Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ ch...

Tài liệu Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

.PDF
113
21
107

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM..................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm tình hình tội phạm ..................................................................................... 7 1.2. Khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm ................................................. 9 1.3. Đặc điểm của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm .............................................. 11 1.4. Các chủ thể phòng ngừa tội phạm trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm ... 14 1.5. Các nguyên tắc của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm ..................................... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, TP. HỒ CHÍ MINH ................... 27 2.1. Khái quát tình hình quận Bình Tân có liên quan đến cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm............................................................................................................................... 27 2.2. Thực trạng nhận thức về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................. 32 2.3. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của các chủ thể trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ............................. 34 CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 55 3.1. Dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh 55 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................... 59 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự CAND : Công an nhân dân CQBVPL : Cơ quan bảo vệ pháp luật CQCA : Cơ quan Công an CQĐT : Cơ quan điều tra HĐND : Hội đồng nhân dân PNTHTP : Phòng ngừa tình hình tội phạm TAND : Tòa án nhân dân THTP : Tình hình tội phạm UBMTTQ : Ủy ban mặt trận tổ quốc UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013-2017 Bảng 2.2.So sánh tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân và TP. Hồ Chí Minh từ năm 2013 – 2017 Bảng 2.3.Số vụ án và số bị cáo đã xét xử trên địa bàn quận Bình Tân từ 2013-2017 Bảng 2.4. Cơ số tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013-2017 Bảng 2.5. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm của 10 phường trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013 đến năm 2017 tính theo dân số Bảng 2.6. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm của 10 phường trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013 đến năm 2017 tính theo diện tích Bảng 2.7. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm của 10 phường trên địa bàn bàn quận Bình Tân được xác định trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích từ năm 2013 – 2017 Bảng 2.8.Tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013 – 2017 Bảng 2.9.Cơ cấu theo giới tính và độ tuổi của các bị cáo trên địa bàn quận Bình tân từ năm 2013-2017 Bảng 2.10. Cơ cấu theo nghề nghiệp của các bị cáo trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013-2017 Bảng 2.11.Cơ cấu theo tiền án, tiền sự của các bị cáo trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013 – 2017 Bảng 2.12.Cơ cấu theo nơi cư trú của các bị cáo trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013-2017 Bảng 2.13.Cơ cấu theo trình độ học vấn của bị cáo địa bàn quận Bình Tân năm 2013-2017 Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ % các loại phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013-2017 Biểu đồ 2.2.Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân và TP. Hồ Chí Minh từ năm 2013 – 2017 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bình Tân là quận vùng ven của Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ, được chia tách từ huyện Bình Chánh cũ, với diện tích tự nhiên 5.188,67 ha, gồm 3 xã: Tân Tạo, Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông và Thị trấn An Lạc. Lúc mới thành lập quận có 10 phường (An Lạc, An Lạc A, Tân Tạo, Tân Tạo A, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B, Bình Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B), 121 khu phố với 50.823 hộ dân. Địa giới hành chính quận Bình Tân: phía Đông giáp các quận 6, 8, Tân Phú; phía Tây giáp huyện Bình Chánh; phía Nam giáp quận 8; phía Bắc giáp quận 12 và huyện Hóc Môn. Khi mới thành lập, mặc dù có nhiều khó khăn như: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội còn nhiều yếu kém, phát triển chưa đồng bộ, kinh tế phát triển chưa vững chắc, sức cạnh tranh thấp, trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp. Nhưng với những nổ lực, quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quận Bình Tân, sau hơn 10 năm thành lập, quận Bình Tân đã có bước phát triển quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh.“Trong những năm gần đây, dưới tác động của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với lợi thế về diện tích quận Bình Tân đã thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trong và nước ngoài. Tại đây nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập, kéo theo các loại hình dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí... không chỉ thu hút một lực lượng lớn lao động từ các tỉnh phía Bắc, miền Trung và miền Tây Nam Bộ về đây tìm kiếm việc làm cùng với lượng khách đến thăm thân nhân, học tập, du lịch nên đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo về kinh tế, văn hóa xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, trong đó có nhiều thay đổi tích cực”. Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm, lợi thế đem lại cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự, đặc biệt là tình hình tội phạm có chiều hướng ngày càng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Công an quận Bình Tân từ năm 2013 đến năm 2017 cho thấy tình hình tội phạm có diễn biến phức tạp với tính 1 chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao.Tình hình đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân. Thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền của quận Bình Tân đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm, góp phần vào hiệu quả trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm. Tuy nhiên, mức độ nhận thức về tầm quan trọng của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm của các cơ quan chức năng trên địa bàn quận vẫn còn những hạn chế nhất định, các chủ thể trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình còn nhiều thiếu sót, bất cập. Mặc dù, hệ thống pháp luật đang ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động phòng ngừa của các chủ thể. Song cơ chế phối hợp hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm giữa các chủ thể vẫn chưa được cụ thể hoá, thể hiện rõ nhất là ở sự phân công phân cấp chưa rõ ràng và thiếu cơ chế phối hợp nhịp nhàng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm, nhằm sắp xếp về mặt tổ chức các chủ thể, với sự phân công trách nhiệm và minh bạch các mối quan hệ phối kết hợp giữa các chủ thể, sẽ làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật. Từ đó, cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm được thực hiện một cách có hiệu lực, hiệu quả cao, hoạt động phòng ngừa được bảo đảm thực hiện đúng pháp luật. Tình hình đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nghiên cứu làm rõ hơn nữa về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và hạn chế tối đa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó tác giả lựa chọn đề tài: “Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay đã có khá nhiều công trình khoa học có liên quan nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như sau: 2 - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2003. - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2013. - “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”, của GS. TS Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001. - “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của PGS. TS Phạm Văn Tỉnh, Nhà xuất bản Tư Pháp, năm 2007. - “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam”, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2013. - “Tội phạm ở Việt Nam thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”,Đề tài KX.04.14, của các tác giả Lê Tự Phả và Lê Thế Tiệm chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 1994. - “Phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới”,Đề tài khoa học cấp Nhà nước (giai đoạn 1996 – 2000) KHXH. 07.08 của GS. TS Nguyễn Phùng Hồng, GS. TS Hồ Trọng Ngũ và tập thể các tác giả. - “Phòng ngừa một số tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, sách chuyên khảo của TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2016. - “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh” - Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam của tác giả Lê Huỳnh Như, năm 2015. - “Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội của tác giả Lê Công Nguyên, năm 2014. - “Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội của tác giả Lê Phong Toàn, năm 2017. Đánh giá chung: 3 Có thể thấy, thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên quan ít nhiều đến phòng ngừa tình hình tội phạm. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm hay đấu tranh phòng, chống tội phạm trên phạm vi cả nước hoặc ở một số địa phương nào đó. Cũng có đề tài nghiên cứu đến phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn các Quận của Thành phố Hồ Chí Minh nhưng chủ yếu nghiên cứu về các giải pháp phòng ngừa. Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm, thực trạng của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đề xuất những giải giải nhằm tăng cường cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. - Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõnhững vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. - Thực trạng cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. - Làm rõ những hạn chế, nguyên nhân của các mặt hạn chế trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. - Làm rõ những vấn đề đặt ra trong tăng cường cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu 4 Đối tượng nghiên cứu của Luận văn làcơ chế phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi nghiên cứu + Luận văn nghiên cứu về THTP trong phạm vi tội phạm học. + Về không gian: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. + Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận:Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường lối chính sách của Đảng về công tác phòng ngừa tội phạm. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Chương 1: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, nghiên cứu và trích dẫn tài liệu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Chương 2: Sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, phỏng vấn và tham khảo ý kiến chuyên gia để làm rõ thực trạng cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm; qua đó đóng góp thêm tri thức của Tội phạm học. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là một trong những nguồn tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm nói riêng. 5 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Chương 2: Thực trạng cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3:Tăng cường cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM 1.1. Khái niệm tình hình tội phạm “ Trong Tội phạm học nói chung và Tội phạm học Việt Nam nói riêng, khái niệm THTP là khái niệm cơ bản đầu tiên của Tội phạm học. Đó là một thuật ngữ khoa học, nhưng đồng thời cũng là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, ngôn ngữ đời thường . ” Theo quan điểm của GS. TS Đỗ Ngọc Quang thì khái niệm “tình hình tội phạm” là khái niệm được ghép từ hai danh từ “tình hình” và “tội phạm”. “Tình hình” theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa: “Trạng thái và xu thế phát triển của sự vật”. “Tội phạm” là các hành vi thoả mãn các dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm theo quy định của BLHS. Như vậy có thể hiểu “tình hình tội phạm” được hiểu là số liệu về tội phạm được điều tra, truy tố, xét xử. Theo giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội thì “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực trái pháp luật hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình của của lịch sử; được thể hiện ở một tổng hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định" [35, tr.9l]. GS. TS Võ Khánh Vinh đã định nghĩa về THTP như sau: “Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định” [44, tr.60]. Vậy, có thể hiểu tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, mang tính lịch sử và pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được thể hiện bằng tổng hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định. Qua khái niệm trên có thể nhận diện một số đặc điểm cơ bản cùa tình hình tội phạm như sau: - Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, điều này nói lên bản chất của “ tình hình xã hội của tình hình tội phạm. Sở dĩ nói tình hình tội phạm là một hiện 7 tượng xã hội bởi vì nó tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc xã hội, có nội dung xãhội, có nguyên nhân xã hội và số phận của nó cũng mang tính chất xã hội. Mặt khác, tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội vì với tư cách là một biểu hiện, là mặt trái của xã hội, có tính độc lập tương đối. Biểu hiện đó không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ khác trong xã hội, mà chính nó cũng là một loại quan hệ tồn tại trong xã hội [44, tr.53]. Và như thế, tình hình không thể tồn tại ngoài xã hội mà nó có mối liên hệ chặt chẽ với các hiện tượng xã hội khác. ” - Tình hình tội phạm là một hiện tượng pháp lý - hình sự. Tội phạm không “ những chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà còn là hành vi trái pháp luật hình sự, tức là bị các bộ luật hình sự cấm bằng việc đe dọa áp dụng hình phạt. Việc cân nhắc đặc điểm pháp luật của tình hình tội phạm trong việc đánh giá thực trạng (mức độ), cơ cấu và động thái của nó là rất quan trọng, vì rằng những thay đổi của pháp luật hình sự theo hướng tội phạm hóa hoặc phi tội phạm hóa những hành vi cụ thể có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả các chỉ số của nó”[44,tr.54]. - Tình hình tội phạm là một hiện tượng thay đổi về mặt lịch sử. Theo chủ “ nghĩa Mác-Lênin cho rằng mọi hiện tượng trong xã hội, trong tự nhiên không phải ở trạng thái tĩnh, tồn tại bất biến mà nó luôn luôn vận động, thay đổi theo thời gian, không gian nhất định. Tình hình tội phạm sẽ thay đổi khi xã hội có sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội, sự thay đổi về hình thái kinh tế và cơ cấu kinh tế.Khi xã hội loài người có sự xuất hiện của Nhà nước thì lúc đó tội phạm mới xuất hiện và khi một hình thái kinh tế xã hội này được thay đổi bởi một hình thái kinh tế -xã hội mới thì một kiểu Nhà nước mới xuất hiện, lúc này tình hình tội phạm cũng sẽ có sự thay đổi. Tính thay đổi về mặt lịch sử của tình hình tội phạm cho ta thấy hiện tượng đó được xuất hiện trong lịch sử như thế nào, nó trải qua các giai đoạn phát triển nào, hiện nay tồn tại ra sao và cả sự phát triển, tồn tại của chúng trong tương lai” [44, tr.54]. - Tình hình tội phạm là một hiện tượng mang tính chất giai cấp. Tính giai cấp “ của tình hình tội phạm thể hiện ở nguồn gốc xuất hiện, ở nguyên nhân phát sinh, ở nội dung của các tội phạm cụ thể - các thực thể, tế bào cấu thành nên hiện tượng đó và cả số phận của nó trong tương lai”[44, tr. 54]. 8 “ Tội phạm ra đời khi xã hội có sự phân chia giai cấp đối kháng, với sự ra đời của nhà nước. Mỗi giai cấp thống trị khác nhau đều quy định những nhóm hành vi phạm tội khác nhau và các biện pháp trừng trị các hành vi đó cũng khác nhau, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp và sự thống trị của mình, và do tình hình tội phạm là tổng thể biện chứng các tội phạm đã thực hiện trong thực tiễn, cho nên vẫn giữ nguyên tính giai cấp. Bên cạnh đó, tính giai cấp của tình hình tội phạm còn thể hiện ở việc nó xâm hại đến những quan hệ xã hội mà giai cấp thống trị bảo vệ, ở các nguyên nhân gốc rễ phát sinh mà theo V.I.Lênin đó là chế độ người bóc lột người, sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp. ” 1.2. Khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm Khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong phòng ngừa tình hình tội phạm. Nhưng hiện nay, khái niệm này chưa có cách hiểu thống nhất và chưa được tập trung nghiên cứu, phổ biến rộng rãi. Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm của các chủ thể phòng ngừa để xem xét khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Tìm hiểu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm là sự tiếp nối tất yếu từ việc nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Nghiên cứu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm cần tiếp cận các khái niệm về “cơ chế” và “phòng ngừa tình hình tội phạm”. Tức là cần tiếp cận từ các góc độ khoa học của ngôn ngữ, triết học, và pháp lý. Theo từ điển Nga – Việt, cơ chế (MEXAHUZM) là “máy móc, bộ máy, cơ chế, cơ cấu”. Theo Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên) thì: “Cơ chế là cách thức, sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [46, tr. 463]. Theo GS.TS Phạm Ngọc Quang: “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một lôgic nhất định nhờ vậy mục tiêu được thực hiện”. Dưới góc độ khoa học pháp lý, “cơ chế” lại được hiểu là: “tổng thể các bảo đảm về vật chất, chính trị, tư tưởng, pháp lý, tổ chức, nghiệp vụ cho việc thực hiện một quyền nào đó hoặc một việc nào đó”... Theo quan điểm của tác giả cho rằng thuật ngữ “cơ chế” gồmhai nội dung là phương thức tổ chức của một chỉnh thể bao gồm nhiều bộ phận khác nhau hợp thành có mối liên hệ mật thiết với nhau và phương thức vận hành hay hoạt động của chỉnh 9 thể đó theo những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất định. Về định nghĩa phòng ngừa tình hình tội phạm cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Từ điển Luật học định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành”. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa lại đưa ra khái niệm này dưới góc độ tội phạm học cũng tương đối hợp lý như sau: “Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này…” Theo GS. TS Võ Khánh Vinh thì:“Việc phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm”. Thống nhất về mặt nhận thức và thực tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội phạm có thể hiểu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm là phương thức tổ chức và phương thức vận hành của hệ thống các cơ quan, tổ chức và công dân có mối liên hệ mật thiết với nhau, hoạt động theo những nguyên tắc, qui định của pháp luật và những phương tiện pháp lý khác; để thực hiện các biện pháp hướng đến mục đích khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nhằm ngăn chặn, hạn chế và từng bước loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm Nghiên cứu Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm có những ý nghĩa cơ bản sau đây: - Việc nghiên cứu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm làcơ sở để xây dựng, tổ chức và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm một cách khoa học và hiệu quả. Chỉ trên cơ sở phân tích làm rõ cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm mới xây dựng được hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm một cách toàn diện. 10 - Nghiên cứu làm rõ cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm là cơ sở cho việc hoạch định các chính sách phòng ngừa tình hình tội phạm một cách phù hợp.Nâng cao hiệu quả phòng ngừa nhằm hạn chế và loại trừ dần dần những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm. - Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm tốt sẽ hạn chế được tội phạm, điều đó cũng đồng nghĩa với việc tiết kiệm rất lớn về kinh tế cũng như không gây ra các hậu quả xấu cho xã hội. Như vậy, trên cơ sở nghiên cứucơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm thì các cơ quan chức năng sẽ có cơ sở hoạch định các chính sách phòng ngừa của địa phương một cách phù hợp nhằm giảm thiểu các tiêu cực xã hội là nguyên nhân làm phát sinh tình hình tội phạm. 1.3. Đặc điểm của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm - Cơ chế phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm được pháp luật ghi nhận và tính chất phối hợp trong quan hệ đó được xác định là trách nhiệm của các bên. Các hình thức và các biện pháp của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm phải do luật định, tức là các hình thức và các biện pháp đó phải được ghi nhận bằng các văn bản pháp luật của nhà nước - từ Hiến pháp (luật cơ bản của nhà nước) cho đến các văn bản luật và các văn bản dưới luật. Các loại văn bản khác nhau đó điều chỉnh hoạt động của một hệ thống các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhân dân. Đó là hệ thống quy định, quy phạm pháp luật chứa đựng nguyên lý tổ chức vận hành của toàn bộ cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Hệ thống các quy định, quy phạm pháp luật này điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Yếu tố này có tính chất “là môi trường pháp lý” để ràng buộc các chủ thể phòng ngừa hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo những quy định chung. Trên cơ sở của hệ thống quy phạm pháp luật, các chủ thể khi tham gia vào cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm có thể nhận thức được giới hạn nội dung và phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Mặt khác, hệ thống pháp luật cũng là cơ sở xác định năng lực của chủ thể khi tham gia vào cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Ở Việt Nam, cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm được thể hiện trong 11 nhiều quy định của Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Để đảm bảo thắng lợi cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cần nâng cao trách nhiệm, vai trò chủ động, sáng tạo của các ngành, các cấp, các tổ chức và mỗi cá nhân trong xã hội vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001 trước đây đã quy định: “Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật” (Điều 12). Đến Hiến pháp năm 2013 các quy định này tương ứng được tiếp tục ghi nhận các điều 2, 8, 46… Điều này thể hiện quan điểm phòng ngừa tội phạm không phải là nhiệm vụ của riêng của bất cứ cơ quan mà phải có sự tham gia của các lực lượng xã hội (tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi côngdân). Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam đã xác định vai trò, vị trí, cơ chế phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tội phạm và đạt được những thành tựu nhất định trong xây dựng cơ chế này. Nhận thức về sự cần thiết và hiệu quả từ cơ chế phối hợp phòng ngừa tình hình tội phạm được khẳng định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta. Tính chất phối hợp trong quan hệ đó cũng được quy định là trách nhiệm thuộc về cả phía cơ quan Nhà nước lẫn các tổ chức xã hội và công dân. Khoản 1, Điều 4, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 xác định trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm như sau: “Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng”. Sự hướng dẫn, giúp đỡ của cơ quan chức năng Nhà nước đối với tổ chức xã hội và nhân dân chính là trách nhiệm phối hợp từ phía các cơ quan Nhà nước. Cơ quan Nhà nước phải bảo đảm cho quyền tham gia, phối hợp của các tổ chức và công dân trong phòng ngừa tội phạm. “Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết”(khoản 2 Điều 25 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Ngược lại, các tổ chức và công dân có trách nhiệm chấp hành sự hướng dẫn, phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Nhà nước thực 12 hiện tốt chức năng phòng ngừa tội phạm: “Các tổ chức, công dân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ” (khoản 3, Điều 25, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). -Trong cơ chế phối hợp, vị trí, vai trò của các chủ thể đã được xác định rõ ràng. Khoản 1, Điều 4, Bộ luật hình sự Việt Nam đã quy định các cơ quan chức năng của Nhà nước như Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra là các cơ quan chuyên trách, giữ vị trí trung tâm trong cơ chế phòng ngừa tội phạm. Các chức năng, nhiệm vụ mà điều luật yêu cầu những cơ quan này phải thi hành đầy đủ chính là chức năng phòng ngừa và phát hiện tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đã được quy định trong các văn bản như: Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Luật Công an nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Thanh tra, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự...Vị trí trung tâm, điều hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm của các cơ quan chuyên trách này còn được thể hiện qua nhiệm vụ “hướng dẫn, giúp đỡ” các lực lượng xã hội khác (các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân) trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Bên cạnh Nhà nước, các tổ chức, cá nhân được xác định có vai trò phối hợp, hỗ trợ, tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Khoản 2 và khoản 3, Điều 4 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định trách nhiệm của các lực lượng này như sau: + Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình. + Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tộiphạm. Vai trò tham gia của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 khẳng định lại một cách cụ thể hơn: “Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức” (Khoản 1, Điều 13 25, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Sự phân định rõ vai trò, vị trí giữa các chủ thể là cơ sở của cơ chế phối hợp. Xuất phát từ vị trí trong hệ thống bộ máy Nhà nước và các cơ quan, tổ chức xã hội và nhân dân trách nhiệm phối hợp của các chủ thể mới được xác định cụ thể. Sự phối hợp hoạt động của các chủ thể phải tuân thủ sự điều hành của Nhà nước. Phạm vi, khuôn khổ, phương thức hoạt động của các chủ thể được phân định rõ ràng nhằm bảo đảm cho sự phối hợp nhịp nhàng. Trên cơ sở xác định vai trò, vị trí của Nhà nước, các tổ chức xã hội, công dân trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm, Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nước ta quy định rõ về phạm vi hoạt động của các chủ thể này. Các quy định ở trên xác định cơ quan chuyên trách của Nhà nước “thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình”trong phòng ngừa tình hình tội phạm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Việc phân định rõ phạm vi hoạt động là hết sức cần thiết để tránh sự chồng chéo, xâm lấn thẩm quyền của nhau giữa các chủ thể của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. 1.4. Các chủ thể phòng ngừa tội phạm trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm Theo Từ điển Triết học thì: Chủ thể là con người (cá nhân hay tổ chức…) tiến hành các hoạt động nhận thức cải tạo thế giới và có thể chia thành nhiều loại chủ thể khác nhau dựa trên đặc điểm tính chất của các hoạt động. Vì vậy chủ thể của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm cũng là các cá nhân hoặc các tổ chức có trách nhiệm và quyền hạn tham gia hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm. Phòng ngừa tình hình tội phạm là một hoạt động xã hội, đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều lực lượng, các tổ chức cũng như công dân. Tuy nhiên, mỗi lực lượng, tổ chức mỗi công dân khi tham gia vào cơ chế này lại có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Do đó, cần phải xác định rõ vai trò của từng chủ thể tham gia trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm chủ thể lãnh đạo quá trình phòng ngừa và chủ thể thực hiện quá trình phòng ngừa. Với cách hiểu này chủ thể của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm: 1.4.1. Chủ thể lãnh đạo của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm - Đảng Cộng sản Việt Nam: 14 Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam trong đó có hoạt động phòng ngừa tội phạm. Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp 2013 có quy định:"Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…". Nhà nước và xã hội ta đã thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn bộ xã hội. Phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động vừa mang tính xã hội, vừa mang tính Nhà nước, vì vậy rất cần có sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm nhưng ở vị trí là chủ thể lãnh đạo. Với vai trò là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm qua việc định hướng trong từng giai đoạn, định hướng hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan đấu tranh phòng chống tội phạm, thông qua các nghị quyết của Đảng. Đảng chỉ đạo tiến hành một cách rộng rãi những biện pháp kinh tế, tư tưởng, văn hóa và cải tiến, hoàn thiện hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật tiến hành đấu tranh trực tiếp với tội phạm. Để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm cần phải có sự phối hợp thường xuyên hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhiệm vụ của việc phối hợp này là đề ra những phương hướng cơ bản trong hoạt động của các cơ quan tổ chức để đấu tranh, phòng chống tội phạm có hiệu quả. Sự phối hợp này chỉ có thể thực hiện tốt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm còn thể hiện ở sự tiên phong, giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm của các đảng viên. 1.4.2. Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm Quá trình phòng ngừa tội phạm bao gồm từ khâu ban hành các quy định của pháp luật đến khâu triển khai thực hiện các quy định của pháp luật. Do đó, chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm các chủ thể ban hành pháp luật phòng ngừa 15 tình hình tội phạm và chủ thể triển khai thi hành các quy định pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm. Chủ thể ban hành pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm *Quốc hội Theo Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội là chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm có vai trò trong việc ban hành các đạo luật, nghị quyết, văn bản pháp lý về phòng ngừa tình hình tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật tạo cơ sở cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm. Ngoài ra Quốc hội còn có vai trò trong việc kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của cán bộ nhằm phòng ngừa các hành vi phạm tội và tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung; được cụ thể hóa ở một số nội dung sau: - Quốc hội làm luật, hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, góp phần ngăn ngừa tình hình tội phạm. - Kiểm tra giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước để phòng ngừa tiêu cực và phạm tội. - Tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước. - Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật có quyền yêu cầu các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thực hiện những biện pháp cần thiết để chấm dứt hành vi trái pháp luật đó. * Hội đồng nhân dân Theo Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003 quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. Hội đồng nhân dân thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước, đảm bảo việc tuân thủ các đạo luật, việc bảo vệ trật tự nhà nước và xã hội, các quyền lực và lợi ích hợp pháp của công dân [44, tr.171]. Vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm của Hội đồng nhân dân được cụ thể hóa ở một số nội dung: 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan