Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ hội và thách thức số 1 của ngành dệt may...

Tài liệu Cơ hội và thách thức số 1 của ngành dệt may

.DOC
31
83
52

Mô tả:

I. NGÀNH DỆT MAY. Thách thức Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ Việc gia nhập WTO một mặt làm tăng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường đang áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam, nhưng một mặt cũng kèm theo nguy cơ bị các thành viên, đặc biệt là các thành viên lớn như Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp tự vệ. Trung Quốc là một bài học về vấn đề này. Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc – nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới – đang bị ảnh hưởng mạnh do Hoa Kỳ và EU đã và sẽ áp đặt hạn ngạch hoặc tái áp đặt hạn ngạch đối với nhiều mã hàng theo điều khoản tự vệ Trung Quốc đã nhân nhượng khi gia nhập WTO. Theo ước tính, những biện pháp hạn chế của Hoa Kỳ trong thời gian gần đây đã làm giảm tới 30% xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường này và Trung Quốc đang bị giảm thị phần tại Hoa Kỳ đối với nhiều mã hàng. Mặc dù so với Trung Quốc, ngành dệt may Việt Nam có năng lực chỉ bằng 1/50 và hiện chỉ chiếm 3% thị phần hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Mặt khác, Việt Nam đa phần chỉ xuất khẩu hàng may sẵn nên không ảnh hưởng đến ngành công nghiệp dệt của Hoa Kỳ. Tuy nhiên không loại trừ khả năng khi lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh sau khi gia nhập, Hoa Kỳ và một số thành viên khác sẽ áp dụng biện pháp tự vệ với hàng dệt may Việt Nam, từ đó có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may do đặc thù của ngành là thời gian từ khi ký kết hợp đồng – thu xếp vải, nguyên phụ liệu – sản xuất, giao hàng kéo dài từ 4-5 tháng. Việc các nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu hàng dệt may vào bất cứ thời điểm nào sẽ làm tăng tính ổn định và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà xuất khẩu và nhập khẩu do sản xuất bị dở dang. Nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá Vụ kiện cá tra, cá basa của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và một loạt những vụ kiện chống bán phá giá mà các thành viên phát triển thường áp dụng với các thành viên đang phát triển cho thấy một thực tế là hàng xuất khẩu từ các thành viên đang phát triển, bao gồm cả hàng dệt may Việt nam có nhiều nguy cơ bị các thành viên phát triển như Hoa Kỳ, EU... áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Đặc biệt, dệt may là mặt hàng mà Việt Nam rất có ưu thế về giá, cho nên nguy cơ này có khả năng cao. Hàng dệt may sản xuất trong nước có thể bị cạnh tranh mạnh hơn Hiện nay hầu hết hàng dệt may nước ngoài có mặt tại Việt Nam là hàng Trung Quốc giá rẻ nhập lậu. Vì vậy, việc giảm thuế theo lộ trình cam kết với WTO có khả năng cũng sẽ không làm tăng mạnh lượng hàng nhập khẩu vào Việt Nam, đặc biệt là từ thị trường Trung Quốc, mà chỉ có tác động làm tăng một số lượng nhất định hàng dệt may, đặc biệt là hàng may sẵn vào thị trường trong nước. Do vậy, đây có thể được coi là một thách thức không đáng kể. Ngược lại khi gia nhập WTO: - Thuế giảm. - Bỏ hạn chế định lượng nhập khẩu hàng may mặc TQ, Thái Lan và nước ngoài. vào tự do cũng sẽ là 1 thách thức lớn. Ngành dệt may chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng do các hình thức trợ cấp hiện tại bị bãi bỏ hoặc cắt giảm Như đã trình bày ở trên, Việt Nam sẽ phải cam kết bãi bỏ ngay từ thời điểm gia nhập hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại và trên thực tế Việt Nam đã bỏ hình thức trợ cấp này từ tháng 7/2005. Như vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn lại - Ưu đãi về tín dụng; Ưu đãi về đầu tư; Bảo lãnh tín dụng đầu tư thuộc. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Cơ hội Mở rộng thị trường, tăng quy mô sản xuất từ đó hưởng tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô Khi Việt nam gia nhập WTO, các thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam (đây là một yêu cầu của WTO như đã được phân tích ở trên). Hoa Kỳ hiện đang là một thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam về mặt hàng này (chiếm hơn 50%) thị phần nhưng lại đang áp đặt hạn ngạch với ta. Khi ta gia nhập, thị trường lớn nhất này sẽ buộc phải bãi bỏ hạn ngạch, do đó, ta có nhiều cơ hội đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này. Thêm vào đó, các thị trường khác như EU sẽ không có cơ hội áp đặt hạn ngạch như đã làm trước đây, từ đó đảm bảo tính ổn định hơn cho thị trường dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, việc tăng này cũng có khả năng đi kèm với nguy cơ bị kiện bán phá giá và viện dẫn áp đặt tự vệ như đã trình bày ở trên. Giảm chi phí xuất khẩu gắn với việc phân bổ hạn ngạch, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Theo tính toán, việc phân bổ hạn ngạch dệt may theo Hiệp định ATC đã làm tăng chi phí xuất khẩu cho doanh nghiệp. Chi phí này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu và đối với Việt nam, chi phí do hạn ngạch sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang US/Canada chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt hàng may mặc vào 2 thị trường này là 7.1% và chi phí do hạn ngạch sinh ra khi xuất khẩu sang EU đã là 7.5% đối với mặt hàng dệt và 7.2% đối với mặt hàng may mặc. Như vậy, khi gia nhập WTO, với việc các thành viên WTO phải bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra. Bảng 4 Tỷ trọng chi phí do hạn ngạch gây ra trong tổng chi phí XK US/Canada EU (%) (%) Dệt May Dệt May mặc mặc Bangladesh 15.3 8.4 7.3 8.1 Trung Quốc 20.0 33.0 12.0 15 Hồng Kông,1.0 10.0 1.0 5.0 Trung Quốc Hungary 6.9 5.0 0 0 Ấn Độ 9.8 34.2 12.0 15.2 Indonesia 8.1 7.8 6.3 6.0 Philippin 6.5 7.8 5.7 6.0 Ba Lan 6.9 5.0 0 0 Sri Lanka 15.3 5.5 6.6 8.3 Thái Lan 8.3 13.2 6.4 7.8 Thổ Nhĩ Kỳ 7.0 4.9 1.5 0 Việt Nam 6.9 7.1 7.5 7.2 Các nước trung6.9 5.0 0 0 US/Canada EU (%) (%) Dệt May Dệt May mặc mặc Âu khác Nguồn: Hildegunn Kyvik Nordas (2004), The Global Textile and Clothing Industry post the Agreement on Textiles and Clothing, WTO – Cẩm nang hội nhập Các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi hơn trong thủ tục xuất khẩu, từ đó tăng kim ngạch xuất khẩu Cơ chế hạn ngạch làm nảy sinh những vấn đề xã hội như nạn tham nhũng, tiêu cực và sách nhiễu doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp có năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa tốt lại không có cơ hội xuất khẩu do không có hạn ngạch. Việc xóa bỏ hạn ngạch của các nước đối với Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng này, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trong việc xuất khẩu hàng dệt may và góp phần nâng cao uy tín về chất lượng hàng dệt may trên thị trường thế giới. Hệ thống luật pháp trở nên thuận lợi hơn đối với các hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp dệt may được bảo vệ bởi các công cụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế Theo nguyên tắc minh bạch hóa chính sách, trong quá trình gia nhập WTO, Việt Nam phải minh bạch hoá toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại của mình và thông báo các kế hoạch hành động để tuân thủ dần dần các nguyên tắc của WTO. Thông qua quá trình này, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về ngành dệt may sẽ minh bạch hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư cũng như hợp tác về các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế. Khi Việt nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp có khả năng phải đối mặt nhiều hơn với các vụ kiện chống bán phá giá. Tuy nhiên, việc gia nhập sẽ giúp các doanh nghiệp được giải quyết thỏa đảng hơn theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, hạn chế tình trạng áp đặt đơn phương như hiện nay. Tạo điều kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài Tư cách thành viên WTO là bằng chứng của một môi trường kinh doanh thuận lợi, và nhờ đó, sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực xuất khẩu và khu vực sản xuất cho thị trường nội địa. Tuy nhiên, xác định mức độ mà tư cách thành viên WTO tác động đến FDI là một việc khó khăn, bởi có quá nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư. Năm 2002, Trung Quốc được kết nạp vào WTO, Trung Quốc thu hút được 52,7 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và Trung Quốc trở thành nước đứng đầu thế giới về FDI. Việt Nam cũng đã thành công trong việc thu hút đầu tư. Đến năm 2004, tổng FDI vào Việt Nam là 4,1 tỷ USD, trong đó số FDI vào ngành dệt may là 3.215 triệu USD (vốn đăng ký) với tổng số dự án là 534 từ 28 quốc gia và vùng lãnh thổ. Như vậy, với những thay đổi trong hệ thống pháp lý của Việt Nam qua tiến trình đàm phán gia nhập sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm trong các quy định liên quan đến đầu tư, và như vậy, sẽ tạo nên môi trường thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, trong đó đương nhiên có các nhà đầu tư vào ngành dệt là ngành thượng nguồn cung cấp nguyên liệu cho ngành may Việt Nam, là yếu tố quan trọng cho việc phát triển bền vững ngành dệt may Việt Nam. II. NGÀNH DU LỊCH III) Cơ hội du lịch Việt Nam -Trư¬ớc hết, phải khẳng định rằng, Việt Nam là một đất nư¬ớc có nhiều tiềm năng du lịch với nhiều cảnh quan tự nhiên đẹp, phong phú và đa dạng khắp trên mọi miền đất nư¬ớc, có sức hấp dẫn đối với du khách. Hơn nữa, Việt Nam đã từng trải qua các cuộc kháng chiến thần kỳ để lại cho lịch sử dân tộc những dấu ấn hào hùng có sức lôi cuốn du khách muốn tìm hiểu về lịch sử Việt Nam. Đặc biệt, dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu khách – đây là một trong những yếu tố gây hứng thú đối với du khách. -Hiện nay Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm tới việc tạo môi tr¬ường đầu tư¬ thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các thành phần kinh tế có thể tham gia đầu tư vào lĩnh vực du lịch, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trước pháp luật. -Đảng và Nhà nước đã và đang quan tới phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, trong đó đặc biệt là hạ tầng giao thông vận tải, thông tin, dịch vụ du lịch, nơi vui chơi giải trí, văn hóa… đây chính là sự quan tâm tạo những điều kiện cần thiết để phát triển du lịch. - Sự cạnh tranh trong hội nhập là cơ hội để các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch vươn lên tự khẳng định và hoàn thiện mình, phải có ý thức nâng cao hơn nữa chất lư¬ợng dịch vụ và đa dạng hóa sản phẩm du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu trong nư¬ớc và quốc tế. -Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để Việt Nam có thể tiếp cận được với các nước trên thế giới về đào tạo nguồn nhân lực du lịch có trình độ quốc tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thị tr¬ường trong nước và theo kịp trình độ quốc tế về du lịch. - Tình hình chính trị tiếp tục không ổn định tại Thái Lan, khủng bố tại Ấn Độ, Indonesia… khách sẽ có xu thế chuyển hướng vào Việt Nam nếu chúng ta có chính sách kích cầu hợp lý. Năm 2009 là năm chúng ta đăng cai hội chợ du lịch quốc tế ATF Hà Nội, đây là cơ hội tốt để quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam. -Hơn nữa do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế ,một số lượng lớn lao động bị mất việc làm ,họ tranh thủ thời gian này để đi du lịch. IV) Thách thức Trước tình hình khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính, ngành du lịch Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh khó khăn chung với các nước ở khu vực và trên thế giới đó là: Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm ảnh hưởng đến “thị trường gốc” của ngành du lịch Việt Nam. Đó là thị trường Châu Âu. Trước đây, khi dịch Sars và cúm gà bùng phát, ngành du lịch Châu Á trong đó có Việt Nam cũng trải qua giai đoạn khủng hoảng. Tuy nhiên, dịch bệnh chỉ tập trung và tấn công thị trường Châu Á còn thị trường gốc vẫn không bị tổn thương, lượng khách nhanh chóng được phục hồi và thoát khỏi khủng hoảng. Thế nhưng đợt khủng hoảng lần này lại có tính toàn cầu và tác động đến hầu hết các Châu lục. Vì vậy, nó gây nên một tâm lý ngại, không muốn đi du lịch. Điều này, dẫn đến lượng khách ngày càng giảm. Bên cạnh đó, giá cả dịch vụ, giá tour của Việt Nam vẫn còn cao nếu so sánh với các nước trong khu vực. “Giá cả Việt Nam quá đắt đỏ!”, nên đây là một trong những lý do khiến du khách ngần ngại khi tìm đến Việt Nam. Ngoài ra, “Suy giảm kinh tế khiến mọi tầng lớp đều tập trung vào việc tháo gỡ khó khăn trong kinh doanh, hoặc tiết giảm chi phí tiêu dùng. Giá dịch vụ ở Việt nam kém cạnh tranh so các nước lân cận, chất lượng dịch vụ chưa hoàn thiện. Giá phòng khách sạn, giá vé máy bay, dịch vụ ăn uống cộng thêm một số chi phí phụ khác tăng cao kéo theo giá tour ở năm nay tăng từ 15 – 30% so với năm 2007. Giá tour đến Việt Nam tăng từ 15 – 30%, tức tăng gấp đôi giá tour đến các nước Thái Lan, Malaysia, Singapore, mà mức độ hấp dẫn vẫn còn ở tình trạng tiềm ẩn”.). Vì vậy, trước tình hình hiện nay, ngành du lịch cần một vị trọng tài đủ uy tín để “điều hòa” giá cả đạt mức hợp lý và có khả năng cạnh tranh, giúp các công cụ quảng bá “vẻ đẹp tiềm ẩn” hoạt động hiệu quả hơn. Việc giảm giá tour để gia tăng tính cạnh tranh ngay thời điểm hiện nay có lẽ cũng khó thu hút ngay du khách nước ngoài. Tuy nhiên, điều này lại hoàn toàn có thể đẩy nhanh nguồn khách nội địa vào dịp năm,đặc biệt là trong dịp hè 2009. “Cần liên kết cả hệ thống, điều chỉnh giá dịch vụ khách sạn, máy bay từ đó giảm giá tour, tập trung đặc biệt vào du lịch nội địa. Bên cạnh đó, phải đẩy mạnh quảng bá nhiều vào các loại hình. Do vậy nên có chiến lược giảm giá du lịch hè2009 và đầu tư vào những tour nghi mát ,tham quan mạo hiểm…” Một chiến lược lâu dài, Chính phủ cần giảm miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp lữ hành trong năm 2009. Cần ưu tiên đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp quốc gia và các khu du lịch chuyên đề. Theo đó có kế hoạch đẩy mạnh phát triển du lịch đối với các địa bàn du lịch trọng điểm như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Đà Lạt, Ninh Thuận, Vũng Tàu, TP.HCM, Hà Tiên, Phú Quốc và các tuyến du lịch quốc gia có ý nghĩa liên kết các vùng. “Để tăng thêm sự phong phú cho sản phẩm du lịch nội địa cần đẩy mạnh các chuỗi sản phẩm tour tâm linh, tour mạo hiểm, du lịch rừng… Đây là những loại hình sản phẩm tuy chỉ đáp ứng thị hiếu từng loại hình khách hàng riêng biệt nhưng nếu kết hợp lại và đẩy mạnh sẽ tạo là động lực thu hút khách đi du lịch”. Điều chỉnh giá, tập trung kích cầu du lịch trong nước để thúc đẩy người dân đi du lịch là cách tốt nhất trước mắt có thể thực hiện để đẩy mạnh du lịch dịp nghỉ hè . Đặc biệt, cần sự điều tiết, quản lý giá đẩy mạnh vai trò lãnh đạo của “đầu tàu” du lịch là những biện pháp hợp lý trước mắt để giải quyết tình hình. Bên cạnh đó du lịch Việt Nam còn có những thách thức không nhỏ khác như: -Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong hoàn cảnh Việt Nam còn nhiều khó khăn hạn chế, như: hệ thống cơ sở hạ tầng còn kém phát triển (thua xa so với các n¬ước trong khối ASEAN), hệ thống giao thông đ¬ường bộ, hàng không, cầu cảng… còn lạc hậu, chất l¬ượng thấp, mặc dù đã có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, do vậy, cư¬ớc phí giao thông còn cao. Hệ thống thông tin viễn thông chư¬a phát triển rộng khắp, chất l¬ượng còn hạn chế trong khi giá dịch vụ lại cao hơn nhiều so với các nư¬ớc trong khu vực. Điện nư¬ớc chư¬a đảm bảo đ¬ược nhu cầu và giá quá đắt. Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, các tiện nghi phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi, giải trí còn thiếu, chất l¬ượng hạn chế. Chất l¬ượng sản phẩm du lịch không cao, sản phẩm chưa đa dạng và không phong phú. Các quy định pháp lý về quản lý du lịch chư¬a đầy đủ và còn không ít bất cập đối với hoạt động kinh doanh du lịch. -Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh du lịch của Việt Nam thuộc loại nhỏ, chất l¬ượng dịch vụ hạn chế, năng lực quản lý thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế yếu. Trong khi hệ thống luật pháp Việt Nam lại chư¬a hoàn chỉnh, nhiều cơ sở kinh doanh ch¬ưa tạo dựng đ¬ược uy tín, làm ăn mang tính chụp giựt, chặt chém khách, có nhiều nơi, hoạt động diễn ra tự phát, lộn xộn, thậm chí gây phiền toái cho khách, những tiêu cực này làm ảnh h¬ưởng đến du lịch Việt Nam, mặt khác ý thức tôn tạo và bảo vệ cảnh quan môi trường du lịch chưa được nâng cao, điều này gây trở ngại cho sự phát triển bền vững của ngành Du lịch. -Bên cạnh đó, đội ngũ nhân lực phục vụ ngành Du lịch đã đ¬ược đào tạo cơ bản còn ít, yếu về trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ, thiếu về kinh nghiệm. Đặc biệt, Việt Nam thiếu ng¬ười quản lý và phục vụ có trình độ chuyên môn cao trong các cơ sở phục vụ kinh doanh du lịch ở lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, các nơi nghỉ dư¬ỡng, các cơ sở vui chơi, giải trí…do đó du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc rế. -Quá trình mở cửa, hội nhập du lịch quốc tế cũng có thể tạo ra nguy cơ phá hoại môi trư¬ờng và cảnh quan của Việt Nam nếu chúng ta không có sự quan tâm thích đáng với các biện pháp quản lý có hiệu quả. -Quá trình mở cửa, hội nhập du lịch cũng có thể gây ảnh hưởng và làm phức tạp hóa một số vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự xã hôi, giữ gìn thuần phong mỹ tục Việt Nam Biến đổi khí hậu đang có tác động mạnh mẽ hơn so với dự báo. Du lịch Việt Nam với thế mạnh tập trung vào biển đảo sẽ đứng trước thách thức vô cùng lớn và khó lường trước ảnh hưởng của triều cường, mực nước biển dâng ở các vùng duyên hải, vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Những dị thường của khí hậu tác động trực tiếp gây khó khăn, trở ngại tới hoạt động du lịch. Trên bình diện thế giới, Việt Nam được xác định là 1 trong các quốc gia chịu tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu bởi mực nước biển dâng. Ngoài ra ô nhiễm môi trường cục bộ đang trở thành mối đe dọa đối với điểm đến du lịch nếu chậm có giải pháp kiểm soát thích đáng. - Nhu cầu du lịch thế giới có nhiều thay đổi, hướng tới những giá trị mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá truyền thống (tính độc đáo, nguyên bản), giá trị tự nhiên (tính nguyên sơ, hoang dã), giá trị sáng tạo và công nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi). Du lịch bền vững, du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm, du lịch cộng đồng gắn với xoá đói giảm nghèo, du lịch hướng về cội nguồn, hướng về thiên nhiên là những xu hướng nổi trội. Chất lượng môi trường trở thành yếu tố quan trọng cấu thành giá trị thụ hưởng du lịch. Đây là thách thức vô cùng lớn về quan điểm, nhật thức và chuyên môn kỹ thuật. Du lịch Việt Nam nếu không nắm bắt kịp xu hướng này sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu, mất thị phần và hiệu quả thấp. Sự quay lưng của du khách với điểm đến sẽ là thảm họa. NGÀNH SẢN XUẤT Ô TÔ Nếu không có ngành công nghiệp ô tô, Việt Nam sẽ khó đạt mục tiêu đến năm 2020 trở thành quốc gia công nghiệp Hàng loạt biện pháp nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô trong nước trước thời điểm mở cửa hoàn toàn với thế giới vào năm 2018 đã được bàn luận sôi nổi tại hội thảo “Phát triển ngành công nghiệp ô tô VN : Cơ hội và thách thức” do Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô trong nước ( VAMA ) tổ chức ngày 19-112009 tại TPHCM. Đi sau Thái Lan... 40 năm Mặc dù định hướng phát triển ngành công nghiệp ô tô trong nước đã hình thành cả chục năm nhưng tính đến nay nếu đánh giá mức độ phát triển của ngành này cũng chỉ vỏn vẹn bốn từ “dập, hàn, sơn, ráp”. Ngay như Toyota Việt Nam, đơn vị được đánh giá là một trong số doanh nghiệp (DN) có tỉ lệ nội địa hóa cao nhất cũng chỉ dừng lại ở mức 19% – 37% ( xe Innova đạt tỉ lệ cao nhất và chỉ được cam kết mức 50% - 60% nếu mức tiêu thụ đạt khoảng 50.000 xe/năm dự kiến vào năm 2018 ). So với một số quốc gia trong khu vực, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đứng sau cả Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Philippines. Đặc biệt, quy mô thị trường và công nghiệp ô tô thì Việt Nam đi sau Thái Lan đến 40 năm. Tỉ lệ nội địa hóa của nước này đối với xe bán tải chiếm 80% - 90% và xe du lịch là 30% - 70%; có đến 2.300 nhà cung cấp các linh kiện phụ tùng. Hiện Thái Lan đang thực hiện chính sách nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất dòng xe sinh thái, tiết kiệm năng lượng... “Trong khi đó, Việt Nam với quy mô thị trường chỉ khoảng 110.000 xe/năm ( thấp hơn Thái Lan khoảng 500.000 xe/năm ) nhưng lại có quá nhiều mẫu xe, doanh số bán hàng bình quân cho cùng một mẫu xe rất thấp, chỉ khoảng 100 xe/tháng nên rất khó kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ phụ trợ” – ông Ngô Văn Trụ, Vụ phó Vụ Công nghiệp nặng - Bộ Công Thương, thừa nhận. Cũng theo các chuyên gia tại hội thảo : Chính sách thuế đối với ô tô không ổn định cũng là rào cản để phát triển ngành công nghiệp ô tô. Chẳng hạn như trong khi mức tiêu thụ ô tô toàn cầu năm nay đều giảm do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thì Việt Nam lại tăng mạnh ( số lượng dự kiến năm nay khoảng 150.000 xe ) chỉ vì giảm thuế GTGT và phí trước bạ. Đến đầu năm 2010, khi các mức thuế trở lại bình thường thì rất khó tiên đoán được thị trường ô tô liệu có còn tăng trưởng hay không ? Xe chiến lược : Không chỉ là chính sách thuế Mới đây, Bộ Công Thương đã đề xuất dòng xe chiến lược trong phân khúc ô tô du lịch của Việt Nam là xe đa dụng, từ 6-9 chỗ ngồi, có dung tích động cơ nhỏ hơn 1,5 lít; đạt tiêu chuẩn khí thải Euro 2. Theo đề xuất, mức thuế tiêu thụ đặc biệt cho loại xe này chỉ ở mức 30% ( các xe khác là 45-50 và 60% ); phí trước bạ là 2% và thuế GTGT là 5% ( xe khác là 10% ). Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ được giảm theo tỉ lệ nội địa hóa. Ngoài ra, nhà sản xuất loại ô tô chiến lược quốc gia và các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ cho dòng xe này sẽ được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, được hưởng thuế suất 0% cho nhập khẩu máy móc, nguyên liệu phục vụ sản xuất xe chiến lược... Theo Vụ Công nghiệp nặng, Thủ tướng đã gửi đề xuất dòng xe chiến lược quốc gia của Bộ Công Thương đến VAMA và một số doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước để góp ý.“Nếu đề xuất trên được thông qua, năm 2010 sẽ là thời điểm lập kế hoạch thực hiện phân khúc xe chiến lược quốc gia” – ông Ngô Văn Trụ chia sẻ... Ông Phạm Đình Thi, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế ( Bộ Tài chính ), phân tích : Theo cam kết AFTA/CEPT, đến năm 2018, thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc chỉ còn từ 0% - 5% và tùy theo từng chủng loại, thuế phụ tùng ô tô xuống còn 12% - 25%. Chính sách tính thuế sẽ không áp dụng theo bộ linh kiện như hiện nay mà tập trung hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất công nghiệp phụ trợ, gồm các loại linh kiện quan trọng như động cơ, hộp số và có thể được bảo hộ từ 5 – 10 năm. Trong quá trình phát triển ngành công nghiệp ô tô, các nhà sản xuất trong nước cũng nên lưu ý đến công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường vì theo dự kiến dự thảo Luật Thuế môi trường có thể được thông qua vào tháng 10-2010. Theo đó, thuế sẽ được tính theo mức độ xả khí thải của từng loại ô tô. Đại diện Bộ Công Thương khẳng định : Nếu không quy hoạch phát triển ổn định và dài hạn công nghiệp ô tô thì đến năm 2020 VN sẽ khó đạt mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hóa. Quy hoạch lại thị trường ô tô Nhìn lại những biến động lớn trên thị trường tài chính tiền tệ của năm 2010 và đầu năm 2011, đã thấy hàng loạt những chính sách điều hành kinh tế vĩ mô như tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách Nhà nước… Một trong những biện pháp mạnh mẽ đầu tiên của năm nay là tạm dừng mua sắm ô tô công. Chính sách này được cho là ảnh hưởng rất lớn tới viễn cảnh của thị trường ô tô, xe máy trong nước. Ngay khi liên Bộ Công Thương – Tài chính công bố điều chỉnh mức thuế dành cho xe nhập khẩu thì lãi suất ngân hàng lại tăng và tỉ giá đồng đô la cũng liên tục biến động khiến những cơ hội cho xe nhập khẩu bỗng chốc trở nên không rõ ràng nếu không nói là thay đổi. Cụ thể, thị trường ôtô trong năm 2010 phải đối mặt với nhiều khó khăn sau khi Chính phủ chấm dứt gói kích cầu bao gồm việc giảm 50% thuế VAT và lệ phí trước bạ cũng như hỗ trợ lãi suất ngân hàng 4%. Ngoài ra, lãi suất cho vay để mua xe trong năm 2010 luôn ở mức cao, từ 18 20% và tỷ giá hối đoái ngân hàng được điều chỉnh 2 lần vào tháng 4 và tháng 8… Những nhân tố này đã tác động tiêu cực đến thị trường trong 9 tháng đầu năm 2010. Tuy nhiên, tình hình đã có dấu hiệu khả quan hơn khi quý 4 của năm, thị trường ấm dần lên với sự gia tăng nhu cầu mua xe trước Tết Nguyên đán. Dẫu sao thì tâm lý của người tiêu dùng vẫn bị ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí còn có lúc hoang mang khi quyết định mua xe. Hiện rất cần có những thay đổi tất yếu để thúc đẩy sự phân hóa và quy hoạch lại thị trường một cách rõ ràng hơn. Thực tế, như mọi năm thường có đến 5 - 6 triển lãm chuyên ngành ô tô xe máy ở nước ta, nhưng năm nay, chỉ còn 3 triển lãm, mà SaiGon Autotech 2011 là triển lãm chuyên ngành ô tô xe máy và công nghiệp phụ trợ đầu tiên và duy nhất trong năm ở TP.HCM. Sự phong phú chính là một trong những nét đáng chú ý của Triển lãm SaiGon Autotech năm nay. Không chú trọng quá nhiều vào việc khuyếch trương và giới thiệu một hạng xe như xe nhập khẩu hay sản xuất trong nước, xe hạng sang hay phổ thông, …Saigon Autotech 2011 muốn mang lại cho người tiêu dùng một cái nhìn khách quan và nhiều chiều về thị trường ôtô và xe máy và sản phẩm hỗ trợ tại Việt Nam, đồng thời sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng thuộc mọi tầng lớp. Theo thông báo của Ban Tổ chức, Saigon Autotech 2011 vẫn thu hút được nhiều đơn vị tham gia trưng bày. Điều này phần nào cho thấy những nỗ lực trong thời kỳ kinh tế khó khăn của các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu và phân phối sản phẩm ô tô, xe máy cũng như các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ trong và ngoài nước. Theo ông David Yang, Giám đốc Công ty ChanChao Việt Nam, 40 doanh nghiệp này chủ yếu là trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ và phụ kiện ô tô, hiện tại chưa có 1 doanh nghiệp ô tô nguyên chiếc nào đăng ký tham gia. Thách thức cũng không ít Hiện doanh nghiệp sản xuất ô tô - xe máy trong nước vẫn đang và sẽ phải "đối mặt" với nhiều thách thức. Những nhân tố như thuế nhập khẩu, gia tăng tỷ giá, tăng lệ phí trước bạ, phí cấp biển số mới và lãi suất ngân hàng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường ôtô. So với các nước trong khối ASEAN như Thái Lan, Malaysia... Việt Nam phát triển công nghiệp ô tô, xe máy muộn hơn khoảng 30 năm. Mặt khác, với sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm qua, nước ta đang dần trở thành một thị trường hấp dẫn đối với công nghiệp ô tô - xe máy. Đây là thời cơ và cũng là thách thức lớn đối với công nghiệp ô tô, xe máy của nước ta. Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề khó là làm sao để sự phát triển ô tô, xe máy không gắn liền với tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường; đồng thời, làm sao "chớp" thời cơ để phát triển công nghiệp ô tô-xe máy Việt Nam, không để Việt Nam biến thành thị trường nhập khẩu ô tô-xe máy từ các nước khác. Vấn đề này càng bức xúc hơn khi thời hạn thực hiện AFTA, WTO đang đến gần. Theo đó, Việt Nam phải mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế kể từ ngày gia nhập và các loại rào cản thương mại được loại bỏ dần, đây sẽ là một thách thức không nhỏ đối với ngành công nghiệp ô tô - xe máy Việt Nam. Cùng với đó, theo cam kết với ASEAN, thuế nhập khẩu theo Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) sẽ giảm xuống 0% vào năm 2018. Đó là một thách thức lớn đối với ngành công nghiệp ôtô non trẻ Việt Nam. Thời điểm từ bây giờ tới năm 2018 không phải là dài và hiển nhiên thuế nhập khẩu ôtô gây ra áp lực cho các nhà sản xuất ôtô trong nước. Từ những thuận lợi và khó khăn trên, Chính phủ cần đánh giá đúng được vai trò của ngành công nghiệp ôtô như là một nguồn lực để thu hút công nghệ hiện đại, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và tạo công ăn việc làm, để từ đó, đưa ra những chính sách lâu dài và ổn định nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô trong tương lai. 2. Đầy đủ các cơ hội đầu tư Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam nói chung và ô tô sản xuất và lắp ráp ngành công nghiệp nói riêng đã nhìn thấy bước đột phá mạnh mẽ nhất định. Lợi nhuận từ ngành công nghiệp lắp ráp ô tô đã thu hút cả hai công ty trong và ngoài nước. Theo Tập đoàn Công nghiệp Việt Nam Motors (Vinamotor), việc lắp ráp chiếc sedan tại Việt Nam trung bình tạo ra một lợi nhuận là 5.000 USD và thu nhập thặng dư thậm chí còn cao hơn trong dòng sản phẩm khác-up. Tuy nhiên, các công ty cơ khí Việt không nắm bắt cơ hội của ngành công nghiệp siêu lợi nhuận này. Thông thường, một chiếc xe hơi cần từ 20.000 đến 30.000 phần nhưng số lượng của các công ty sản xuất các bộ phận ở Việt Nam là quá nhỏ. Theo Bộ Công nghiệp, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chỉ có hơn 60 bộ phận các nhà cung cấp. Nhu cầu cho các bộ phận tự động tại Việt Nam vượt qua việc cung cấp. Phụ tùng xe hơi chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Đặc biệt, trong năm 2002, Toyota đã chi 150 triệu USD để nhập khẩu linh kiện cho nhà máy ở phía bắc tỉnh Vĩnh Phúc và chi phí nhập khẩu đạt 460 triệu USD trong 2005.Meanwhile, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản chỉ giải ngân 2,3 triệu USD vào các bộ phận trong nước. VMC, trong đó lắp ráp xe ô tô Mazda, trả US $ 280 triệu vào các thành phần nhập khẩu trong khi nó chỉ dành 1,2 triệu đô la Mỹ vào lúc các bộ phận địa phương chủ yếu là điện, dây điện, lốp xe và ống bên trong. Việt Nam chỉ có một số phụ tùng xe hơi sản xuất như Công ty Cơ khí 19-8 và Công ty cao su INOUE nhưng họ có một vài loại sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp khác đang cố gắng để sản xuất các thành phần nhiều hơn nhưng họ phải đối mặt với khó khăn trong tài chính và công nghệ. Do đó, các công ty nước ngoài như Nissan, Dezen và nhiều liên doanh với Trung Quốc và Malaysia đến Việt Nam để làm cho các bộ phận xe như các bộ phận kim loại, chỗ ngồi, hệ thống điều hòa không khí và động cơ. Khó khăn và giải pháp Chiếc xe trẻ sơ sinh các bộ phận sản xuất công nghiệp đang phải đối mặt với khó khăn rất nhiều trong quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong một niềm hy vọng của việc có một ngành công nghiệp tự động thực tế, Chính phủ đánh giá cao bảo vệ các liên doanh xe hơi nước ngoài do doanh trong đó cam kết nâng cao tỷ lệ các bộ phận nguồn gốc địa phương tỷ lệ phần trăm 30-40 sau 10 năm tại Việt Nam. Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp có thể nâng cao nội dung các bộ phận địa phương tới gần 20%. Điều này đã dẫn đến từ lý do khác nhau. Về chủ quan, có vốn đầu tư nước ngoài liên doanh xe không bắt buộc phải nâng cao tỷ lệ nội địa hoá. Các chính sách của Chính phủ Việt Nam có rất nhiều thiếu sót. Nhà cung cấp phụ tùng trong nước không có những sản phẩm nổi bật và không biết đến nhà sản xuất xe hơi. Hơn nữa, với công nghệ nghèo và năng lực quản lý, các sản phẩm Việt Nam không thể cạnh tranh với những người trong khu vực. Các nguồn chính của vật liệu được nhập khẩu từ nước ngoài. Năng lực tài chính của doanh nghiệp Việt Nam là thấp hơn vì họ có rất nhiều phụ thuộc vào ngân hàng. Các giải pháp soundest là rằng tất cả các cơ quan có thẩm quyền và nhà đầu tư tham gia lực lượng để phát triển các ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Thống nhất chiến lược phát triển dài hạn phải được sản xuất để tránh đầu tư phân tán và phát triển trong ngành công nghiệp, mà chỉ dựa trên nhu cầu của thị trường ngắn, gọi là. Tuy nhiên, một giải pháp chung, định hướng và phương pháp luận cho việc đầu tư và phát triển của sản xuất phụ tùng ô tô nên được một thời gian ngắn thực hiện với sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Nhà đầu tư cần có bước phát triển chiến lược và các giải pháp và tham gia bàn tay với các đối thủ của họ để cùng tồn tại trong thị trường ngày càng cạnh tranh. Theo Viện Chiến lược và Chính sách Công nghiệp (IPSI) thuộc Bộ Công nghiệp, Việt Nam sẽ phải đầu tư VND18, 000 tỷ đồng (1,16 tỷ USD) trong phát triển ngành công nghiệp ô tô trong nước từ nay đến năm 2010. Sau đây là ý tưởng của các chuyên gia về vấn đề này: Hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô vẫn còn chưa phát triển: Mr. Nguyễn Xuân Chuẩn, Chủ tịch Hiệp hội Cơ khí Việt Nam Sản xuất các bộ phận và phụ kiện là một yếu tố rất quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp ô tô, nhưng chúng tôi vẫn còn rất yếu này. Ví dụ, thép để sản xuất xi-lanh, piston và trục là rất khó. Tuy nhiên, Việt Nam có khả năng làm thép xây dựng. Việc sản xuất nhôm, crinite, cứng thép đốt cháy các tấm rất nhiều khó khăn hơn. Sơn điện phân cũng được nhập khẩu. Để đối phó với những khó khăn này, theo ý kiến của tôi, trong nước cần tiếp tục tham gia bàn tay với nhau. Chúng tôi có thể phát triển ngành công nghiệp ô tô từ lắp ráp và tất cả các ngành công nghiệp khác cũng tương tự. Vấn đề lớn nhất là tìm kiếm vốn đầu tư: Mr. Nguyễn Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Samco Nó không phải là dễ dàng để phát triển một ngành công nghiệp tự động, vì vốn là điều kiện cần thiết đầu tiên. Một doanh nghiệp cần ít nhất 100 tỷ đồng (6,3 triệu USD) và bình quân 200 tỷ đồng cho một dây chuyền lắp ráp tự động. Đây là một khoản tiền quá lớn của tiền bạc cho một doanh nghiệp nhà nước và thậm chí một khoản tiền lớn hơn nhiều cho một doanh nghiệp tư nhân. Nếu các yêu cầu là quá cao, không ai có thể hội đủ điều kiện cho ngành công nghiệp này. Kết quả là, nó là không rõ ràng cho thời gian Việt Nam có một ngành công nghiệp tự động. Chất lượng và tiêu chuẩn môi trường phải được dựa trên các tiêu chuẩn Việt Nam. Hầu hết các doanh nghiệp nghiêm túc đầu tư vào sản xuất tự động và tất cả các sản phẩm của họ đáp ứng tất cả các điều kiện cho giao thông. Do đó, lắp ráp nên là cơ sở cho sự phát triển. Tỷ lệ nội địa hóa cần được sửa đổi, bổ sung: Bà Hoàng Thị Liên, Phó Giám đốc của Viện Chiến lược và Chính sách công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp Điều quan trọng nhất là để cho ý tưởng làm cho 100% xe ô tô Việt. Việt Nam nên dần dần trở thành một liên kết của các ngành công nghiệp ô tô toàn cầu hoặc khu vực. Là một liên kết, Việt Nam sẽ có khả năng làm cho các bộ phận chất lượng toàn cầu. Đây là một xu hướng trong ngành công nghiệp ô tô toàn cầu. Do đó, chúng ta nên dừng lại ở ngành công nghiệp lắp ráp và định hướng để có một liên kết của ngành công nghiệp ô tô thế giới. Chúng tôi có thể làm cho lốp xe, pin, tán hoặc các bộ phận khác thay vì tất cả các bộ phận. IV. NGÀNH SỮA Tận dụng cơ hội Hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang đến khá nhiều cơ hội cho ngành sữa Việt Nam, thông qua rất nhiều phương thức như tái cấu trúc lại sản xuất, giải thể, mua bán hoặc sát nhập các doanh nghiệp kém hiệu quả nhằm tạo ra các doanh nghiệp lớn hơn, có tiềm lực hơn. Tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam từ mức 8,09 lít/người/năm vào năm 2000 đã lên tới 14,81 lít/người/năm vào năm 2008, với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 9%/năm trong giai đoạn 2000 - 2008. Tuy nhiên so với một số nước khác trong khu vực như Thái Lan, năng lực tiêu thụ sữa tại Việt Nam vẫn còn thấp hơn rất nhiều. Nhìn vào mức tăng dân số hàng năm khoảng 1,2%, tỷ lệ tăng trưởng GDP từ 6 8%/năm, thu nhập bình quân đầu người ngày một tăng... có thể nói tiềm năng phát triển của thị trường sữa tại Việt Nam còn rất lớn. Tính đến năm 2008, toàn ngành có 72 doanh nghiệp sản xuất với tổng năng lực sản xuất là 796,2 triệu hộp sữa đặc có đường, 101,5 ngàn tấn sữa bột, 778,3 ngàn tấn sữa thanh trùng và tiệt trùng và 150,8 ngàn tấn sữa chua/năm. Đối mặt khó khăn Bên cạnh những cơ hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành sữa Việt Nam cũng phải đối diện những thách thức. Điển hình, những vụ việc gây bất bình trong dư luận như sữa có Melamine, sữa có chất lượng thấp hơn so với công bố… khiến cho hoạt động tiêu thụ sữa gặp khó khăn, ảnh hưởng đáng kể tới các doanh nghiệp sản xuất sữa. Bên cạnh đó, nguồn thức ăn chăn nuôi cho bò sữa phải nhập khẩu trong xu hướng tăng cao, tác động tới chi phí đầu vào. Các hãng sản xuất sữa trong nước còn đang chịu sức ép cạnh tranh ngày một gia tăng do việc giảm thuế cho sữa ngoại nhập theo chính sách cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi thực hiện các cam kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (cam kết CEPT/AFTA) và cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ngoài ra, giá sữa bột nhập khẩu tại thị trường Việt Nam đôi khi lại vận động trái chiều với xu thế của thị trường thế giới và của giá sữa nguyên liệu nhập khẩu, gây nhiều bức xúc trong cộng đồng xã hội. V. NGÀNH NGÂN HÀNG THÁCH Chính THỨC sách tiền tệ chặt chẽ: Khả năng tiếp tục giảm trần lãi suất: Theo Nghị quyết của Quốc hội cũng như chủ trương chung của Chính phủ và NHNN, chính sách tiền tệ năm 2012 sẽ tiếp tục được định hướng chặt chẽ nhưng sẽ giảm dần lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó, khi lạm phát các tháng gần đây đang có xu hướng giảm, khả năng giảm trần lãi suất vào đầu năm sau là hoàn toàn có thể. Việc sử dụng mệnh lệnh hành chính để buộc các ngân hàng chỉ được huy động với lãi suất không vượt quá trần có lẽ chỉ là giải pháp mang tính tình thế, khó có thể duy trì được lâu dài, nói cách khác đây là giải pháp không mang tính thị trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, NHNN vẫn cần thiết phải sử dụng giải pháp mạnh tay này để đạt được những mục tiêu về kinh tế lớn hơn. Theo đó, đây sẽ là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến các ngân hàng tiếp tục gặp khó khăn trong việc thu hút tiền gửi VND. Thêm vào đó, chính sách tiền tệ thận trọng cũng khiến nguồn cung tiền ra thị trường hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến thanh khoản của các ngân hàng. Quy mô được phép tăng trưởng tín dụng hạn hẹp: Cũng theo định hướng của NHNN, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 nhiều khả năng chỉ ở mức 1517%, nếu không tính năm 2011 thì đây là mức thấp nhất kể từ năm 2003. Thực tế hiện nay, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ở mức rất thấp, (tính chung 11 tháng chỉ khoảng trên 10%) nên quy mô tín dụng được phép tăng trong năm 2012 cho các ngân hàng được tính trên con số này sẽ khá hạn hẹp. Việc áp dụng linh hoạt mức tăng trưởng tín dụng đối với từng ngân hàng cụ thể được nhiều chuyên gia kinh tế ủng hộ, song NHNN vẫn chưa có phản hồi chính thức nào về đề xuất này. Theo đó, các ngân hàng vốn phát triển chủ yếu dựa vào mở rộng tín dụng nhanh sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng có thể giảm đáng kể. Ngoài ra, NHNN cũng đưa ra chính sách yêu cầu tất cả các tổ chức tín dụng phải dành 20% tổng dư nợ cho khu vực nông nghiệp và nông thôn, những ngân hàng không có lợi thế trong lĩnh vực này sẽ phải chuyển số vốn tương đương cho Agribank để thực hiện giải ngân. Như vậy, quy định này mặc dù có tác dụng rất tích cực đến kinh tế nói chung và khu vực sản xuất nông nghiệp nói riêng song đây có thể là bất lợi đối với các ngân hàng có khả năng kiếm lợi nhuận cao hơn từ việc giải ngân khoản vốn trên vào các lĩnh vực khác. Cầu tín dụng giảm: Kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2012 được dự báo còn nhiều khó khăn khiến người dân thắt chặt chi tiêu, cầu tiêu dùng giảm gián tiếp ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, cầu tiêu dùng giảm cũng khiến doanh nghiệp tiếp tục phải thu hẹp sản xuất hoặc hoạt động cầm chừng. Như vậy, cầu tín dụng sản xuất và cầu tín dụng tiêu dùng năm 2012 dự kiến bị thu hẹp, tín dụng phát sinh mới khá hạn chế trong khi ngân hàng đang triệt để thu hồi nợ xấu, lợi nhuận từ mảng tín dụng của ngân hàng dự kiến sẽ không tăng trưởng mạnh. Bài toán nợ xấu chưa có lời giải: Nợ xấu và xử lý nợ xấu sẽ tiếp tục là vấn đề nóng trong năm 2012 khi tỷ lệ nợ xấu thực tế được cho là lớn hơn nhiều so với mức trên 3% tổng dư nợ mà NHNN công bố cuối tháng 8/2011. Bên cạnh đó, từ ngày 1/4/2012, NHNN sẽ chính thức công bố đều đặn 5/12 chỉ tiêu an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng gồm CAR, ROA, ROE, tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ dự nợ trong từng lĩnh vực. Theo đó, việc chính thức công khai tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống có thể có những ảnh hưởng nhất định đến niềm tin của người dân vào tính an toàn của hệ thống ngân hàng. Hiện tại, ngoài các khoản trích lập dự phòng có sẵn tại các ngân hàng, vấn đề xử lý nợ xấu vẫn chưa có lời giải cụ thể và sẽ là nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng hiện nay và tương lai của các ngân hàng trong những năm tới. Áp lực phải nâng cao năng lực tài chính: Chủ trương nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được khởi động từ Nghị định 141/2006/NĐ-CP khi Chính phủ đặt ra lộ trình tăng vốn pháp định của các ngân hàng lên mức 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Bên cạnh đó, lộ trình tăng vốn pháp định lên mức 5.000 tỷ đồng vào năm 2012 và mức 10.000 tỷ đồng vào năm 2015 cũng trong quá trình xem xét áp dụng. Cùng với quá trình này, NHNN cũng liên tục đưa ra những quy định buộc các ngân hàng phải nâng cao tiêu chuẩn an toàn hoạt động và khả năng thanh khoản như Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về trích lập dự phòng chung và dự phòng cụ thể, ban hành Thông tư 13 và Thông tư 19 năm 2010 đề ra các tiêu chuẩn về CAR, tỷ lệ cấp tín dụng,…Quá trình thực hiện những quy định trên đã bộc lộ nhiều yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam khi không phải tất cả các ngân hàng đều đáp ứng được yêu cầu của NHNN đúng hạn, một số văn bản đã phải sửa đổi hoặc lùi thời hạn để tạo điều kiện cho các ngân hàng chấp hành đúng quy định đã đặt ra. Áp lực tái cơ cấu: Nhiều bất cập của hệ thống ngân hàng được bộc lộ trong thời gian qua, thanh khoản yếu kém cùng với tình hình nợ xấu cao có nguy cơ gây rủi ro đến an toàn hệ thống khiến việc tái cơ cấu, cải tổ toàn bộ hệ thống tài chính, trong đó quan trọng nhất là hệ thống ngân hàng đã trở thành vấn đề cấp bách và khó có thể trì hoãn lâu hơn nữa. NHNN cũng thể hiện mong muốn tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thông qua nhiều chính sách quan trọng trong năm 2011 để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu. Áp lực sáp nhập ngân hàng dự kiến lên đến đỉnh điểm vào cuối năm nay và đầu năm 2012 khi nhiều ngân hàng gặp khó khăn trầm trọng về thanh khoản đang rất cần tiền để trả nợ. NHNN cũng đã có sẵn hành lang pháp lý dành cho các hoạt động phá sản, sáp nhập ngân hàng thông qua việc ban hành Thông tư 34/2011/TT-NHNN về trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng. Như vậy, sự yếu kém trong nội tại ngân hàng dẫn đến áp lực phải tái cơ cấu đang đặt ra thách thức cho các tổ chức này trước 2 lựa chọn hoặc phải tìm đối tác sáp nhập để nâng cao năng lực tài chính hoặc chấp nhận giải thể. Sau LienVietBank và Tiết kiệm Bưu điện (VPSC), sự kiện hợp nhất của 3 ngân hàng Ficombank, SCB và Tinnghiabank mới đây là thương vụ thứ 2 của ngành ngân hàng nhưng là thương vụ đầu tiên nằm trong lộ trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam do NHNN đặt ra. Sau hợp nhất, ngân hàng mới được thành lập sẽ có tổng tài sản ước trên 150.000 tỷ đồng với quy mô vốn điều lệ khoảng 10.600 tỷ đồng và trên 200 đơn vị chi nhánh, phòng giao dịch. Theo đó, quy mô vốn điều lệ của ngân hàng mới sẽ tương đương với Eximbank và lớn hơn so với 1 số ngân hàng thương mại cổ phần lớn trong nước như ACB, MB, Sacombank và Techcombank. Như vậy, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ngoài việc tạo ra áp lực phải sáp nhập hoặc giải thể đối với các ngân hàng yếu kém, quá trình này cũng tạo ra những ngân hàng mới sau sáp nhập và có thể sẽ trở thành thách thức cạnh tranh mới cho các ngân hàng lớn trong tương lai. Cạnh tranh từ khối ngoại: Mặc dù các quy định hạn chế đối với ngân hàng nước ngoài (vốn điều lệ, tổng tài sản, thời hạn hoạt động, hình thức, lĩnh vực hoạt động) đã được dỡ bỏ vào năm 2011 theo lộ trình sau khi Việt Nam gia nhập WTO, song do kinh tế thế giới còn gặp nhiều khó khăn nên mức độ phát triển của các ngân hàng ngoại năm 2011 vẫn hạn chế. Dự kiến, sự phát triển bùng nổ, cạnh tranh gay gắt về các mảng như ngân hàng bán lẻ, tài trợ thương mại, kinh doanh vốn, ngoại tệ của ngân hàng ngoại sẽ tiếp tục diễn ra từ năm 2012 trở đi. CƠ Phân HỘI chia lại miếng bánh thị phần cho ngân hàng lớn: Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế bao gồm tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và tái cơ cấu đầu tư công dự kiến sẽ diễn ra mạnh mẽ trong những năm tới. Quá trình này vừa là thách thức những cũng tạo ra không ít cơ hội cho việc thâu tóm tài sản giá rẻ, đa dạng hóa đầu tư của các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh. Thách thức bị mua bán sáp nhập của ngân hàng yếu kém cũng chính là cơ hội cho các ngân hàng lớn trong nước tham gia thâu tóm các ngân hàng khác để nâng cao tiềm lực tài chính và nhanh chóng mở rộng mạng lưới hoạt động, quy mô khách hàng. Cơ hội cho NH nhỏ phát triển đúng thế mạnh: Mặt khác, quá trình tái cơ cấu cũng có thể là yếu tố tích cực với các ngân hàng nhỏ nếu xét trên khía cạnh NHNN đưa họ trở về đúng thị trường và lĩnh vực kinh doanh mà họ có vốn lợi thế. Thị trường hiện nay ít có sự phân biệt rõ ràng giữa các ngân hàng yếu kém và ngân hàng nhỏ. Do đó, khi các ngân hàng nhỏ thực sự phát huy được thế mạnh trong đúng lĩnh vực kinh doanh của mình thay vì đầu tư dàn trải chạy đua phát triển những sản phẩm tương tự nhau như trên thị trường, thì đây chính là cơ hội để khẳng định tên tuổi và trụ vững trong cuộc chiến tái cơ cấu toàn hệ thống của các ngân hàng này. NGÀNH THỦY SẢN Cơ hội của ngành nuôi trồng thủy sản huyện. Một là, Việt Nam ngày càng tham gia hội nhập sâu rộng vào các nên kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là sân chơi WTO thì cơ hội cho các sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản sẽ càng được mở rộng. Gia nhập WTO, thuỷ sản huyện sẽ có cả thị trường thế giới khổng lồ để đẩy mạnh xuất khẩu nên chắc chắn sẽ mang lại cơ hội để mở rộng thị trường, để thuỷ sản huyện thâm nhập vào thị trường thế giới, có điều kiện thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ công nghệ sản xuất tiên tiến, đẩy mạnh công nghiệp hoá và tăng cường năng lực của ngành kinh tế thuỷ sản vốn dĩ còn non yếu. Tham gia WTO, Việt Nam nói chung và huyện Quỳnh Lưu nói riêng sẽ là một đối tác bình đẳng trên thị trường thế giới, thế giới sẽ thay đổi cách nhìn với Việt Nam và hàng hoá Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp của huyện Quỳnh Lưu nói riêng sẽ có điều kiện được hưởng mức thuế suất ưu đãi khi xuất khẩu các sản phẩm thuỷ sản vào các nước là thành viên WTO, đặc biệt là các nước mà hàng thuỷ sản có khả năng thâm nhập và tiêu thụ với khối lượng lớn như: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc… Đây là cơ hội lớn để doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của huyện có thể tăng kim ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường và đạt hiệu quả kinh doanh cao. Hai là, khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản của huyện có cơ hội tiếp thu sự tiến bộ của khoa học công nghệ trên thế giới vào hoạt động nuôi trồng, chế biến và kinh doanh của mình. Những bước tiến nhảy vọt trong khoa học công nghệ sản xuất, chế biến các mặt hàng thuỷ sản đã tạo cho các doanh nghiệp của ngành này có thể nhanh chóng nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã bao bì, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản của huyện có thể vượt qua những rào cản về kỹ thuật về vệ sinh an toàn thực phẩm, về môi trường của các nước nhập khẩu thuỷ sản lớn như Mỹ, EU… để thâm nhập, giữ vững và mở rộng thị phần, đạt giá trị xuất khẩu cao trên thị trường các nước này. Trong môi trường WTO, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia nuôi trồng, khai thác, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản có thêm nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi để học hỏi kinh nghiệm phát triển sản xuất, kinh nghiệm để quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm về việc đa dạng hoá sản phẩm, kinh nghiệm tiếp cận và mở rộng thị trường. Từ những kinh nghiệm học hỏi được, họ có thể vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện của huyện để nâng cao hiệu quả nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản trên phạm vi toàn ngành. Mặt khác, thông qua hoạt động hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới, người lao động tại các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản huyện có điều kiện để tiếp nhận khoa học công nghệ tiên tiến phục vụ ngành thuỷ sản, nâng cao năng suất lao động, tạo ra các sản phẩm thuỷ sản có sức cạnh tranh và khả năng tiêu thụ lớn trên thị trường toàn cầu. Ba là, khi gia nhập WTO thị trường vốn cũng phát triển nhanh chóng, cụ thể ngoài các cách huy động truyền thống như vay vượn gia đình, người quen, hàng xóm láng giềng… hiện đã có rất nhiều Ngân hàng thương mại ra đời với cơ chế cho vay rộng mở hơn như tại Quỳnh Lưu ngoài Ngân hàng nhà nước đã xuất hiện các Ngân hàng thương mại như Vietcombank, VPBank, Techcombank… Ngoài ra còn có các kênh huy động vốn khác như cổ phiếu... điều này làm thay đổi rất lớn trong vấn đề huy động vốn cho nuôi trồng thuỷ sản của huyện. Đây là cơ hội lớn cho việc khai thác nguồn vốn đầu tư mở rộng nuôi trồng, sản xuất, chế biên và kinh doanh thuỷ sản của huyện. Bốn là, khi gia nhập WTO, thị trường hàng hoá thuỷ sản của huyện được mở rộng, các doanh nghiệp có điều kiện khai thác tiềm năng thị trường to lớn để thâm nhập với thuế suất hợp lý, giá cả dịch vụ đầu vào rẻ hơn. Song, điều ấy cũng đồng nghĩa với khả năng cạnh tranh ngày càng khốc liệt, với sự siết chặt điều kiện xuất khẩu thuỷ sản sang nước ngoài. Do vậy chỉ trong thời gian ngắn có rất nhiều cơ sở chế biến thuỷ sản xuất khẩu ra đời. Nhiều doanh nghiệp ý thức tốt vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nên đã đầu tư xây mới hoặc tiếp tục nâng cấp, cải tạo hoàn thiện theo hướng mở rộng, đổi mới trang thiết bị hiện đại, đáp ứng các tiêu chuẩn, yêu cầu kỹ thuật, đa dạng hoá sản phẩm. Bên cạnh những cơ hội có được thì ngành nuôi trồng thủy sản của huyện gặp phải những thách thức sau: Thách thức của ngành nuôi tròng thủy sản huyện Thứ nhất, gia nhập WTO cạnh tranh về thủy sản trên thị trường ngày càng gay gắt, trong khi khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản của ta còn thấp, khả năng tự động hóa trong sản xuất chưa cao, dẫn đến giá thành một số loại sản phẩm cao hơn so với mặt hàng cùng loại của các doanh nghiệp trong nước do đó sản phẩm thuỷ sản của huyện phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong nước về chủng loại, giá cả và chất lượng sản phẩm. Đặc biệt ngành thuỷ sản mất dần lợi thế về nhiều mặt, trong đó đáng kể nhất là giá cả ngay tại “sân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan