ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
BÀI TẬP CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
Đề tài: CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: Nhóm DMF_A2_CD_KII_FTU
Nguyễn Bình Minh
Nguyễn Hoàng
Vũ Thu Phương
Nguyễn Thị Thu Trang
Nguyễn Phương Thảo
Nguyễn Thuỳ Linh
Võ Thị Bảo Ngọc
Nguyễn Ngọc Mai
Nguyễn Thị Thanh Tú
Trần Quang Huy
Hoàng Thành Đạt
A.Phần mở đầu
I/ Đặt vấn đề
Đến thời điểm này, quá trình hội nhập kinh tế thé giới của Việt
Nam diễn ra một cách mạnh mẽ. Bên cạnh nỗi lo cạnh tranh của
các doanh nghiệp, nông dân nước ta cũng đang đứng trước một
thách thức không nhỏ. Nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng
nông sản hàng hóa là biện pháp sống còn để hội nhập, trong đó,
không thể thiếu vai trò của công nghệ. Làm thế nào để đưa sản
phẩm công nghệ đến tay nông dân là một thực tế gắt gao đang đặt
ra.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, trong vòng 5 năm gần đây,
công nghệ đã đóng góp khoảng 30% trong giá trị tăng trưởng của
nông nghiệp ở nước ta. Trên cơ sở xây dựng mối liên kết giữa các
nhà khoa học và nông dân, các cơ quan nghiên cứu đã nắm bắt
được những đòi hỏi của thực tế sản xuất và nhu cầu của xã hội, nên
đã có những định hướng nghiên cứu phù hợp và thu được những
thành tựu nổi bật.
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã giao cho Bộ Khoa học – Công
nghệ xây dựng chương trình chuyển giao ứng dụng KH – CN vào
phục vụ nông nghiệp nông thôn ( giai đoạn 2004 – 2010 ). Mục
tiêu của chương trình này là chuyển giao các mô hình đã được
khẳng định như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; giống mới,
công nghệ mới; cung cấp thông tin KH – CN cho nông dân...
Thế nhưng, những công nghệ đã được áp dụng hiện nay vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và nhu cầu... Ở nước ta, thành quả KH –
CN không ít, thậm chí có thể nói là phải “trùm mền” ở các viện,
trường nhưng nông dân vẫn đói công nghệ là một nghịch lý khó
chấp nhận.
Tuy vậy, nghịch lý ấy vẫn đang tiếp tục diễn ra. Điều này khiến
các nhà khoa học nóng ruột và đi tìm nguyên nhân. Có 5 yếu tố
ảnh hưởng đến “đường đi” của công nghệ xuống đồng ruộng, đó là
cơ sở hạ tầng, thị trường, hình thức khuyến nông, trình độ nắm bắt
của nông dân và phương pháp khuyến nông chưa phù hợp. Trong
đó, kiến thức nhà nông và phương pháp khuyến nông đóng vai trò
quan trọng. Nông dân lúc nào cũng ngại tình trạng nhiều người
biết, nhiều người làm; bộ máy khuyến nông thì đang bị “ hành
chính hóa”, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật; chính quyền địa
phương thì xem nhẹ công tác này, trong khi nhà khoa học không
thể đủ sức để đến tận cơ sở...
Chưa lúc nào, yêu cầu chuyển giao công nghệ cho nông dân lại
đặt ra hết sức gay gắt như lúc này. Muốn hay không, việc hội nhập
kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng sẽ đem lại không ít bất lợi,
nếu sản xuất nông nghiệp thiếu bước chuyển mình thật sự. Nông
dân hiện nay rất cần kỹ thuật cao; cần được các nhà khoa học, quản
lý và nhà nước chăm sóc tốt hơn nữa. Tuy nhiên, điều này không
thể nói suông, mà phải cụ thể hóa bằng chính sách.
Vì thế công nghệ muốn nhanh chóng được nông dân chấp nhận
và áp dụng rộng rãi thì phải thực hiện sự vượt trội cả về khía cạnh
kỹ thuật lẫn hiệu quả kinh tế, nghĩa là giá thành phải hạ và chất
lượng phải cao. Thế nhưng, chuyển giao bằng cách nào và làm thế
nào để nông dân đón nhận công nghệ không phải là chuyện đơn
giản.
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Khi chuyển giao cho nông dân phải có phương thức phù hợp, có
mục tiêu sản xuất rõ ràng, phải phù hợp với trình độ và khả năng
của nông dân. Phải chuyển giao công nghệ bằng nhiều con đường
khác nhau, nhưng trên mô hình và máy móc, thiết bị cụ thể là
chính. Trong tất cả các phương pháp chuyển giao KH – CN thì
việc xây dựng các mô hình trình diễn có vai trò hết sức quan trọng.
“Trăm nghe không bằng một thấy”. Thông qua hiệu quả các mô
hình trình diễn, người nông dân sẽ dễ dàng tiếp thu và tin tưởng
vào các tiến bộ KH – CN được giới thiệu
Vì thế, muốn chuyển giao công nghệ thành công và bền vững
phải có mạng lưới cán bộ khoa học cấp cơ sở có trình độ trung cấp
trở lên tiếp nhận trước rồi hướng dẫn cụ thể cho nông dân.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài hướng dẫn chuyển
giao công nghệ trong nông nghiệp, mong muốn khắc phục được
phần nào thực trạng nền kinh tế Việt Nam và hợn thế là mong
muốn phát triển nền nông nghiệp Việt Nam vươn tới một tầm cao
mới.
II/ Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam
Nông nghiệp Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn của sự
phát triển kinh tế như: qui mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu,
năng suất, độ đồng đều, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng
hợp tác lien kết của nông dân Việt Nam còn rất yếu. Dịch vụ và cơ
sở hạ tầng hỗ trợ cho việc phát triênt nông nghiệp nông thôn không
theo kịp với đà tăng trưởng kinh tế của toàn xã hội. Việc cải cách
hành chính chuyển đổi cơ cấu thể chế còn chậm, môi trường pháp
lý đầu tư kinh doanh còn nhiều bất cập, thị trường đất, lao động,
vốn, công nghệ chưa vận hành một cách thuận lợi.
Trong khi đó trên thế giới, quá trình phát triển nông nghiệp công
nghệ cao đang diễn ra mạnh mẽ trên diẹn rộng ở những nước có
khoa học công nghệ phát triển. Đó là sự kết hợp ứng dụng các
công nghệ trộng điểm của thời đại như công nghệ thông tin, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ nano để tạo ra
nông sản có năng suất, chất lượng cao, giá thành hạ. Dựa vào công
nghệ gen, các nước tiên tiến đã tạo ra được các giống cây trồng có
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
năng suất cao, công nghệ chọn lọc lai tạo giốn, vật nuôi có thể rút
ngắn thời gian nuôi, phát triển nhanh về số lượng nhờ công nghệ
nhân bản vô tính. KHu công nghệ cao xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào
năm 1939 và 40 năm sau Mỹ đã có trên một trăm khu. Ở Anh năm
1988 đã có 38 khu vường khoa học. Năm 2002, Trung Quốc đã
xây dựng bốn trăm khu công nghệ cao, nhờ đó sự gia tăng giá trị
sản xuất nông nghiệp đạt 42%, đạt giá trị sản lượng bình quân
khoảng 40 nghìn đến 50 nghìn USD/ha/năm, gấp 40- 50 lần so với
mô hình sản xuất trước đó. Nhờ ứng dụng thành công và hiệu quả
công nghệ tưới phục vụ cho canh tác nông nghiệp cũng như trong
hệ thống nhà kính, nhà lưới mà nền công nghiệp Ixraen có năng
suất và chất lượng cao. Hiệu quả mang lại từ các mô hình trên đã
khẳng định các mô hình công nghệ cao và khu nông nghiệp công
nghệ cao đã và đang trở thành điển hình cho nền nông nghiệp trí
thức của thế kỷ XXI
Nền nông nghiệp Việt Nam những năm qua đã xác lập được vị
thế đáng ghi nhận trên thế giới thông qua một số loại nông sản
như: hồ tiêu, cà fê, gạo, điều. Do tổ chức sản xuất nông nghiệp
được đổi mới và khoa học công nghệ được tăng cường, chỉ trong
10 năm (1989-1998), sản xuất nông, lâm nghiệp của Việt Nam đã
đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 4,3%/năm, sản lượng lương thực
bình quân đạt 23,08 triệu tấn/ năm( mồi năm tăng bình quân hơn
một triệu tấn, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng dân số).
Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lien tục tăng, đưa nước ta
trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Rau
quả, cà fê, cao su, chè, điều, hồ tiêu cũng đều tăng về sản lượng,
khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao ở nước ta đang được triển khai ở nhiều địa
phương theo các mẫu cải tiến nhà kính,nhà lưới của nước ngoài
như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà
Lạt. Ở Đông Nai, sự mạnh dạn đầu tư ứng dụng các giống cây
trồng mới, năng suất cao và kỹ thuật chăm sóc tiến bộ vào sản xuất
của nông dân đã khiến cho giá trị sản xuất nông lâm sản luôn giữ ở
mức tăng trưởng khá. Cụ thể, năng suất các loại cây trồng đều
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
tăng( năng suất lúa tăng 3,28%, bắp tăng 3,7%, mì tăng 3%, đậu
tăng 7,6%...)
Tuy nhiên theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, những mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở trong nước chỉ
mới xuất hiện, quy mô sản xuất cong nhỏ, công nghệ thiếu đồng bộ
nên hiệu quả chưa cao. Trong thời gian qua, một số nông sản của
Việt nam đã phải đối mặt với cạnh tranh của các sản phẩm nước
ngoài và kết quả cho thấy sự hạn chế về năng lực cạnh tranh của
các sản phẩm. Chẳng hạn, trong khi những sản phẩm nông nghiệp
như gạo, rau quả có thể trụ vững trên thị trường “ bình dân”, thì
gạo thơm hoa nhài Thái Lan lại chiếm lĩnh được hầu hết thị trường
cấp cao trong nước. Trái cây Thái Lan ở phía nam và trái cây
Trung Quốc ở phía bắc đang chia sẻ thị phần một cách có hiệu quả
với trái cây Việt Nam ngay trên thị trường thành thị và một phần
thị trường ở nông thôn. Dù có tiềm năng, song mía đường không
cạnh tranh được với đường nhập ngoại, dẫn tới tình trạng một số
nhà máy đường phải giải thể hoặc phá sản. Một số sản phẩm khác
như bông, đậu tương, ngô có năng suất quá thấp, giá thành cao sẽ
khó có thể cạnh tranh được với bông từ Trung Á hay Ai Cập và
đậu tương và ngô từ Mỹ.
Có một thực tế đang tồn tại là trình độ sản xuất của bà con nông
dân còn ở mức độ thấp, bộc lộ nhất là giống cây trồng, vật nuôi
vẫn chưa kiểm dịch đầy đủ và cũng chưa kiểm soát nguồn gốc,
chưa kiểm soát tốt phân hoá học, phân bón, công tác bảo quản sau
thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá thương hiệu vẫn chưa đáp
ứng theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong qua trình hội nhập,
quy mô sản xuất bình quân diện tích đất trên một nông hộ còn rất
thấp khoản 0,7-1 ha/hộ, vì vậy muốn sản xuất với quy mô lớn, chất
lượng đồng đều là rất khó. Đi đôi với những bất lợi đó là việc giá
thành sản xuất vẫn còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực
phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường
Đó là chưa kể một số vấn đề phát sinh, sẽ ảnh hưởng đến nông
nghiệp nước ta trong thời gian tới: đất nông nghiệp và đất canh tác
bình quân đầu người giảm do tăng dân số, đất đai bị xói mòn, thoái
hoá do nạn phá rừng gây ra. Một số cây giống đang có dấu hiệu
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
sớm thoái hoá đòi hỏi phải có những giống mới mạnh hơn, tốt hơn
thay thế. Môi trường sinh thái cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng
ở một số địa phương do chất thải công nghiệp, do sử dụng bừa bãi
phân hoá học, hoá chất trừ sâu, diệt cỏ, gây ô nhiễm đất canh tác,
nguồn nước mặt, nước ngầm và để dư lượng chất độc hại trong
nông sản thực phẩm… Đây la môt vấn đề rất đáng lo ngại cho nền
nông nghiệp của ta.
I/ Chuyển giao công nghệ trong trồng trọt
* Trồng l úa
1/Thực trạng về trồng lúa ở Việt Nam
Cây lúa là cây lương thực chiếm vị trí quan trọng cho các nước
đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Cho đến nay, hiện trạng sản
xuất lúa gạo của nước ta đã đổi thay rất nhiều. Mặc lúa vẫn là cây
trồng chủ yếu, có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia, đóng góp khá lớn vào kim ngạch xuất khẩu nông
sản (chiếm khoảng 25%) nhưng diện tích trồng lúa lại đang thu hẹp
dần. Tính riêng về diện tích trồng lúa so với tổng diện tích gieo
trồng chung cả nước năm 1991 chiếm tới 70%, đến năm 2001 còn
60%. Tuy nhiên, nhờ các tiến bộ khoa học được áp dụng, khả năng
thâm canh của nông dân được nâng cao, cho nên năng suất, sản
lượng lúa vẫn tăng.
Tuy nhiên, trong năm năm gần đây, mỗi năm sản lượng lúa vẫn
tăng trung bình 700 nghìn tấn. Công cuộc chuyển dịch cơ cấu,
trong đó việc quan trọng là giảm diện tích lúa chuyển sang các cây
trồng khác cho lợi nhuận cao đang làm bức tranh nông nghiệp
nước ta đổi thay từng ngày. Có thể nhận định công cuộc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đã đi từ chiều rộng đến chiều sâu. Giá trị trên
một ha đất canh tác tăng từ 17 triệu đồng/ha lên 24 triệu đồng/ha,
bình quân cả nước sau năm năm (2000-2005). Riêng đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đạt gần 40 triệu đồng/ha.
Các sản phẩm nông nghiệp phong phú, đa dạng, thể hiện sự phát
triển toàn diện của ngành nông nghiệp. Tổng kim ngạch xuất khẩu
nông - lâm sản năm 2005 đạt 5,8 tỷ USD, tăng 29% so với năm
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
trước, gấp hai lần kim ngạch năm 2001. Trong số các mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, gạo vẫn chiếm vị trí quan
trọng hàng đầu. Khi thị trường xuất khẩu nông-lâm sản mở rộng
sang hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ thì hạt gạo Việt Nam cũng
đã có mặt hơn 40 nước. Hạt gạo Việt Nam cũng đã góp phần đưa
vị thế nước ta ngày càng cao trên thế giới.Tính đến 15-01-2008, cả
nước đã gieo cấy được 1894,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng
101,5% cùng kỳ năm trước. Các địa phương phía Bắc gieo cấy
108,6 nghìn ha, bằng 102%, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng
mới đạt 60% cùng kỳ năm trước; vùng Bắc Trung Bộ 90,4 nghìn
ha, bằng 101,2%. Hiện nay, thời tiết đang rét và khô hạn, mực
nước các sông xuống thấp, khả năng nhiều diện tích lúa sẽ bị thiếu
nước, ngành thủy lợi và các địa phương cần chủ động khai thác và
sử dụng mọi nguồn nước để đảm bảo cung cấp đủ cho sản xuất.
Các địa phương phía Nam gieo sạ 1785,5 nghìn ha, bằng 101,5%,
trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1485,2 nghìn ha,
bằng 99,5%; lúa đã gieo cấy hiện đang phát triển tốt, tuy nhiên thời
tiết se lạnh và sương mù là điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát
triển, vì vậy các địa phương cần tích cực chủ động phòng chống để
hạn chế thiệt hại.
Có đựơc những kết quả trên, ko chỉ nhờ những kinh nghiệm của
bà con nông dân trong viêc trồng lúa lâu năm, mà còn nhờ việc
chúng ta đã biết áp dụng những công nghệ, khoa hoc kĩ thuật vào
sản xuât, điều đó g úp cho năng suât đã tăng lên rõ rệt và chất
lượng cũng tốt h ơn.
2/ một số ứng dụng công nghệ điển hình
a/ Công nghệ sinh học trong phòng trừ sâu bệnh hại lúa
Hiện nay tình hình sâu bệnh hại
lúa hằng năm diễn biến thất
thường. Đặc biệt trong năm 2003
dịch rầy nâu, bệnh cháy lá ảnh
hưởng không nhỏ đến sản xuất cả
nước và các tỉnh, thành nói riêng.
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Để hạn chế tình trạng này các Viện nghiên cứu đã sáng chế ra
những công nghệ sinh học mang lại hiệu quả cao mà nổi bật la
công nghệ chuyển đổi gen ở lúa
Trước đây, để tạo một giống mớI các nhà tạo giống thường sử
dụng phương pháp truyền thống để tổ hợp lại các gien giữa hai cá
thể lúa tạo ra con lai mang những tính trạng mong muốn. Tuy
nhiên, phép lai chéo này bị hạn chế bởi nó chỉ có thể thực hiện
được giữa các cá thể cùng loài ( lai gần), lai giữa các cá thể khác
loài (lai xa) thường bất thụ do đó không thể tạo ra con lai được.
Tuy nhiên, lai gần cũng phải mất nhiều thời gian mới thu được
những kết quả mong muốn và thông thường những tính trạng quan
tâm lại không tồn tại trong những loài có họ hàng gần nhau.
Ngày nay, công nghệ chuyển gien cho phép nhà tạo giống cùng
lúc đưa vào một loài lúa những gien mong muốn có nguồn gốc từ
những cơ thể sống khác nhau, không chỉ ở những loài có họ gần
nhau mà còn ở những loài rất xa nhau. Phương pháp hữu hiệu này
cho phép các nhà tạo giống lúa thu được giống mới nhanh hơn và
vượt qua những kỹ thuật tạo giống truyền thống.
Nhìn chung việc ứng dụng cây lúa chuyển gien có những lợi ích
rõ rệt sau: cây lúa chuyển gien có khả năng kháng các vi khuẩn gây
bệnh, kháng côn trùng phá hoại, chống chịu chất diệt cỏ, sản suất
Vitamin A từ đó
- Tăng sản lượng
- Giảm chi phí sản xuất
- Tăng lợi nhuận nông nghiệp
- Cải thiên môi trường
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm có những nguy c ơ tiềm ẩn
trong việc phát triển k ĩ thuật mới.Bao g ồm:
- Mối nguy hiểm trong việc vô tình đưa những chất gây dị ứng
hoặc làm giảm chất dinh dưỡng vào lúa
- Sâu bệnh có nguy cơ tăng cường tính kháng với các chất độc tiết
ra từ cây chuyển gen
- Nguy cơ những chất độc này tác động đến các sinh vật không
phải là loại sinh vật cần diệt, vì thế có thể làm mất cân bằng sinh
thái
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Các bước cơ bản của chuyển gen
- Xác định gien liên quan đến tính trạng cần quan tâm
- Phân lập gen (PCR hoặc sàn lọc từ thư viện cDNA hoặc từ thư
viện genomic DNA)
- Gắn gien vào vecto biểu hiện (expression vector) để biến nạp
- Biến nạp vào E.coli.
- Tách chiết DNA plasmid
- Biến nạp vào mô hoặc tế bào cây lúa bằng một trong những
phương pháp khác nhau đã kể ở trên
- Chọn lọc các cá thể biến nạp trên môi trường chọn lọc
- Tái sinh cây biến nạp
- Phân tích để xác nhận các cá thể chuyển gien (PCR hoặc
Southern blot) và đánh giá mức độ biểu hiện của chúng (Northern
blot, Western blot, ELISA hoặc các thử nghiệm IN VIVO khác)
b/ Công nghệ lai tạo gíông lúa
Cây lúa (Oryza sativa L.) là cây lương thực lâu đời nhất, phổ biến
nhất. Trên thế giới, về mặt diện tích gieo trồng, lúa đứng thứ hai
sau lúa mì; về tổng sản lượng, lúa đứng thứ ba
sau lúa mì và ngô. Lúa được trồng ở 112 nước, là
lương thực của hơn 54% dân số thế giới. Ở một
số nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêsia,
Nhật Bản, Việt Nam....lúa là cây lương thực
chính [2]. Về giá trị kinh tế, lúa gạo là mặt hàng
xuất khẩu của một số nước, do lúa gạo là cây
lương thực có giá trị dinh dưỡng cao [5]. Những
năm gần đây, sản xuất lúa gạo ở nước ta đã có
những bước phát triển đáng kể và đang hướng
tới nền sản xuất hàng hóa. Mặt khác do đời sống
của người dân không ngừng được cải thiện, nên
từ nhu cầu đủ no đã và đang tiến tới nhu cầu ăn
ngon. Vì vậy, nhu cầu về gạo đặc sản có chất
lượng cao cũng không ngừng tăng nhanh. Đột biến thực nghiệm là
một trong những phương pháp mang lại hiệu quả trong việc cải
tiến các giống cũ và tạo ra những giống cây trồng mới. Tuy nhiên
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
cũng cần thiết phải xác định, so sánh các chỉ tiêu sinh trưởng và
phẩm chất hạt gạo của các giống và dòng lúa đột biến với con lai
của chúng. Về phương diện sản xuất, từ những nghiên cứu trên có
thể phát hiện ra các tổ hợp lai thích hợp giữa các giống và dòng lúa
đột biến nghiên cứu để góp phần làm cơ sở chọn tạo ra các giống
lúa vừa có năng suất cao, ổn định, vừa có phẩm chất gạo ngon
Lúa lai được gieo trồng ở Việt Nam từ năm 1991. Hiện nay, diện
tích lúa lai là hơn 600.000 ha hằng năm với năng suất trung bình từ
6-6,3 tấn/ha, cao hơn lúa thuần từ 15-20%. Việc sử dụng lúa lai đã
góp phần nâng cao năng suất, sản lượng lúa và tạo thêm việc làm,
tăng thu nhập cho nông dân thông qua việc sản xuất hạt lai. C ác vi
ện Nghien c ứu đ ã lai t ạo ra nh ững gi ống l úa m ớI cho n ăng su
ất cao, ph ẩm ch ất t ốt, khang ch ịu đ ư ợc s âu b ệnh, th ích nghi v
ớI đi ều ki ện kh í h ậu Vi ệt Nam nh ư: OM 4498, OM 5930, OM
2008, OM5239………….
Nhờ công nghệ hiện đại trong lai tạo chúng ta đã cho ra một số
giống lúa mới với năng suất và phẩm chất cao
Giống lúa mới: OM 4498
1. Đặc điểm
· Giống lúa OM 4498 được phát triển từ tổ hợp lai
IR64/OMCS2000//IR64, quần thể BC2F2 được sử dụng để thực
hiện bản đồ di truyền gen chống chịu mặn với sự có mặt của
marker RM223 định vị trên nhiễm sắc thể số 8. Ứng dụng marker
phân tử trong chọn tạo giống lúa đã được Viện lúa ĐBSCL thực
hiện để chọn ra dòng OM 4498. Giống OM 4498 đã được Bộ Nông
nghiệp & PTNT công nhận tạm thời vào năm 2005.
· Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày. Chiều cao: 100-105cm.
Thân rạ cứng. Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000 hạt
25,8g. Chiều dài bông 26cm. Phản ứng với rầy nâu cấp 5 và đạo ôn
cấp 3. Có khả năng chống chịu với bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá.
Chỉ số thu hoạch HI = 0,58. năng suất đạt trung bình 5-7 tấn/ha.
Năng suất cao nhất: 8 t/ha.
· Khả năng sống sót ở giai đoạn mạ
trong điều kiện bị stress do mặn ở
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
EC=12dS/m là 28 ngày. Khả năng chống chịu độ độc nhôm được
đánh giá bằng chỉ số RRL là 0,85. Như vậy đây là giống có khả
năng thích nghi cho vùng khó khăn như phèn mặn.
· Giống lúa OM 4498 có lượng phytate thấp trong hạt gạo, giúp
cho việc hấp thu sắt trong dinh dưỡng hàng ngày của người dân tốt
hơn.
· Dạng hình cây lúa được đánh giá tốt trong nhiều lần thăm dò ý
kiến của nông dân và cán bộ khuyến nông qua 6 vụ khảo nghiệm
(2004-2006).
2. Phẩm chất
· Dài hạt gạo: 7,3mm. Tỉ lệ D/R: 3,1. Tỉ lệ gạo nguyên: 52,4%
· Hàm lượng amylsoe: 24,3%. Độ trở hồ cấp 3. Độ bền thể gel:
43,3mm
Giống lúa sản xuất thử
* OM 5930
1. Đặc điểm
Giống lúa OM 5930 do Viện lúa ĐBSCL tạo chọn, có
nguồn gốc từ biến dị tế bào soma từ giống OM 3536-12, thông qua
phân tích và đánh giá dòng triển vọng được chọn bằng marker sau
đó được khảo nghiệm chính quy.
Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày.
Chiều cao cây: 105-110cm. Thân rạ cứng.
Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000
hạt: 25,8g.
Phản ứng với rầy nâu, đạo ôn cấp 3
và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá cấp1.
Chỉ số thu hoạch HI = 0,59. Năng suất trung bình là 6,8
tấn/ha trong vụ Đông Xuân và 4,5 tấn/ha trong vụ Hè Thu. Năng
suất cao nhất đạt 7,5 tấn /ha. Thích hợp phát triển ở vùng thâm
canh và cả vùng khó khăn như: Kiên Giang, Trà Vinh, Cần Thơ,
Hậu Giang, Bến Tre. Thích nghi trồng trong cả hai vụ Đông Xuân
và Hè Thu.
2. Phẩm chất
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Tỉ lệ gạo nguyên: 49,53%. Chiều dài hạt gạo: 7,22mm.
Hàm lượng amylose: 24,78%, cơm mềm và dẻo. Độ trở hồ:
cấp 5. Độ bền thể gel 45,67mm.
* OM 2008
1. Đặc điểm
Giống lúa OM 2008 là giống lúa nếp, được lai tạo và chọn
lọc tại Viện lúa ĐBSCL từ tổ hợp lai Nếp hoa vàng/NN6A và được
phóng thích năm 2000.
Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày. Dạng cây thấp. Hơi
yếu rạ. Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000 hạt: 26,3g.
Phản ứng với rầy nâu, đạo ôn
cấp và bạc lá cấp 5 .
Năng suất trung bình là 5-6
tấn/ha trong vụ Đông Xuân và 4-5
tấn/ha trong vụ Hè Thu. Giống OM
2008 có tính thích nghi rộng nên
đựoc nông dân các tỉnh ĐBSCL chấp
nhận đưa vào sản xuất trên diện tích đại trà.
2. Phẩm chất
Tỉ lệ gạo nguyên: 48,8% (vụ Hè Thu) và 51,7% (vụ Đông
Xuân). Chiều dài hạt gạo: 6,8mm. Chiều dài/rộng 3,1
Hàm lượng amylose: 9-9,5%. Độ đục: 1000%, cơm dẻo.
Độ trở hồ: cấp 6. Độ bền thể gel: 100mm.
c/Cơ giới hoá sản xuất lúa
Trước đây, trong quá trình cày cấy, thu hoạch bà con n ông dân
phảI dùng các công cụ thô sơ.Thì nay v ớI tr ình độ khoa học ki
thuật tiên tiến, công nghệ hiện đạI máy móc đã đư ợc đưa vào sản
xuất bao gồm:
- Máy trục bùn tự hành
- Công cụ gieo lúa theo hàng
- Máy gieo lúa theo hàng liên kết vớI máy kéo 4 bánh GLH 2800
- Máy bóc bẹ tách hạt bắp BBTH-1,5
- M áy gặt đập liên hợp
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
- Máy sấy lúa dùng sấy lúa cho các hộ nông hộ
máy cấy lúa MC8-20
3/ Giải pháp phát triển công nghệ trong sản xuất lúa
Để góp phần tăng năng suất, sản lượng, chất lượng và hiệu quả
trong sản xuất lúa.Ngoài việc hướng dẫn, chỉ đạo nông dân thực
hiện tốt hệ thống các biện pháp canh tác, Cần tiếp tục thực hiện
dồn điền đổi thửa để tập trung ruộng đất, hình thành vùng sản xuất
chuyên canh, tập trung, thuận lợi cho việc áp dụng công nghệ, cơ
giới trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt công tác nghiên cứu,
ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; tăng cường quản lý nhà
nước về sản xuất lúa. Trước hết cần ứng dụng có hiệu quả công
nghệ cây, con lai; đây là hướng quan trọng để tạo ra bước đột phá
về năng suất, chất lượng. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ trước,
trong và sau sản xuất theo hướng đồng bộ, khép kín, giảm đầu tư
chi phí, nâng cao hiệu quả của sản xuất. Gắn chặt hơn nữa sản xuất
với thị trường. Xây dựng một số mô hình ứng dụng công nghệ cao
trong sản xuất lúa. Nghiên cứu quy trình quản lý, khai thác có hiệu
quả tài nguyên nước, đất và hệ thống các công trình giúp trong
việc trồng trọt lúa
Tất cả các hướng nghiên cứu, ứng dụng trên phải gắn chặt với
xây dựng các mô hình trình diễn, các ruộng thí nghiệm và mở các
lớp tập huấn, khuyến nông để hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kĩ
thuật cho nông dân; gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng.
* Trồng cây ăn quả
1/Thực trạng về cây ăn quả hiện nay ở Việt Nam:
Tính đến nay, diện tích trồng cây ăn quả (CAQ) ở cả nước đã lên
tới 755 ngàn ha, trong đó ĐBSCL hiện có 325 ngàn, tăng hơn gần
100 ngàn so với năm 2000. Năm 2004, diện tích cây ăn quả đạt
trên 550 ngàn ha. Trong đó, Đồng Bằng sông Cửu long (ĐBSCL)
là vùng cây ăn quả quan trọng nhất của Việt Nam chiếm trên 30%
diện tích cây ăn quả của cả nước. Dưới đây là 1 sơ đồ thể hiện sự
phát triển diện tích cây ăn quả ở nước ta từ năm 1999-2005:
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Sở dĩ diện tích đất trồng cây ăn quả tăng nhiều như vậy là vì nay
người trồng đã chú trọng hơn đến hiệu quả kinh tế ben cạnh những
tác dụng của CAQ là làm cây bóng mát, cây chắn gió như trước
đây. Ðơn cử như cây bơ, từ khi được chọn để phát triển thành cây
hàng hóa thì nhiều người đã bắt đầu tìm chọn giống bơ tốt để trồng
với quy mô lớn.
Nhờ có nhu cầu ngày càng tăng này nên diện tích cây ăn quả trong
thời gian qua tăng mạnh. Trong các loại cây ăn quả, một số cây
nhiệt đới đặc trưng như vải, nhãn, và chôm chôm tăng diện tích lớn
nhất vì ngoài thị trường trong nước còn xuất khẩu tươi và khô sang
Trung Quốc. Năm 1993, diện tích của các loại cây này chưa thể
hiện trong số liệu thống kê. Từ năm 1994, diện tích trồng 3 loại
cây này tăng gấp 4 lần, với mức tăng trường bình quân 37%/năm,
chiếm 26% diện tích cây ăn quả cả nước. Diện tích cây có múi và
xoài cũng tăng mạnh bình quân 18% và 11%/năm. Chuối tuy là
cây trồng quan trọng chiếm 19% diện tích cây ăn quả cả nước
nhưng chưa trở thành sản phẩm hàng hoá qui mô lớn. Diện tích
dứa giảm trong thập niên 1990, nhất là từ khi Việt Nam mất thị
trường xuất khẩu Liên Xô và Đông Âu.
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Tiền Giang là tỉnh phát triển diện tích trồng CAQ nhanh nhất và
rộng nhất nước ta: năm 1990 có 24.500 ha, thì đến 2006 có gần
67.000 ha. Một cơ cấu giống CAQ hợp với từng loại đất đã được
người làm vườn thực hiện và luôn hoàn thiện. Chủng loại CAQ ở
mỗi vùng không chỉ phụ thuộc vào vùng đất ngọt, vùng đệm, lợ,
mặn, phèn, mà còn phụ thuộc vào ý người trồng cây muốn có lời
cao hơn. Số loài CAQ vùng ngọt nhiều nhất: 15 loài chính chiếm
trên 50% diện tích CAQ của cả tỉnh, trong đó có sầu riêng, vú sữa,
xoài, cam, quýt, nhãn, sapô, ổi, chôm chôm, bưởi. Vùng đệm và
vùng mặn có 12 loài, vùng mặn có 10 loài và vùng phèn chỉ có 6.
Phần lớn các loài CAQ ở vùng ngọt cho năng suất cao nhất, như
cam đạt 12-13 tấn , thì ở vùng đệm còn 5 tấn, vùng mặn còn 1 tấn,
tất nhiên có thể tăng đầu tư để đạt cao hơn, nhưng lời ít hoặc lỗ
vốn. Dừa tập trung ở vùng lợ, có trên 5.000 ha, chiếm 70% diện
tích dừa cả tỉnh, và có năng suất (8-9 tấn/ha) vượt trội so với các
vùng khác; vùng ngọt đứng thứ nhì cũng chỉ đạt 7,5 t. Sản xuất dứa
(khóm, thơm) hàng hóa tập trung tới 100% diện tích (#5.000 ha) ở
vùng phèn. Vùng phèn thường giàu mùn giàu đạm này còn làm cho
chuối đạt năng suất cao nhất tỉnh, khoảng 13 – 14 t/ha, trong khi
vùng ngọt chưa đầy 10 tấn.
Mỗi địa phương, mỗi vùng lại có tính đặc thù trong sản xuất
CAQ về giống cũng như về tập quán và về điều kiện tự nhiên. Đến
nay, chưa thấy giống CAQ nhập nào vượt trội hơn giống bản địa
về chất lượng ngon lành. Tuy nhiên, ta kém về lợi thế cạnh tranh
hàng hóa, như độ an toàn thực phẩm, không đáp ứng kịp thời thị
trường về số lượng, chất lượng cao và độ đồng đều, cũng như bao
bì đóng gói, thời gian giao hàng theo hợp đồng, và giá bán lại cao
do giá thành cao.
Các nhà khoa học cùng địa phương hàng thập kỷ đến nay kiên
trì đề xuất và chỉ đao thực hiện nhiều giải pháp nhằm khắc phục
tình trạng vùng sản xuất trái cây hàng hóa chưa đủ rộng, tổ chức
hợp tác sản xuất kinh doanh yếu, thiếu giống tốt, áp dụng kỹ thuật
tùy tiện, yếu kém trong khâu chế biến, bảo quản, chưa đạt nhiều
tiêu chuẩn hàng hóa trên “sân chơi” WTO.. Hiệu quả chỉ đạo hầu
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
như chỉ thể hiện trong quá trình tăng diện tích sản xuất như trên,
chưa tăng được lợi thế cạnh tranh về chất lượng, giá thành. Giải
pháp phù hợp nhằm tăng thu, giảm rủi ro cho nông dân là cách để
người nông dân ham áp dụng giống và kỹ thuật mới hơn.
Giống CAQ vẫn được xếp hàng đầu trong quy trình sản xuất
trái cây. Khác với sản xuất lúa hàng vụ có thể đổi giống, với trái
cây là hàng chục năm. Khác với rau hiện ta đang sản xuất chủ yếu
bằng giống nhập nội, vì hiện còn rất ít giống bản địa, như sả,
giềng..; còn đối với CAQ thì phần nhiều dùng giống bản địa đặc
sản, có giống có chất lượng và mẫu mã mầu sắc vỏ quả bắt mắt
vượt trội không những không thua kém giống nhập nội, như cam,
xoài, bưởi, sầu riêng, mà còn có giống vượt trội hơn. Để phát huy
CAQ đặc sản bản địa, cần xác định và mở rộng diện tích ra vùng
có điều kiện đất và sinh thái khí hậu thích hợp, như ta đã làm rất
thành công với vải thiều trước kia chỉ có ở Hưng Yên Thời gian
tạo chọn giống CAQ mới cần 10 – 15 năm, nhưng sau đó năm nào
ta cũng có thể giới thiệu vào sản xuất giống mới. Tuyển chọn cây
mẹ làm đầu dòng triết ghép nhân ra cũng là cách như ta đã làm có
kết quả tốt. Quản lý cây giống vẫn là vấn đề bức xúc, vì giống kém
chất lượng và không đúng giống vẫn còn trôi nổi trên thị trường.
Nhìn chung sản xuất cây ăn quả mới nhắm vào phục vụ thị
trường trong nước, một thị trường dễ tính, đang tăng nhanh nhưng
sẽ bị cạnh tranh mạnh trong tương lai. Triển vọng của ngành sản
xuất này là rất lớn với điều kiện đầu tư thích đáng và đồng bộ từ
nghiên cứu, tổ chức sản xuất giống, chế biến, đóng gói, vận
chuyển, tiêu chuẩn cất lượng, nhãn hiệu, tiếp thị,... những lĩnh vực
Việt Nam còn rất yếu kém. Hiện nay, xu hướng phát triển sản xuất
hàng hoá ngày càng tăng. Tuy nhiên mức độ thương mại hoá khác
nhau giữa các vùng. ĐBSCL là vùng có tỷ suất hàng hoá quả cao
nhất với gần 70% sản lượng được bán ra trên thị trường. Tiếp theo
là Đông nam Bộ và Nam Trung Bộ với tương ứng là 60% và 58%.
Các vùng còn lại tỷ suất hàng hoá đạt từ 30-40%. Mức độ thương
mại hoá cao ở Miền Nam cho thấy xu hướng tập trung chuyên
canh với quy mô lớn hơn so với các vùng khác trong cả nước. Sản
xuất nhỏ lẻ, vườn tạp vẫn còn tồn tại nhiều, đây chính là hạn chế
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
của quá trình thương mại hoá, phát triển vùng chuyên canh có chất
lượng cao.
2/ Ứng dụng công nghệ trong trồng cây ăn quả
Trong hơn hai thập kỷ qua, công nghệ sinh học
đã có những bước tiến nhảy vọt góp phần mang
lại những thành tựu to lớn cho loài người. Nhờ
công nghệ sinh học hiện đại, các sinh vật biến
đổi gen và sản phẩm của chúng được tạo ra với
những đặc tính ưu việt đã từng bước khẳng định
vị trí trong các lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp thực phẩm và y tế.
Công nghệ sinh học (CNSH) có 3 cấp độ khác nhau: CNSH
truyền thống như các hoạt động chế biến thực phẩm (rượu, giấm ,
sữa chua, dưa chua, cà muối, pho-mát, tương, nước mắm, men
bánh mì...), ủ phân, phơi ải đất, diệt khuẩn và ức chế vi sinh vật có
hại... CNSH cận đại với việc sản xuất ở quy mô công nghiệp các
sản phẩm của công nghệ lên men, công nghệ vi sinh vật (cồn, bia,
dung môi hữu cơ, bột ngọt và các acid amin khác, acid citric và các
acid hữu cơ khác, chất kháng sinh, nhiều vitamin, các loạin vaccin,
kháng độc tố, các kit chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, thuốc trừ sâu
sinh học, phân bón sinh học...). CNSH hiện đai chỉ mới xuất hiện
trong vài thập kỷ gần đây. CNSH hiện đại sử dụng các kỹ thuật
trao đổi, sửa chữa, tổ hợp hoặc cải tạo vật chất di truyền ở mức độ
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
phân tử để tạo ra những loại vi sinh vật mới hoặc bắt các sinh vật
này tạo ra các protein hay các sản phẩm khác mà vốn dĩ chúng ta
không tạo ra được.
Ứng dụng công nghệ sinh học vào trồng trọt, chúng ta có một số
biện pháp như sau:
a/ Cây chuyển gen:
Theo các nhà khoa học, cây chuyển gen có ích lợi tiềm tàng đối
với môi trường. Chúng giúp bảo tồn các nguồn lợi tự nhiên, sinh
cảnh và động, thực vật bản địa; góp phần giảm sói mòn đất, cải
thiện chất lượng nước, cải thiện rừng và nơi ngụ cư của động vật
hoang dại. Thực vật với khả năng tự bảo vệ chống lại côn trùng và
cỏ dại có thể giúp giảm liều lượng và nồng độ các thuốc trừ sâu sử
dụng.
Ở các quốc gia thường xuyên không đủ lương thực để phân phối
và giá lương thực ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của đại bộ phận
dân chúng thì lợi ích tiềm tàng của cây chuyển gen là không thể
phủ nhận. Các loại cây biến đổi gen được trồng phổ biến nhất hiện
nay là ngô, đậu tương, cà chua, cải dầu, bông... Nhưng điều quan
tâm hơn cả đối với cộng đồng là sản phẩm chế biến từ cây biến đổi
gen có ảnh hưởng đến sức khỏe con người hay không ? Qua nhiều
năm nghiên cứu, các nhà khoa học vẫn chưa đi đến kết luận cuối
cùng nên pháp luật mỗi nước có những quy định riêng về vấn đề
này. Nhưng họ cũng thống nhất rằng, thực phẩm xuất xứ từ cây
chuyển gen phải được ghi rõ cụ thể để người tiêu dùng được quyền
lựa chọn.
Ngày nay, các nhà khoa học đang hướng tới tạo những cây
chuyển gen thế hệ thứ hai có đặc điểm tăng giá trị dinh dưỡng hoặc
có những tính trạng thích hợp cho công nghiệp chế biến. Lợi ích
của những cây trồng này hướng trực tiếp hơn vào người tiêu dùng.
Ví dụ: lúa gạo giàu vitamin A và sắt; khoai tây tăng hàm lượng
tinh bột; vắc-xin ăn được ở ngô và khoai tây; những giống ngô có
thể trồng trong điều kiện nghèo dinh dưỡng; dầu ăn có lợi cho sức
khỏe hơn từ đậu nành và cải dầu...
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
Không phát triển rầm rộ, các nghiên cứu về cây trồng biến đổi
gen đã và đang được thực hiện tại một số cơ sở chuyên nghiên cứu
về công nghệ sinh học (CNSH) ở nước ta. Các nhà khoa học đã
bước đầu thành công trong việc chuyển gen kháng sâu bệnh, provitamin A... vào cây lúa, bắp cải, ngô, đu đủ, cây hoa. Tuy nhiên,
những thành công này chỉ dừng lại ở mức độ phòng thí nghiệm.
Nhưng các chuyên gia khẳng định, thị trường thực phẩm của Việt
Nam đã xuất hiện các cây trồng và sản phẩm biến đổi gen
cây chuyển gen đem lại rất nhiều lợi ích như: tăng sản lượng, cung
cấp nhiều hơn thực phẩm cho dân số ngày càng tăng; giảm chi phí
sản xuất, tăng lợi nhuận nông nghiệp; tăng giá trị dinh dưỡng hoặc
tính thích hợp cho công nghiệp chế biến thực phẩm; tạo ra các sản
phẩm có lợi cho sức khỏe.
b/ số biện pháp bảo vệ và chăm s óc cây
trồng:
* Thuốc bảo vệ thực vật:
Thuốc bảo vệ thực vật là các loại hoá chất
do con người sản xuất ra để trừ sâu bệnh và
cỏ dại có hại cho cây trồng. Thuốc bảo vệ
thực vật được phân thành hai loại chính là
thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Các loại thuốc
này có ưu điểm là diệt sâu bệnh, cỏ dại nhanh,
sử dùng lại đơn giản, nên được nông dân ưa
thích. Nhưng thuốc bảo vệ thực vật cũng có rất nhiều tác hại, đó là:
Trong tự nhiên có rất nhiều loại sâu hại khác nhau, có loại sâu
ẩn núp dưới lá, có loại đục vào thân cây, có loại lại chui vào đất,
nên phải dùng nhiều loại thuốc khác nhau để tiêu diệt chúng. Việc
này gây khó khăn cho người sử dụng, nhất là những người nông
dân có trình độ văn hoá thấp. Nhiều người chỉ thích mua thuốc rẻ
để phun, không cần biết phạm vi tác dụng của chúng ra sao. Có
người hay phun quá liều chỉ dẫn để cho "chắc ăn", làm tăng lượng
thuốc thừa tích đọng trong đất và nước.
Các loại thuốc trừ sâu thường có tính năng rộng, nghĩa là có thể
diệt được nhiều loại côn trùng. Khi dùng thuốc diệt sâu hại một số
ĐH Ngoại Thương_Bộ môn Chuyển Giao Công Nghệ
côn trùng có ích cũng bị diệt luôn, đồng thời ảnh hưởng tới các loại
chim ăn sâu, vì chim ăn phải sâu đã trúng độc. Nói cách khác, sau
khi phun thuốc trừ sâu, số lượng thiên địch của nhiều loại sâu cũng
giảm. Ðiều đó có lợi cho sự phát triển của sâu hại.
Các loại thuốc trừ sâu đều có tính độc cao. Trong quá trình dùng
thuốc, một lượng thuốc nào đó có thể đi vào trong thân cây, quả,
hoặc dính bám chặt trên lá, quả. Người và động vật ăn phải các
loại nông sản này có thể bị ngộ độc tức thời đến chết, hoặc nhiễm
độc nhẹ, từ từ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ. Do trình
độ hạn chế, một số nông dân không tuân thủ đầy đủ các quy định
về sử dụng, bảo quản thuốc trừ sâu, có người cất thuốc vào chạn,
vào tủ quần áo, nên đã gây nên những trường hợp ngộ độc, thậm
chí chết thảm thương do ăn nhầm phải thuốc.
Một số loại thuốc trừ sâu có khả năng bay hơi mạnh nên gây khó
chịu, mệt mỏi, thậm chí choáng ngất cho người trực tiếp phun
thuốc sâu trên đồng ruộng, nhất là trong trường hợp không có các
biện pháp phòng tránh tốt.
Việc dùng thuốc trừ sâu liên tục sẽ sinh chứng nhờn thuốc. Vì
thế mỗi loại thuốc trừ sâu chỉ có tác dụng mạnh một số năm đầu sử
dụng. Ðể hạn chế bệnh nhờn thuốc, tăng khả năng diệt trừ sâu
người ta thường tăng dần nồng độ thuốc, tăng số lần dùng thuốc.
Tuy nhiên biện pháp này không lâu dài do không thể tăng mãi
nồng độ được. Mặt khác, nó làm ô nhiễm môi trường mạnh hơn, do
lượng tồn dư trong môi trường nhiều lên.
Một số loại thuốc trừ sâu có tính năng hoá học ổn định, khó
phân huỷ, nên sẽ tích luỹ trong môi trường. Sau nhiều lần sử dụng
lượng tích luỹ này có thể cao đến mức gây độc cho môi trường đất,
nước, không khí và con người. Do thuốc tồn đọng lâu không phân
huỷ, nên có thể theo nước và gió phát tán tới các vùng khác, theo
các loài sinh vật đi khắp mọi nơi. Thuốc diệt cỏ được dùng ở mức
ít hơn. Tuy nhiên do có tính độc, chúng cũng gây nên những tác
hại tới môi trường giống như thuốc trừ sâu.
Nói tóm lại, thuốc trừ sâu, diệt cỏ không chỉ có tác dụng tích
cực bảo vệ mùa màng, mà còn gây nên nhiều hệ quả môi trường
nghiêm trọng, ảnh hưởng tới hệ sinh thái và con người. Do vậy cần
- Xem thêm -