnh thông tin là hàng hóa công cộng, việc cung cấp thông 8 tin cho thêm một người không làm giảm lượng thông tin mà những người khác nhận được. Hiệu quả đòi hỏi thông tin phải được phổ biến không mất tiền hoặc chính xác hơn là phải không phải chi trả tiền cho việc vận chuyển thông tin đó. Thị trường tư nhân thường cung cấp thông tin không hợp lý, cũng giống như khi nó cung cấp các hàng hóa công cộng khác. 2.6. Thất nghiệp, lạm phát, mất cân bằng Có thể thấy, một dấu hiệu được công nhận rộng rãi nhất về thất bại thị trường đó là cảnh thất nghiệp cao định kỳ của cả công nhân lẫn máy móc. Đây là bằng chưng hiển nhiên cho việc thị trường có một cái gì đó làm việc không tốt. Việc thị trường không thể toàn dụng nhân công, một thất bại nghiêm trọng của thị trường, ở đây có vai trò quan trọng của Chính phủ. Hiện nay nền kinh tế thế giới đang ở trong thời khủng hoảng, đặc biệt là ở một số các quốc gia EU với khoảng nợ công rất cao. Đi kèm với tình hình kinh tế khó khăn là việc những công nhân mất việc, hay những sinh viên tốt nghiệp ra trường rất khó để có thể xin được một công việc từ đó làm cho tỷ lệ thất nghiệp cao ở EU hiện nay. Chính phủ cần phải có những bước đi, những hành động để thúc đẩy nền kinh tế ra khỏi tình trạng lạm phát, từ đó có thể tạo ra một lượng việc làm phù hợp với nhu cầu của xã hội. Mất cân bằng xã hội, đây cũng là 1 thất bại của thị trường, sự k hoàn hảo của thị trường đã dẫn đến việc thiếu công bằng trong xã hội mà điển hình là sự thiếu công bằng trong phân phối thu nhập. Khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị ngày một gia tăng, thu nhập của những người giàu có vẫn tăng lên đáng kể kèm theo đó là họ được hưởng một cuộc sống đầy đủ và được sử dụng những dịch vụ tốt nhất. Ngược lại vẫn còn bộ phận những người có thu nhập thấp sống trong những khu nhà ổ chuột, thu nhập của họ chỉ được tình theo ngày, đời sống khó khăn và họ cũng không được hưởng những dịch vụ tốt. Do đó Chính phủ cần can thiệp như trợ cấp, xây dừng đường xá bệnh viện, trường 9 học… để làm giảm khoảng cách giàu nghèo, phân phối lại thu nhập giúp những người nghèo có thể tiếp cận những dịch vụ tiện ích phục vụ cho cuộc sống 2.7. Hàng hóa khuyến dụng và phi khuyến dụng Hàng hóa khuyến dụng là những hàng hóa dịch vụ mà việc tiêu dùng có lợi cho các nhân và xã hội nhưng cá nhân không tự nguyện dùng do đó Chính phủ bắt buộc họ sử dụng. Ví dụ đó là việc đội mũ bảo hiểm, tuy mọi người biết đội mũ bảo hiểm là bảo vệ họ trước sự tai nạn không mong muốn khi tham gia giao thông nhưng người dân không chịu đội, do đó Chính phủ yêu cầu mọi người dân khi tham gia giao thông phải đội mũ bảo hiểm, nếu không se bị xử phạt hành chính. Cơ sở của Chính phủ để can thiệp trong trường hợp này là chức năng “phụ quyền” của Chính phủ. Khi Chính phủ thấy người dân hành động vì lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến tương lai lâu dài thì Chính phủ se can thiệp từ sự nhắc nhở cho tới mệnh lệnh. Tuy nhiên vai trò phụ quyền của Chính phủ cần được giới hạn nếu không nó se trở thành độc đoán vi phạm quyền tự do cá nhân. 3. Chức năng của Chính phủ trong nền kinh tế Ngoài chức năng muôn thuở của Chính phủ là xây dựng và bảo vệ các khuôn khổ pháp luật, Chính phủ còn các chức năng kinh tế cơ bản sau: 3.1. Phân bổ nguồn lực nhắm nâng cao hiệu quả kinh tế Mục tiêu kinh tế trọng tâm của chính phủ là hỗ trợ việc phân bổ nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế đạt mức như xã hội mong muốn. Giải quyết vấn đề này chính là chính phủ đã tập trung trả lời câu hỏi Cái gì và Như thế nào trong đời sống kinh tế. Chính sách kinh tế ở các nước khác nhau se không giống nhau, tùy thuộc vào phong tục tập quán và tư tưởng chính trị của nước đó. Biểu hiện của việc thực hiện các chức năng này là việc 10 chính phủ đứng ra cung cấp các loại HHCC, điều tiết các luồng đầu tư vào các ngành, các vùng theo quy hoạch chung, khắc phục các thất bại của thị trường như độc quyền, ngoại ứng hay thông tin không đối xứng 3.2. Phân phối lại thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội: Ngay cả khi bàn tay vô hình của thị trường có hiệu quả thì nó vẫn có thể tạo ra những sự phân phối thu nhập rất bất bình đẳng. Khi quốc gia còn ở mức phát triển thấp, những nguồn lực sẵn có dành cho việc phân phối lại còn rất hạn chế. Nhưng khi đã phát triển cao hơn thì cùng với sự thịnh vượng chung, chính phủ se có khả năng dành nhiều nguồn lực hơn để cung cấp các dịch vụ cho người nghèo. Đây được coi là chức năng kinh tế lớn thứ hai của Chính phủ. Phân phối lại thu nhập thường được thực hiện thông qua các chính sách thuế khóa và chi tiêu. Mặc dù vậy, đôi khi Chính phủ vẫn điều tiết trực tiếp bằng các mệnh lệnh hành chính 3.3. Ổn định hóa kinh tế vĩ mô: Ngày nay khi khoa học kinh tế đã phát triển mạnh. Loài người đã có nhận thức đầy đủ hơn về nguyên nhân gây ra lạm phát, thất nghiệp và các bất ổn kinh tế khác, cũng như khả năng can thiệp chủ động của Chính phủ để khắc phục các hiện tượng đó. Vì thế Chính phủ hiện nay có trách nhiệm không để tái diễn các cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng trầm trọng như những năm 30 nữa. Công cụ để Chính phủ thực hiện chức năng này là các chính sách tài khóa, tiền tệ và sự giám sát chặt che thị trường tài chính. Ngoài ra chính phủ còn tập trung vào việc hoạch định các chính sách thúc đẩy tăng trưởng dài hạn 4. Tại sao Chính phủ sử dụng hình thức tài trợ tín dụng? Nhà nước có thể tài trợ cho đầu tư phát triển bằng hai hình thức là cấp tín dụng đầu tư phát triển hoặc trực tiếp cấp vốn cho các dự án đầu tư phát triển. Vì thế ta se xem xét ưu nhược điểm của hai hình thức này để hiểu được tại sao nhà nước lại ưu tiên dùng hình thức cấp tín dụng . 11 4.1. Hình thức Nhà nước cấp tín dụng cho dự án đầu tư phát triển: Khi Ngân sách nhà nước không đủ mạnh để tài trợ cho các dự án quá nhiều bất lợi,nhất là trong tình trạng thâm hụt ngân sách lớn thì Nhà nước khuyến khích khu vực tư nhân thực hiện các dự án này đồng thời có các biện pháp hỗ trợ cụ thể như : cấp tín dụng ưu đãi (ưu đãi lãi suất, ưu đãi thời gian trả nợ, thời gian ân hạn …) ưu đãi thuế, ưu đãi tỷ giá, bảo lãnh cho các khoản vay của chủ đầu tư… hỗ trợ phổ biến mà chúng ta se xem xét là cấp tín dụng đầu tư phát triển thông qua ngân hàng phát triển. a.Ưu điểm: - Giảm gánh nặng cho NSNN, khắc phục tình trạng Bội chi NSNN:Các dự án đầu tư phát triển thường có kinh phí lớn,thời gian thực hiện dài;NSNN nghèo nàn,liên tục thâm hụt và phải sử dụng ưu tiên cho các dự án không thể hoàn lại vốn.Trong khi đó,nhiều dự án phát triển tạo nguồn thu trực tiếp(có khả năng sinh lời),có khả năng hoàn trả,có thể và cần thiết phải tiếp cận với nguồn tín dụng.Do đó,nếu sử dụng cấp tín dụng se giảm áp lực cho NSNN. - Tạo điều kiện mở rộng quy mô và quay vòng vốn phục vụ nhiều dự án phát triển:Phương pháp tài trợ bằng cách cho vay có nhiều ưu thế.Trước hết vốn của Nhà nước thường được cộng thêm vốn đối ứng huy động trên thị trường,tạo điều kiện mở rộng quy mô cho các dự án phát triển.Kết quả của việc hoàn trả là nguồn vốn của Nhà nước lại được tái tạo,tiếp tục một hoạt động tài trợ mới. - Khuyến khích đầu tư từ khu vực tư nhân:Các dự án đầu tư phát triển được tài trợ bằng hình thức cấp tín dụng thường có lãi suất thấp,thời hạn cho vay dài,chấp nhận rủi ro lớn và điều kiện tài trợ ưu đãi se khuyến khích tư nhân đầu tư vào dự án. - Nâng cao hiệu quả tài chính của dự án và trách nhiệm của chủ đầu tư:Do yêu cầu hoàn trả gốc và lãi buộc chủ đầu tư phải tìm kiếm và thực hiện các dự án có hiệu quả tài chính dù cho các dự án này có mức sinh lời thấp hoặc rủi ro cao,đồng thời phải thực hiện các giải pháp tăng tính hiệu quả tài chính của dự án .Bên cạnh đó,chủ đầu tư phải kiểm tra, giám sát tiến trình thực hiện dự án để dự án thực hiện đúng như dự tính. 12 b. Nhược điểm: -Có khả năng gây ra lãng phí trong sử dụng nguồn lực:Lãi suất cho vay thấp se dẫn đến lãi suất huy động tiết kiệm thấp hoặc cấp bù lãi suất.Như vậy có khả năng làm triệt tiêu nhiều nguồn tiết kiệm chu chuyển qua các trung gian tài chính,gây thiếu hụt cho vay=>Chính sách tín dụng ưu đãi luôn kèm theo chính sách hạn chế tín dụng, kiểm soát chặt che. 4.2. Hình thức nhà nước cấp vốn trực tiếp cho các dự án đầu tư a. Ưu điểm của việc nhà nước cấp vốn trực tiếp cho các dự án đầu tư: Nhà nước se chủ động hơn trong công tác quản lý các dự án đầu tư: Khi nhà nước cấp vốn trực tiếp cho các dự án, se chủ động thực hiện đầu tư mà không bị phụ thuộc nhiều vào nhân tố khác, nhà nước se chủ động trong việc quản lý tiến độ đầu tư, chất lượng đầu tư và khi được cấp vốn thì việc thực hiện đầu tư se hầu hết khả thi . b.Nhược điểm của hình thức nhà nước cung cấp vốn trực tiếp cho các dự án đầu tư phát triển: - NSNN chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các dự án phát triển kinh tế:Các dự án đầu tư phát triển thường có nhu cầu về vốn rất lớn.Nhu cầu về cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng cho phát triển như đường giao thông,bến cảng,cung cấp điện nước,nghiên cứu cơ bản…mà nhu cầu này chỉ được đáp ứng một phần từ thu ngân sách cho đầu tư .Trong khi Ngân sách thì hạn hẹp,thâm hụt=>Không thể đáp ứng được. - Sự thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện dự án của các đơn vị Nhà nước: Do nguồn kinh phí được lấy từ NSNN,các đơn vị thực hiện không có trách nhiệm phải hoàn trả vốn dẫn đến tình trạng thiếu trách nhiệm trong công tác kiểm tra ,giám sát của các đơn vị thực hiện về chất lượng của các dự án đầu tư. 13 - Tạo điều kiện cho vấn nạn tham nhũng:Cùng với sự thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý,kiểm tra giám sát thì vấn nạn tham nhũng cũng cần phải đươc nhắc đến.Vấn đề này luôn được nhắc đến trong những phiên họp Quốc hội,báo đài đưa tin nhưng vẫn chưa tìm ra được câu trả lời.Tham nhũng làm cho tiến độ thực hiện và chất lượng của các dự án đầu tư bị giảm sút nghiêm trọng.Nhiều dự án bị “treo” do thiếu kinh phí thực hiện,có dự án thực hiện xong thì chất lượng không đạt yêu cầu,thậm chí có những dự án thực hiện xong lại không còn phù hợp với điều kiện hiện tại=>Sai sót trong công tác thẩm định,hoạch định dự án. Trong điều kiện NSNN của Việt Nam còn hạn hẹp, thường xuyên thâm hụt. Đồng thời, để thực hiện mục tiêu hỗ trợ đầu tư mang tính hiệu quả và lâu dài, nhà nước đã chọn cấp tín dụng đầu tư phát triển để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế,đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã hội. 5. Đặc điểm của dự án phát triển 5.1. Dự án phát triển là những dự án lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của quốc gia. Dự án phát triển thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia:  Khuyến khích xuất khẩu: Nhà nước thường hỗ trợ hoặc thực hiện các dự án xuất khẩu lớn ( hoặc hỗ trợ xuất khẩu ): Xây dựng các cơ sở chế biến xuất khẩu; Xây dựng các cơ sở nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho xuất khẩu ( nghiên cứu và bán các loại giống mới có năng suất cao, nghiên cứu biến đổi gen của cây trồng vật nuôi, nghiên cứu và phát triển phần mềm …)  Thay thế nhập khẩu : phát tiển ngành sản xuất thay thế hàng nhập khẩu bằng cách sử dụng tối đa lợi thế của đất nước , giảm chi ngoại tệ, tạo công ăn việc làm …Việc phát triển công nghiệp non trẻ trong giai đoạn đầu phải có sự hỗ trợ của Nhà nước để cạnh tranh vơi hàng nước ngoài. 14  Ngành công nghiệp chiến lược: tạo nguyên liệu đầu vào quan trọng cho nhiều ngành kinh tế khác, hạn chế phụ thuộc nước ngoài đối với nguyên liệu chiến lược.  Ngành sản xuất sản phẩm liên quan trực tiếp tới an ninh xã hội và quốc gia ví dụ như nguyên tửm hàng không, viễn thông, thủy điện lớn,…  Dự án phát triển nông thôn: ngành chế tạo máy, cơ khí để phục vụ nông nghiệp nông thôn, đường giao thông , kênh tưới tiêu,… → Dự án phát triển đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp: nhu cầu vốn lên tới hàng chục, hàng nghìn tỷ đồng, vì vậy nhu cầu vay rất cao. Quá trình đầu tư liên quan tới thăm dò địa chất, nghiên cứu môi trường tự nhiên, xã hội công phu, liên quan tới các loại máy móc đặc chủng phức tạp, liên quan tới chuyển giao công nghệ, bí quyết …cần có sự đánh giá của các chuyên gia, các công ty tư vấn. 5.2. Dự án phát triển nhằm tới 2 mục tiêu: Hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội. Các dự án phát triển phải tạo ra thu nhập bù đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Do đó, các dự án này phải được thiết kế trên cơ sở tinh toán được hiệu quả tài chính trực tiếp. Khác với dự án thương mại, dự án phát triển phải thực hiện mục tiêu xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế…Chủ đầu tư thường là Nhà nước (hoặc các cơ quan phát triển ) nên việc thực hiện đa mục tiêu là tất yếu đối với dự án phát triển. Các mục tiêu trên trong một số trường lại mâu thuẫn với nhau , hoặc làm giảm độ lớn của nhau . Chủ đầu tư vì vậy phải xác định nhóm mục tiêu cơ bản, có tính thống nhất cao. Các mục tiêu trên trong một số trường hợp lại mâu thuẫn với nhau, hoặc làm giảm độ lơn của nhau. Chủ đầu tư vì vậy phải xác định nhóm mục tiêu cơ bản, có tính thống nhất cao. 3.4. Dự án phát triển nhận hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước. 15 Để sản xuất với hiệu quả kinh tế cao cần phải dựa trên việc sử dụng nhiều nhất các nhân tố sản xuất sẵn có trong nước, trong vùng. Để đảm bảo mọi doanh nghiệp hộ gia đình thực hiện đầu tư phì hợp với nguyên tắc này, Chính phủ trợ giúp thông qua ban hành chính sách khuyến khích thông qua thực hiện các dự án trọng điểm , xúc tiến thương mại. Do tầm quan trọng đặc biết đối với phát triển kinh tế,dự án phát triển thường nhận hỗ trợ trực tiếp từ nhà nước: như được ngân sách cấp vốn, được vay ưu đãi, vay không cần tài sản đảm bảo , được Chính phủ bảo lãnh khi vau vốn, được đảm bảo vị thế độc quyền trong thời gian nhất định. Những hệ quả từ đặc điểm này là :  Thứ nhất : Sản phẩm của dự án áp dụng giá độc quyền để đảm bảo các dự án có lãi hoặc để các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của dự án có chi phí đầu vào thấp.  Thứ hai : Được sử dụng nguồn tài nguyên quý hiếm của quốc gia mà nhiều dự án thông thường khác không được phép sử dụng. Nhưng mỏ khoáng sản lớn, nguồn nước ngầm trên quy mô lớn, khai thác tần số vô tuyến điện, khoảng không…những tài nguyên quí hiềm do nhà nước quản lý và khai thác vì lợi ích chung thông qua dự án phát triển.  Thứ ba: Vay với lãi suất và thời gian dài, có thể ân hạn. Đầu tư theo dự án phát triển có qui mô lớn, Nhà nước chỉ cấp vốn một phần còn lại và vay các tổ chức tài chính dự án. Lãi suất cho vạy thấp thể hiện hỗ trợ của chính phủ cho các dự án phát triển.  Thứ tư: Áp dụng tỷ giá chính thức khá với tỷ giá phản ánh sự thiếu hụt ngoại tệ. Tỷ giá chính thức thường thấp hơn tỷ giá trên thị trường. Chính sách cho thấy ưu đãi nhà nước đối với dự án phát triển thường phải sử dụng nhiều ngoại tệ để nhập khấu trang thiết bị hoặc công nghệ.  Thứ năm : Được miễn thuế hoặc áp dụng mức thuế thấp. Nhữn trợ cấp trên đã chuyển giá thị trường thành giá ngầm. Giá ngầm là các chi phí theo tình thế làm cho thị trường có thể hoạt động một cách lý tưởng. Chính phủ làm điều này để thúc đẩy sự phát triển thông qua thực hiện các mục tiêu: tạo nhiều công ăn việc làm , bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ hay khắc phục những sơ hở về chính sách. Những điều kiện này làm cho 16 dự án phát triển có lợi thế so sánh với các dự án khác, cho phép thực hiện mục tiêu xã hội, hoặc chống đỡ rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên những ưu đãi này đã gây khó khăn trong đánh giá hiệu quả tài chính cũng như xã hội của dự án. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan