Giới thiệu đề tài
Chuyển giá của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
Lời mở đầu
1.Lý do chọn đề
Trải qua khoảng thời gian hai mươi mốt năm mở cửa nền kinh tế kêu gọi
đầu tư năm 1988, Việt Nam nhận được nguồn vốn FDI trải qua nhiều
giai đoạn thăng trầm khác nhau. Nhưng đặc biệt trong khoảng ba năm từ
năm 2006 đến thàng 8 năm 2008, nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam
không ngừng tăng lên và vượt xa so với những năm trước và liên tiếp lập
những mốc kỷ lục mới về tổng mức vốn đầu tư . Nguồn vốn FDI đổ vào
nước ta không chỉ là tăng về số lượng các dự án mà tăng về cả qui mô và
chất lượng của các dự án. Nguồn vốn FDI phân bố rộng rãi vào nhiều
tỉnh và thành phố trên khắp cả nước, các lĩnh vực tiếp nhận vốn đầu tư
cũng được mở rộng tạo điều kiện cho việc tiếp nhận trình độ khoa học
kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý kinh tế tầm cao, giải quyết công ăn
việc làm cho lao động trong nước. FDI trở thành một trong những nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho nên kinh tế, là động lực thúc đẩy kinh tế
Việt Nam phát triển, tạo nên tính năng động và cạnh tranh cho thị
trường.
Bên cạnh những đóng góp tích cực của luồng vốn FDI đối với sự phát
triển của kinh tế và xã hội Việt Nam thì trong lĩnh vực đầu tư nước
ngoài đã và đang nổi lên hiện tượng các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ
kéo dài nhiều năm làm cho chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế ảnh
hưởng trực tiếp đến ngân sách, bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh không
lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước, tác động không tốt đến cơ
chế quản lý tài chính của chính phủ trong lĩnh vực FDI, và ảnh hưởng
đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng như tác động xấu đến mục
tiêu thu hút và quản lý vĩ mô vốn FDI của chính phủ.
Tình trạng các doanh nghiệp FDI khai lỗ diễn ra tại nhiều tỉnh thành đã
làm cho chính phủ, cơ quan thuế, các cơ quan quản lý khu vực vốn đầu
tư nước ngoài cần phải nhìn nhận và xem xét vấn đề một cách đúng
mức. Vấn đề “chuyển giá “tại các doanh nghiệp FDI đang là vấn đề
được các đại biểu quốc hội chất vấn sôi nổi trong nhiều kỳ họp quốc hội
gần đây. Trong kỳ họp quốc hội ngày 05 tháng 10 năm 2008, Đại biểu
Trần Du Lịch đã cho biết thống kê qua cục thuế TP.HCM thì 70% doanh
nghiệp FDI trên địa bàn thành phố kê khai làm ăn thua lỗ cho dù làm ăn
tốt, tăng trưởng cao và không ngừng mở rộng. Các đại biểu quốc hội nêu
lên lo ngại tình trạng “lỗ giả, lãi thật “ở các doanh nghiệp FDI và cuối
buổi thảo luận Bộ Trưởng Bộ Tài Chính Vũ Văn Ninh cũng đã thừa
nhận hiện tượng “chuyển giá” là có, chính phủ đã cố gắng kiểm soát
“nhưng nói thực với Quốc hội là không kiểm soát được”.
Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là
một cuộc chạy đua và cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực
.Quan trọng hơn nữa là sau khi thu hút được vốn thì quản lý nguồn vốn
đó sao cho có hiệu quả và phục vụ cho mục tiêu phát triển vĩ mô nền
kinh tế kinh tế đồng thời tạo ra một mội trường kinh tế cạnh tranh lành
mạnh. Để thực hiện được điều này cần phải có sự quan tâm một cách
đúng mức của Chính Phủ Việt Nam, cơ quan thuế, hải quan và các ban
ngành có liên quan.
Thông qua các phương tiện truyền thông cũng như trong quá trình học
tập nghiên cứu và trong thực tế công việc, tôi quyết định chọn đề tài
“Chuyển giá của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2.Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng
chuyển giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp FDI đang có mặt
tại Việt Nam trong thời gian từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa kinh tế đến
khi Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế
giới. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra một số biện
pháp chống chuyển giá nhằm đảm bảo ổn định phát triển kinh tế tại Việt
Nam và phù hợp với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp FDI và hiện tượng
chuyển giá của các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong khoảng thời
gian từ khi mở của kinh tế đến nay. Chuyển giá là một vấn đề rất nhạy
cảm trong việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như là đối với cơ
quan quản lý nhà nước, vì vậy trong đề tài sẽ tập trung vào các sự kiện
đã được công bố trên phương tiện truyền thông đại chúng và trong giới
hạn tìm hiểu các ví dụ thực tế cho phép.
3.Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp sử dụng xuyên suốt trong đề tài là phương pháp duy vật
biện chứng, bên cạnh đó kết hợp với các phương pháp thống kê, liệt kê,
phân tích các nguồn số liệu trong và ngoài nước nhằm làm rõ vấn đề cần
nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu thì đề tài được áp dụng nguyên tắc khách
quan, logic trong phân tích và nhận xét.Ngoài ra, đề tài còn áp dụng
phương pháp diễn dịch, quy nạp, so sánh trong quá trình phân tích và
làm rõ vấn đề.
4.Bố cục của đề tài
Đề tài được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Công ty xuyên quốc gia và hoạt động chuyển giá
Chương 2: Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp kiểm soát chuyển giá của các công ty xuyên
quốc gia MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA VÀ HOẠT ĐỘNG
CHUYỂN GIÁ
1.1 Khái niệm, mục tiêu và tác động các các công ty xuyên quốc gia
đối với nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Đặc trưng của TNC
1.2 Các nghiệp vụ mua bán nội bộ và khái niệm hoạt động chuyển giá
của TNC
1.2.1 Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của TNC
1.2.2 Khái niệm hoạt động chuyển giá
1.3 Các yếu tố thúc đẩy TNC chuyển giá
1.3.1 Các yếu tố thúc đẩy bên ngoài (động cơ bên ngoài)
1.3.2 Các yếu tố thúc đẩy bên trong (động cơ bên trong)
1.4 Các tác động của chuyển giá
1.4.1 Dưới góc độ TNC
1.4.2 Dưới góc độ các quốc gia liên quan
1.5 Kinh nghiệm chống chuyển giá tại một số quốc gia trên thế giới
1.5.1 Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Mỹ
1.5.2 Kinh nghiệm chống chuyển giá tại Trung Quốc
1.5.3 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUYỂN GIÁ TẠI VIỆT NAM
2.1 Môi trường pháp lý và tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp
(FDI) tại Việt Nam
2.2 Phân tích tình hình hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp
FDI trong thời gian qua tại Việt Nam
2.2.1 Khái quát chung về tình hình chuyển giá tại Việt Nam
2.2.2 Tìm hiểu một số trường hợp chuyển giá tiêu biểu tại Việt Nam
2.2.2.1 Nâng giá trị vốn góp
2.2.2.2 Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
2.2.2.3 Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường
2.2.2.4 Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất
2.2.2.5 Tìm hiểu một ví dụ thực tế chuyển giá theo phương pháp giá
vốn cộng lãi
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG
CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA TRONG GIAI
ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
3.1 Những cam kết thuế quan khi gia nhập WTO của Việt Nam và
phối hợp giữa các quốc gia chống lại chuyển giá
3.2 Các biện pháp kiểm soát chuyển giá của Chính phủ Việt Nam
3.2.1 Hoàn thiện các văn bản pháp lý kiểm soát chuyển giá
3.2.2 Ổn định kính tế vĩ mô và ổn định đồng tiền Việt Nam
3.2.3 Cải cách thuế của Chính phủ
3.2.4 Nhóm giải pháp mang tính chất kỹ thuật
3.3 Một số giải pháp kiến nghị bổ sung
3.3.1 Xây cơ sở dữ liệu giá cả cho các giao dịch
3.3.2 Xây dựng bảng tổng hợp tỷ suất lợi nhuận bình quân cho ngành
3.3.3 Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ quản lý
khu vực đầu
tư nước ngoài
3.3.4 Các biện pháp hành chính và biện pháp phạt
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Chương 1: Công ty xuyên quốc gia và các hoạt động chuyển giá:
1.1:Khái niệm, mục tiêu và các tác động của công ty xuyên quốc gia
đối với nền kinh tế
1.1.1:Khái niệm:
Công ty xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan
trọng nhất, là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch
vụ ở ít nhất hai quốc gia.Các công ty xuyên quốc gia lớn có ngân sách
vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia.Công ty xuyên quốc gia có thể có
ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các
quốc gia.Các công ty xuyên quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong
quá trình toàn cầu hóa.Đó là những tổ chức kinh doanh có quyền sở hữu
hoặc hoạt động kinh doanh diễn ra trên địa bàn nhiều quốc gia.Trong
kinh tế thường có sự phân biệt giữa Công ty quốc tế(International
Corporation) với Công ty đa quốc gia( Multunational Corporation) và
Công ty xuyên quốc gia( Transnational Corporation). Trong đó, Công ty
quốc tế là công ty có sự quốc tế hóa thị trường, tức là hoạt động cả thị
trường nội địa lẫn thị trường nước ngoài. Công ty đa quốc gia là công ty
quốc tế có sự quốc tế hóa nguồn vốn, tức có chủ đầu tư thuộc các quốc
tịch khác nhau. Công ty xuyên quốc gia là công ty có sự quốc tế hóa
hoạt động kinh doanh nhưng chủ đầu tư thường thuộc 1 quốc tịch.
1.1.2: Đặc trưng của TNC:
TNCs có những đặc trưng nhất định như công nghệ tiên tiến, trình độ
quản lí hiện đại, năng lực cạnh tranh cao, mạng lưới hoạt động rộng,
lượng tài sản sở hữu lớn, doanh thu lớn, thương hiệu mạnh… Cho đến
nay, theo UNCTAD, các TNCs sở hữu tới 80% kỹ thuật mới của thế
giới, 60% đầu tư quốc tế và 40% thương mại toàn cầu. Các TNCs có
những đặc điểm đặc thù về sở hữu và những đặc điểm này quyết định
các đặc trưng khác của các TNCs và tạo cho các TNCs có những lợi thế
quan trọng phát sinh từ lợi thế sở hữu so với các chủ thể khác trong giao
dịch quốc tế.
Nó là một tập đoàn xuyên quốc gia có một sự hiện diện toàn cầu thực
sự lây lan giữa các nước. Tuy nhiên, nó sẽ là quá nhiều của một đơn giản
hóa để gọi một công ty xuyên quốc gia nếu nó có một sự hiện diện ở một
số nước hoặc có giao dịch bằng ngoại tệ nhiều. Chất lượng thực sự của
một công ty xuyên quốc gia rõ ràng là khả năng theo đuổi một sự pha
trộn đúng đắn của địa phương đáp ứng thông qua các tùy biến, giảm chi
phí thông qua các tiêu chuẩn và cấu hình chuỗi giá trị tối ưu. Ví dụ, một
công ty với một cũng nghĩ ra mạng lưới sản xuất ở các nước khác nhau,
để làm cho nó tiền tệ trung tính 5 sẽ được nhiều hơn xuyên quốc gia
trong đó xuất khẩu từ nước nhà của mình và sử dụng các công cụ bảo
hiểm rủi ro như hợp đồng kỳ hạn để loại bỏ nguy cơ ngoại hối. Tương tự
như vậy, một công ty phát triển một mạng lưới các hoạt động mà làm
cho nó ít dễ bị tổn thương trước các rủi ro chính trị tại các thị trường cá
nhân ở nước ngoài, xuyên quốc gia sẽ được nhiều hơn một mà không có
một mạng lưới.Các tập đoàn xuyên quốc gia kết hợp các thuộc tính khác
nhau mà vượt ra ngoài tầm với của các công ty mà chủ yếu cạnh tranh ở
thị trường trong nước của họ.
Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế
giới đều thuộc quyền sở hữu tập trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có
những hoạt động cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau.
Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị , điều hành và kinh
doanh có tính toàn cầu. Tuy các công ty xuyên quốc gia có thể có nhiều
chiến lược và kỹ thuật hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa
phương nơi nó có chi nhánh.
Và đặc biệt là về các đặc trưng sở hữu của các công ty xuyên quốc gia.
1.2: Các nghiệp vụ mua bán nội bộ và khái niệm chuyển giá của
TNC:
1.2.1: Các nghiệp vụ mua bán nôi bộ (chuyển giao nội bộ):
Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của TNC là những hoạt động mua bán
qua lại giữa công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty con của
TNC với nhau. Các công ty con của TNC hoạt động trên phạm vi của
nhiều quốc gia khác nhau do đó các giao dịch nội bộ của các TNC diễn
ra rất đa dạng và phức tạp với số lượng ngày càng nhiều và giá trị ngày
càng lớn. Các hoạt động này được thực hiện thông qua các giao dịch
như: giao dịch chuyển giao nội bộ tài sản cố định hữu hình hay tài sản cố
định vô hình; chuyển giao nguyên vật liệu, thành phẩm, thông qua sự
dịch chuyển nguồn vốn như cho vay và đi vay nội bộ; qua việc tài trợ và
nhận tài trợ về các nguồn lực như tài lực và nhân lực, qua sự cung cấp
các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn quản lý; qua các chi phí cho việc
quảng cáo và chi phí nghiên cứu phát triển.
Trong thực tế, các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ thường được các nhà
quản lý của TNC định giá sao cho tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp
trên bình diện toàn tập đoàn, đây chính là hành vi chuyển giá. Hành vi
này không chỉ tác động lên kết quả hoạt động của TNC mà còn tác động
lên ngân sách quốc gia. Để hạn chế hành vi chuyển giá, các quốc gia cần
áp dụng nguyên tắc dựa trên nguyên lý giá thị trường ALP (The Arm’s –
Length Principle) trong việc định giá các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ
nhằm đảm bảo tính công bằng trong thương mại. Nguyên tắc ALP chính
là cơ sở cho các nghiệp vụ mua bán, trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch
vụ giữa các quốc gia.Nguyên tắc này đòi hỏi các nghiệp vụ mua bán nội
bộ trong các TNC phải được thực hiện như các nghiệp vụ mua bán diễn
ra giữa các bên độc lập với nhau nhằm thể hiện được tính khách quan
của quan hệ thị trường.
Định giá chuyển giao và các phương pháp định giá chuyển giao:
Định giá chuyển giao là việc sử dụng các phương pháp để xác định giá
cả của các nghiệp vụ chuyển giao trong nội bộ một TNC phù hợp với
thông lệ quốc tế và được chấp nhận bởi các quốc gia nơi mà các công ty
con của TNC đang hoạt động.
Việc định giá chuyển giao là cần thiết cho công tác quản trị của các
thành viên trong các TNC, nhưng khi giá chuyển giao nội bộ cao hơn
hay thấp hơn giá thị trường thì xảy ra hoạt động chuyển giá, đồng thời
đây cũng là phương pháp giúp chính phủ xác định xem các TNC có thực
hiện chuyển giá hay không.
+)Phương pháp giá tự do có thể so sánh được (Comparable Uncontrolled
Price
Method -CUP)
Nội dung: so sánh giá cả phải trả cho các hàng hoá hoặc dịch vụ được
chuyển giao
trong một nghiệp vụ chuyển giao có kiểm soát với giá cả phải trả cho
các hàng hoá và
dịch vụ chuyển giao trong một nghiệp vụ chuyển giao tự do có thể so
sánh được.
Cơ sở: thực hiện nguyên tắc giá thị trường (tức là dựa trên quan hệ
không quen biết).
Nếu có sự khác biệt không lớn lắm giữa các nghiệp vụ chuyển giao của
bên có liên kết với bên không liên kết, có thể làm ảnh hưởng đến giá cả
giao dịch như: chất lượng hàng hoá, nhãn hiệu hàng hoá, điều kiện giao
hàng, thời hạn chuyển giao, quan hệ thanh toán, có thể thực hiện phương
pháp “CUP được điều chỉnh”. Phương pháp CUP có điều chỉnh sẽ không
thực hiện được khi có những sự khác biệt trong các nghiệp vụ chuyển
giao giữa các bên có liên kết và không liên kết mà việc điều chỉnh rất
khó thực hiện, hoặc không thực hiện được. Những sự khác biệt đó bao
gồm: khác biệt về chất lượng sản phẩm; khác biệt thị trường về mặt địa
lý; khác biệt về cấp độ thị trường; khác biệt về số lượng và loại tài sản
vô hình liên quan đến việc bán hàng
+)Phương pháp cộng thêm chi phí (Cost plus method - CPM)
Phương pháp giá vốn cộng thêm chi phí dựa vào giá vốn (hoặc giá
thành) của sản phẩm do doanh nghiệp mua vào từ bên độc lập để xác
định giá bán ra của sản phẩm đó cho bên liên kết.
Giá bán ra của sản phẩm cho bên liên kết được xác định trên cơ sở lấy
giá vốn (hoặc
giá thành) của sản phẩm cộng (+) lợi nhuận gộp.
Lợi nhuận gộp được tính theo tỷ suất lợi nhuận gộp trên giá vốn (hoặc
giá thành) sản phẩm bán ra, phản ánh mức lợi nhuận hợp lý tương ứng
với chức năng hoạt động của doanh nghiệp và điều kiện thị trường. Mức
lợi nhuận này phải được tính toán sao cho giá cả chuyển giao trong
nghiệp vụ này có thể so sánh căn bản với giá thị trường trong các nghiệp
vụ mua bán chuyển giao giữa một công ty là thành viên của TNC và một
công ty độc lập hoặc là giao dịch giữa hai công ty hoàn toàn độc lập với
nhau.
Điều quan trọng là tính phần lợi nhuận tăng thêm bao nhiêu là hợp lý.
Phần lợi nhuận
tăng thêm này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
•Nếu công ty này chỉ sản xuất và thực hiện mua bán theo hợp đồng cho
chỉ mỗi
công ty mẹ và không gia công cho bất cứ công ty nào khác thì phần lợi
nhuận tăng thêm
này sẽ được tính theo một tỷ lệ trên giá vốn sao cho hợp lý.
•Nếu công ty sản xuất ra sản phẩm vừa bán cho công ty mẹ và công ty
độc lập khác
thì phần lợi nhuận tăng thêm sẽ được phân bổ theo tỷ lệ tổng vốn tham
gia vào quá trình sản xuất sản phẩm. Bên cạnh đó, còn phải so sánh giá
cả hàng hóa dịch vụ trong nghiệp vụ mua bán nội bộ và nghiệp vụ mua
bán với công ty độc lập
•Thêm vào đó, một số yếu tố như chức năng hoạt động của cơ sở kinh
doanh sẽ kéo
theo một số các chi phí kèm theo sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ lãi gộp .
• Các nghĩa vụ thực hiện hợp đồng như các ràng buộc giao hàng về thời
gian, số
lượng và chất lượng sản phẩm, lưu kho, lưu bãi…
Phương pháp này thường được áp dụng trong một số trường hợp sau:
•Đối với công ty sản xuất, chế biến, lắp ráp, chế tạo và bán cho các bên
liên kết, gia
công chế biến và phân phối
Giao dịch giữa các bên liên kết thực hiện hợp đồng liên doanh, hợp đồng
hợp tác kinh doanh để sản xuất, lắp ráp, chế tạo, chế biến sản phẩm hoặc
thực hiện các thỏa thuận về cung cấp các yếu tố đầu vào và bao tiêu sản
phẩm đầu ra.
•Giao dịch cung cấp dịch vụ các bên liên kết.
+)Phương pháp giá bán lại (Resale Price Method–RPM)
Phương pháp xác định giá bán lại dựa vào giá bán lại (hay giá bán ra)
của sản phẩm do doanh nghiệp bán cho bên độc lập để xác định giá mua
vào của sản phẩm đó từ bên liên kết.
Giá mua vào của sản phẩm từ bên liên kết được xác định trên cơ sở giá
bán ra của sản phẩm trong các giao dịch độc lập trừ (-) lợi nhuận gộp trừ
(-) các chi phí khác được tính trong giá sản phẩm mua vào (nếu có) (ví
dụ: thuế nhập khẩu, phí hải quan, chi phí bảo hiểm, vận chuyển quốc tế).
Tỷ suất lợi nhuận gộp trên giá bán ra (doanh thu thuần) được xác định
bằng giá trị chênh lệch giữa giá bán ra (doanh thu thuần) và giá vốn sản
phẩm mua vào chia cho (:) giá bán ra (doanh thu thuần). Trường hợp
doanh nghiệp có chức năng là đại lý phân phối không có quyền sở hữu
sản phẩm và được hưởng hoa hồng đại lý theo tỷ lệ phần trăm (%) trên
giá bán của sản phẩm thì tỷ lệ đó được coi là tỷ suất lợi nhuận gộp trên
giá bán ra (doanh thu thuần).
Các yếu tố ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất lợi nhuận gộp trên giá bán ra
(doanh thu thuần) như:
•Các chi phí phản ánh chức năng của doanh nghiệp (ví dụ: đại lý phân
phối độc quyền, thực hiện các chương trình quảng cáo, khuyến mại, bảo
hành...);
•Chủng loại, quy mô, khối lượng, thời gian quay vòng của sản phẩm
mua vào để bán lại và tính chất hoạt động của giao dịch trên thị trường
(ví dụ: bán buôn, bán lẻ, ...);
Phương pháp hạch toán kế toán (tức là phải đảm bảo các yếu tố cấu
thành lợi nhuận gộp và doanh thu của giao dịch liên kết và giao dịch độc
lập là tương đương nhau hoặc cùng được áp dụng chung các chuẩn mực
kế toán)
+)Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Split Method- PSM)
Phương pháp PSM được sử dụng trong những trường hợp, các TNC có
mối liên kết mua bán qua lại quá chặt chẽ, các giao dịch với khối lượng
lớn và phức tạp (với những trường hợp này, các phương pháp như CUP,
RPM tỏ ra không hiệu quả).
Phương pháp này dựa vào lợi nhuận thu được từ một giao dịch liên kết,
tổng hợp của nhiều thành viên trong TNC thực hiện, sau đó thực hiện
tính toán lợi nhuận cho từng thành viên tham gia liên kết giống như cách
các bên giao dịch độc lập phân chia lợi nhuận trong những điều kiện
tương đương.
Các giao dịch tổng hợp thường là các giao dịch đặc thù, duy nhất bao
gồm nhiều giao dịch liên kết có liên quan chặt chẽ về các đặc tính sản
phẩm.
Trong thực tế phương pháp chiết tách lợi nhuận thường được áp dụng
cho các trường hợp các bên liên kết cùng tham gia nghiên cứu và phát
triển sản phẩm mới hoặc phát triển sản phẩm là tài sản vô hình độc
quyền hoặc các giao dịch trong quy trình sản xuất, kinh doanh chuyển
tiếp giữa các bên liên kết từ khâu nguyên vật liệu đến thành phẩm cuối
cùng để lưu thông sản phẩm gắn liền với việc sỡ hữu hoặc quyền sỡ hữu
trí tuệ duy nhất.
+)Phương pháp so sánh lợi nhuận (Comparable profit method - CPM)
Phương pháp so sánh lợi nhuận là phương pháp mở rộng của phương
pháp giá bán lại và phương pháp giá vốn cộng lãi.Phương pháp này dựa
vào tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong các giao dịch độc lập được chọn
để so sánh làm cơ sở xác định tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong giao
dịch liên kết khi các giao dịch này có điều kiện giao dịch tương đương
nhau. Phương pháp này không cho ra kết quả về giá mà tính ra được thu
nhập huần trước thuế là cơ sở tính thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
và được áp dụng với một trong các điều kiện sau:
•Không có sự khác biệt về điều kiện giao dịch khi so sánh giữa giao dịch
độc lập và giao dịch liên kết gây ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất sinh
lời;
•Trường hợp có các khác biệt ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất sinh lời
nhưng các khác biệt này đã được loại trừ bằng cách xác định giá trị bằng
tiền của các khác biệt trọng yếu đó để điều chỉnh, tuỳ theo từng trường
hợp cụ thể có thể tăng hoặc giảm giá trị nhằm loại trừ các khác biệt
trọng yếu đó.
Các yếu tố ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất sinh lời như:
•Các yếu tố về tài sản, vốn và chi phí sử dụng cho việc thực hiện chức
năng chính của doanh nghiệp (ví dụ: sản xuất, chế biến trên cơ sở sử
dụng máy móc do doanh nghiệp đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao
hơn so với việc sản xuất, chế biến trên cơ sở sử dụng máy móc do cơ sở
khác cho thuê để gia công);
•Tính chất ngành nghề hoạt động, nhóm sản phẩm và công đoạn sản xuất
hoặc tiêu thụ (ví dụ: thành phẩm được làm từ nguyên vật liệu thô hoặc từ
bán thành phẩm);
•Phương pháp hạch toán kế toán và cơ cấu chi phí của sản phẩm (ví dụ:
sản phẩm đang trong giai đoạn khấu hao nhanh so với khấu hao thông
thường).
+)Phương pháp chuyển giao lợi nhuận ròng (Transactional Net Margin
Method- TNMM)
Theo phương pháp này thì lợi nhuận thu được từ các bên liên kết sau khi
đã trừ đi các định phí và biến phí liên quan, được xem xét theo tỷ lệ
phần trăm của một khoản mục cơ sở nào đó, ví dụ là doanh số bán hàng,
tổng giá vốn hàng bán ra hay tổng giá trị tài sản… thích hợp nhất là khi
lợi nhuận này được so sánh với lợi nhuận của các hoạt động giao dịch
độc lập khác có thể so sánh được của cùng công ty mà chúng ta đang đề
cập đến.
Trong trường hợp nếu không tồn tại các giao dịch độc lập có thể so sánh
đối với công ty con của TNC thì ta có thể lấy lợi nhuận thu được trong
các chuyển giao có thể so sánh được của hai công ty không liên kết khác
làm cơ sở. Trong một số trường hợp cần phải áp dụng các điều chỉnh
mang tính định lượng cho các khác biệt về mặt vật chất giữa các chuyển
giao liên kết và các chuyển giao độc lập. Do phương pháp này tập trung
vào phân tích lợi nhuận phát sinh từng nghiệp vụ chuyển giao một cách
riêng lẻ, nên phương pháp này sẽ bị gặp khó khăn khi các nghiệp vụ phát
sinh có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau. Các chuyển giao mang
tính chất đa dạng và phức tạp sẽ khó tìm được các giao dịch tương ứng
để có thể so sánh được.
1.2.2: Khái niệm hoạt động chuyển giá:
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa,
dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn
qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của
các công ty xuyên quốc gia (Train Nations Company) trên toàn cầu.
Các hình thức chuyển giá:
+)Tùy vào hoàn cảnh kinh doanh khác nhau mà các TNC sử dụng các
biện pháp khác
nhau để thực hiện chuyển giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi
toàn cầu.
a.Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn
Đầu tư dưới dạng liên doanh: việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm
cho phần vốn góp của bên phía có ý nâng giá trị góp vốn tăng, nhờ đó,
sự chi phối trong các quyết định liên quan đến hoạt dộng của dự án liên
doanh sẽ gia tăng và mức lời được chia sẽ tăng. Ngoài ra, khi dự án kết
thúc hoạt động thì tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn.
Đối với các công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài thì việc nâng tài sản
góp vốn sẽ giúp họ tăng mức khấu hao trích hàng năm, làm tăng chi phí
đầu vào. Việc tăng mức khấu hao tài sản cố định sẽ giúp chủ đầu tư:
• Nhanh hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư.
• Giảm mức thuế TNDN phải đóng cho nước tiếp nhận đầu tư
b.Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu…(tài
sản vô hình) Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà
đầu tư hết sức khó, lợi dụng việc này mà các TNC chủ ý thổi phồng
phần góp vốn bằng thương hiệu, công thức pha chế, chuyển giao công
nghệ… nhằm tăng phần góp vốn của mình lên. Một số trường hợp phía
góp vốn bằn tài sản vô hình có xuất trình gấy chứng nhận của công ty
kiểm toán nhưng độ tin cậy, trung thực của các giấy chứng nhận này rất
khó kiểm định.
c. Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ công
ty đối tác trong liên doanh với giá cao .
Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua
việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu.Ngoài ra, việc mua hàng nhập khẩu
với giá đắt làm chi phí sản xuất tăng, dẫn tới lợi nhuận chịu thuế TNDN
giảm.
d. Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính
và quản lý
Các công ty mẹ thường sử dụng các hợp đồng tư vấn hay thuê trung
gian. Một số đối tác liên doanh còn bị ép nhận chuyên gia với chi phí rất
cao nhưng hiệu quả lại thấp.Chi phí này phía liên doanh nước chủ nhà
gánh chịu.
Một số công ty thuê người quản lý doanh nghiệp FDI với lương cao,
ngoài ra còn phải trả một khoản tiền lớn cho công ty nước ngoài cung
cấp nhà quản lý. Ở một số trường hợp cũng có hiện tượng chuyển giá ở
khâu này khi công ty cung cấp nguồn nhân lực cũng là công ty con của
cùng một tập đoàn.
Một số trường hợp còn thực hiện chuyển giá thông qua hình thức đào tạo
ở nước ngoài: cử chuyên viên, công nhân sang học tập, thực tập tại công
ty mẹ với chi phí cao.
Một hình thức chuyển giá của công ty có vón FDI là trả lương, chi phí
cho chuyên gia tư vấn được gởi đến từ công ty mẹ.Loại hình tư ván này
rất khó xác định số lượng và chất lượng để xác định chi phí cao hay
thấp. Lợi dụng điều này, nhiều công ty FDI thựchiện hành vi chuyển giá
mà thực chất là chuyển lợi nhuận về nước dưới danh nghĩa là phí dịch vụ
tư vấn.
e.Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hóa
Khi thuế nhập khẩu cao thì công ty mẹ bán nguyên liệu, hàng hóa với
giá thấp nhằm tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều.Trong trường hợp này,
công ty mẹ sẽ tăng cường hoạt động tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ tiếp thị
với giá cao để bù đắp lại hoặc mua lại sản phẩm với giá thấp.Đối với
hàng hóa nhập khẩu mà thuế suất thấp, thì công ty ký hợp đồng nhập
khẩu với giá cao nhằm nâng chi phí để tránh thuế.
f. Chuyển giá thông qua hình thức tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công ty
mẹ
Bằng hình thức này, các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất
hợp lý như dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố
định và tài sản đầu tư dài hạn mà không tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu
nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao như chi phí chênh lệch tỷ
giá, chi phí lãi vay… và chuyển một phần lợi nhuận về nước dưới dạng
lãi vay, chi phí bảo lãnh vay vốn để tránh thuế, tránh lỗ do chênh lệch tỷ
giá về sau.
g.Chuyển giá thông các trung tâm tái tạo hóa đơn .
Trung tâm tái tạo hóa đơn đóng vai trò người trung gian giữa công ty mẹ
và các công ty con. Hàng hóa trên chứng từ hóa đơn thì được bán từ
công ty nơi sản xuất hàng hóa qua trung tâm tái tạo hóa đơn và sau đó
thì trung tâm này lại bán lại cho công ty phân phối bằng cách xuất hóa
đơn và chứng từ kèm theo. Thông qua việc này sẽ định vị lại loại ngoại
tệ của cả đơn vị sản xuất và trung tâm tái tạo hóa đơn. Nhưng trên thực
tế, hàng hóa được chuyển giao trực tiếp từ công ty sản xuất qua thẳng
công ty phân phối mà không qua trung tâm tái tạo hóa đơn. Hình thức
này thường xảy ra trong ngành dược phẩm.
1.3: Các yếu tố thúc đẩy TNC chuyển giá:
1.3.1: Các yếu tố bên trong:
Trong một số trường hợp khi TNC phạm phải các sai lầm trong kế hoạch
kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị
trường, các chi phí quảng cáo, quảng bá sản phẩm quá cao và hậu quả là
tình trạng thua lỗ của TNC tại chính quốc hay của các công ty thành viên
trên các quốc gia khác. Vì thế, để có một hình ảnh đẹp về tình hình tài
chính trước các cổ đông và các bên hữu quan khác, thì chuyển giá là một
giải pháp để có thể thực hiện được ý đồ trên. Chuyển giá giúp các TNC
chia sẽ việc thua lỗ với các thành viên, nhờ vậy các khoản thuế phải nộp
giảm xuống và tình hình kinh doanh trở nên sáng sủa hơn một cách giả
tạo vi phạm pháp luật các quốc gia.
Chiếm lĩnh được thị trường là một trong những tham vọng của các
TNC.Nhưng để làm được điều đó, TNC phải đánh bật được các đối thủ
của mình, đồng thời chiếm toàn bộ quyền kiểm soát và quyền sở hữu
công ty.TNC thực hiện việc này bằng cách tăng cường các hoạt động
quảng cáo, quảng bá sản phẩm trong giai đoạn mới thâm nhập thị
trường, làm cho TNC bị lỗ nặng và kéo dài. Bằng nguồn lực tài chính
dồi dào của mình, các TNC thực hiện hành vi chuyển giá bất hợp pháp
để kéo dài tình trạng thua lỗ nhằm chiếm lấy quyền kiểm soát và quyền
quản lý công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi hoạt động kinh
doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát cũng như sở hữu công ty.Sau
khi chiếm lĩnh được thị trường, các TNC thực hiện nâng giá sản phẩm
để bù đắp cho phần lỗ lúc trước.Tình trạng này thường thấy ở các nước
đang phát triển như Việt Nam, khi mà trình độ quản lý còn nhiều yếu
kém.
Lợi dụng các đặc quyền, ưu đãi mà các quốc gia đưa ra trong chính sách
kêu gọi đầu tư của nước mình, TNC xem công ty con đặt tại các quốc
gia này như một nơi tập trung toàn bộ lợi nhuận của TNC, thực hiện
hành vi chuyển giá để lại hậu quả xấu cho nước tiếp nhận đầu tư.
Ngoài ra, các TNC còn thực hiện việc chuyển giá nhằm giảm thiểu rủi ro
khi giao dịch các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và
tính bảo mật cao như trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, dầu khí, y dược …
1.3.2: Các yếu tố bên ngoài:
Thuế: Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình, các TNC luôn tìm
kiếm một lợi thế từ thuế suất thuế TNDN của các quốc gia có mức thuế
suất khác nhau bằng các hành vi chuyển giá. Các thủ thuật thường sử
dụng là nâng giá mua đầu vào các nguyên vật liệu, hàng hóa và định giá
bán ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng tại các quốc gia
có thuế suất thuế TNDN cao. Nhờ vậy, các TNC đã chuyển một phần lợi
nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế TNDN cao sang quốc gia có thuế
suất thuế TNDN thấp, như thế các TNC đã thực hiện được mục tiêu tối
đa hóa lợi nhuận của mình. Nói tóm lại, sự khác biệt về thuế suất thuế
TNDN là động cơ lớn thúc đẩy chuyển giá.
Tỷ giá: • Với mục tiêu bảo toàn vốn ban đầu theo nguyên tệ, TNC rút
vốn đầu tư ở quốc gia mà họ kỳ vọng vào việc đồng tiền nước đó sẽ yếu
đi trong tương lai. Như vậy lúc này ngoài lợi nhuận thu được, TNC còn
thu được một khoản lợi nhuận chênh lệch do sự biến động có lợi về tỷ
giá.
•Với mục tiêu giảm rủi ro về tỷ giá, TNC sẽ thanh toán những khoản
công nợ sớm nếu họ dự báo rằng đồng tiền mà quốc gia họ đầu tư sẽ mất
giá trong tương lai.
Hoạt động liên doanh liên kết: Nhằm tăng cường tỷ lệ vốn góp trong
hoạt động liên doanh liên kết, TNC định giá thật cao các yếu tố đầu vào
từ công ty mẹ đẻ nắm quyền quản lý.
Lạm phát: TNC sẽ tiến hành chuyển giá ở các nước có tỷ lệ lạm phát cao
để bảo toàn số vốn đầu tư và lợi nhuận trong điều kiện đồng tiền nước
đang đầu tư bị mất giá.
Tình hình kinh tế - chính trị: TNC sẽ thực hiện chuyển giá để chống lại
các tác động bất lợi của các chính sách kinh tế ở nước đang đầu tư, mặt
khác hoạt động chuyển giá làm giảm các khoản lãi dẫn đến giảm áp lực
đòi tăng lương của lực lượng lao động.
1.4: Các tác động của chuyển giá:
1.4.1: Dưới góc độ của TNC:
- Xem thêm -