NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐH KINH TẾ KỸ THUẬT BÌNH DƯƠNG
----------
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN LÀ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CAO CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO CẠNH TRANH MÀ GIAI
ĐOẠN TỘT CÙNG CỦA NÓ LÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
NHÀ NƯỚC
Bình Dương, ngày 25 tháng 04 năm 2012
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao của xã hội
loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng xã
hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại
Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái
chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu
Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau
này hình thái chính trị - kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và
thế giới.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách một hình thái kinh tế)
từ chủ nghĩa phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy
nhiên A.Smithlà người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận
tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân
để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận thông
qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do, mọi sự phân chia của cải
đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh
tế.
Tiếp theo sau giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên
đến giai đoạn cao hơn đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước. Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực tiếp giai đoạn
tự do cạnh tranh trong cùng một phương thức sản xuất TBCN.
Đây là những nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của
chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với
những biến động trong tình hình thế giới từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
cho đến nay. Để hiểu hơn về vấn đề này, chúng ta sẽ đi nghiên cứu đề tài:
'' Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển cao của chư nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh,mà giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước”
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
NỘI DUNG
A.CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN LÀ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CAO CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO CẠNH TRANH.
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn là: chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh và chủ nghĩa tư bản độc quyền. Đây là hai giai đoạn nằm trong
cùng một phương thức sản xuất, chúng có bản chất giống nhau, chỉ khác nhau về
hình thức biểu hiện.
Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là giai đoạn đầu tiên của hình thái kinh tế
tư bản chủ nghĩa ( giai đoạn thấp), nó ra đời cùng với sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản , phát triển mạnh vào thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX.
Trong giai đoạn chủ nghĩa cạnh tranh tự do, giữa các nhà tư bản trong một
ngành và giữa các ngành diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt, quyết liệt.
Cạnh tranh giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế.
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mac và ph Ăngghen đã dự báo
rằng: cạnh tranh tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung
sản xuất phát triển đến môt mức nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử
mới của thế giới,V.I.Lenin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã bước sang
giai đoan mới là chủ nghĩa tư bản độc quyền với các đặc điểm kinh tế cơ bản có
những nét khác biệt với chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền và nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa
tư bản từ cạnh tranh tự do sang độc quyền
a) CNTB độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như
một sự tất yếu, phù hợp với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác,
điều kiện hoàn cảnh thế giới mới, quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đối với sự phát
triển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
b) Nguyên nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ cạnh
tranh tự do sang độc quyền
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ khoa học
kỹ thuật, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó đã là những
ngành có trình độ tích tụ cao, đó là những xí nghiệp lớn đòi hỏi những hình thức
kinh tế tổ chức mới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, những thành tựu của khoa học kỹ thuật
mới xuất hiện như lò luyện kim mới Bétsơme, Máctanh, Tômát,đã tạo ra sản
lượng lớn gang thép với chất lượng cao, phát hiện ra hóa chất mới như axít
sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm, máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy
phát điện, máy tiện, máy phay…, phát triển những phương tiện vận tải mới: xe
hơi, tàu thủy, xe điện, máy bay…, đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa
học - kỹ thuật này một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí
nghiệp phải có quy mô lớn, mặt khác nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng
khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
Trong điều kiện phát triển của khoa học – kỹ thuật, sự tác động của các quy
luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư,quy luật tích
lũy… ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo
hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Sự phát triển của cạnh tranh, một mặt buộc các nhà Tư Bản phải cải tiến kỹ
thuật, tăng qui mô tích lũy. Mặt khác, đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình
độ kỹ thuật kém, hoặc bị các đối thủ mạnh thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau
để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn
nắm địa vị thống trị một ngành hay trong một số ngành công nghiệp.
Khủng hoảng kinh tế năm 1873 làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phả
sản. Một số sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó
thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
Hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy
tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
sự
ra
đời
của
các
tổ
GVHD: ĐỖ THẮNG
chức
đôc
quyền.
Những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ lại tiếp tục
cạnh tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu
hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên, ta có thể khẳng định: " cạnh tranh tự do đẻ ra tập
trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ
nhất định, lại dẫn đến độc quyền." - (trích lời của V.I.Lenin)
2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản đôc quyền:
Xét về bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới
của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng
chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản
chất của chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là
một hình thái biến tướng của quy luật giá trị thặng dư.
a)Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền
là đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp
lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn ¾ tổng số máy hơi
nước và điện lực, gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa
tổng số sản phẩm.Sự tích tụ và tập trug sản xuất đến mức cao như vậy đã trực
tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít
các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thỏa hiệp với nhau; măt khác, các xí nghiệp
có quy mô lớn , kỹ thuật cao nên cạnh tranh gay gắt quyết liệt. Do đó đã dẫn đến
khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm độc quyền.
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
''Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tậptrung
vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó
nhằm mục đích thu đượclợi nhuận độc quyền cao.''
Khi bắt đầu chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền hoá thì hình thức thống trị
là công ty cổ phần. Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự
liên kết ngang ( cùng ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.
Sau đó là sự liên kết dọc. Sự liên kết này không chỉ các xí nghiệp lớn mà cả các
Xanhđica, Trớt thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về kinh
tế - kỹ thuật dẫn đến hình thành các công ty độc quyền lớn như: Côngxoocxiom.
Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa
ngành hình thành các công ty lớn như: Cônglômêrát, Consơn thâu tóm nhiều
công ty xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp khác nhau.
Vị trí, vai trò của cá tổ chức độc quyền: Nhờ nắm được địa vị thống trị
trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra
giá cả độc quyền.
Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả sản
xuất:
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa
bán
ra.
* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa
mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền.
Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và
quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi toàn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn
bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa và
nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.
Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị,
nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại song
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời đại Đế
quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ tự do cạnh tranh về
mức
độ
và
hình
thức.
b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành ngân
hàng cũng diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức độc quyền
ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như
trong
công
nghiệp.
Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò của
ngân hàng, cũng như quan hệ giữa ngân hàng và tư bản công nghiệp.
Ở CNTB tự do cạnh tranh, ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thanh toán và
tín dụng thì nay ngân hàng đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có
quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp
vay và nhận gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp tring một
thời gian dài, nên lợi ích của chúng quyện chặt vào nhau. Hai bên đều quan tâm
đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau, hình thành nên TB tài
chính.
'' tư bản tài chính là kêt quả của của sự hợp nhất của tư bản ngân hàng của một
số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền
các
nhà
công
nghiệp''
Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TB. Đó
chính
là
bọn
đầu
sỏ
tài
chính.
Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự"
với số phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty mẹ) → chi phối
công ty con → chi phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng một số TB nhất định
một đầu sỏ tài chính chi phối được những lĩnh vực sản xuất.
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
Ngoài ra bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như: lập công ty mới,
phát hành trái khoán, đấu cơ ruộng đất,.... để thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Những hình thức biến tướng của ngân hàng, sự xuất hiện tư bản tài chính, đầu
sỏ tài chính là một sự khác biệt, sự phát triển về cách thức thu lợi nhuận cũng
như khống chế và điều tiết tư sản so với trong cạnh tranh tự do. Sự thống trị của
bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt, chạy đua
vũ trang..v..v.nhằm áp bức bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.
c) Xuất khẩu tư bản:
V.I.Lenin chỉ ra rằng: xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư
bản
độc
quyền.
- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và
giá
trị
thặng
dư.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác
ở các nước nhập khẩu tư bản đó.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,xuất khẩu tư bản là tất yếu:
Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản", các nước phát triển đã
tích lũy được môt khối lượng tư bản lớn, cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận
so
với
đầu
tư
ở
trong
nước.
trong khi đó, giá trị nguyên liệu và nhân công ở các nước chậm phát triển rẻ,
nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật nên tỷ suất lợi nhuận cao, hấp dẫn đầu tư tư bản
và có thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng lớn.
Có hai hình thức xuất khẩu tư bản chủ yếu
- Xuất khẩu tư bản trực tiếp: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp KD thu lợi
nhuận,....
- Xuất khẩu tư bản gián tiếp: Cho vay tư bản để thu lợi tức….
Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc biệt
là đối với các nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc về kinh tế, dẫn
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
tới lệ thuộc về chính trị. Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị,
bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn cầu.
d) Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền
quốc
tế
Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến
việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư TB,
phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền quốc tế với nhau... Từ
đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế: Cacten, Xanhđica, Trớt quốc tế.
Nhưng giữa cac tổ chức này luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu
dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế.
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng
lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn đến sự phân chia thế giới về mặt kinh
tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ rằng thi trương trong
nước luôn gắn với thị trường ngoài nước.
nếu như ở cntb cạnh tranh tự do, thị trươmg trong nước được coi trọng hơn thì
đăc biệt trong cntb độc quyền, thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng với các nước đế quốc. V.I.Lenin nhận xét " Bọn tư sản chia nhau
thế giới không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng mà do sự tập trung đã tới
mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời"
e) Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm
chiếm thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ
cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Do
tác động đó, đặc biệt là do tác động của quy luật phát triển không đều của CNTB
đó là những nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và
lần thứ hai, cũng như các cuộc xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới hiện
nay...
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
Sự phân chia thê giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc
phân chia thế giới về lãnh thổ. Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu
càng thiếu thốn, sự cạnh tranh cằng gay gắt thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc
địa
trên
thế
giới
càng
quyết
liệt
hơn.
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ
với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về măt kinh tế là sự thống trị
của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.
3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
a) Quan hệ giữa độc quyền và tự do cạnh tranh trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản độc quyền.
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự
do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không làm thủ tiêu cạnh tranh tự do, trái
lại, nó còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn
hơn.
Quan hệ cạnh tranh trong cntb độc quyền phát triển hơn so với trong cntb
cạnh tranh tự do. ở đây không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những người sản
xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong cạnh tranh tự do mà có
thêm các loại cạnh tranh:
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền. các
tổ chức độc quyền tìm cách chèn ép . chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc
quyền bằng nhiều biện pháp để đánh bại đối thủ.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Có thể trong cùng một ngành,
các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về nguồn nguyên nhiên liệu...
kết thúc bằng sự phá sản của một bên, hoặc là sự thỏa hiệp.
- Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Nhằm giành thị trường tiêu
thụ, chiếm cổ phiếu khống chế....
b) quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ
nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới
nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự
tiếp tục mở rộng,phát triển những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và
nền sản xuất hàng hóa nói chung, nên nó cũng làm cho các quy luật kinh tế của
nền sản xuất hàng hóa và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả
độc quyền, thấp hơn khi mua và cao hơn khi bán. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị không còn
hoạt động. về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định
cơ sở của nó là giá trị.
Nếu trong chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện tành
quy luật giá cả sản xuất, thì trong chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị
biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng dư
biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
''Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tình theo % giữa tổng giá trị thặng dư và
tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa''
Thì bước sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các tổ chức độc quyền
thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận đọc quyền
cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao là hình thức biểu hiện của quy luật
giá trị thặng dư trong giai đoạn cntb độc quyền. quy luật này phản ánh quan hệ
bóc lột và thống trị của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã
hội tư bản và trên toàn thế giới.
B. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐÔC QUYỀN NHÀ NƯỚC LÀ GIAI ĐOẠN
PHÁT TRIỂN TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, V.I.Lenin đã chỉ rõ:" chủ nghĩa tư bản độc quyền
chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu"
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
Căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã đạt được vào
thời kỳ cuối XIX đầu XX, xu hướng tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất,
những hạn chế của quan hệ sở hữu tư nhân TBCN đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, tác động của quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa...ta có thê thấy rằng cntb độc quyền sẽ phát triển lên một
nấc
thang
cao
hơn
là
CNTB
độc
quyền
nhà
nước.
1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước
a) Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Một là, Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của nền kinh
tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hoá của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi phải
có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập
trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công cụ khác nhau để can thiệp.
Do đó đòi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản
xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa tư
bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Hai là, Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một
số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn
kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận (như giao thông vận
tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản...). Nhà nước tư sản trong khi đảm
nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư
nhân
kinh
doanh
các
ngành
khác
có
lợi
hơn.
Ba là, Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giai
cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhân dân lao động. Nhà nước phải có
chính sách để giải quyết những mâu thuẫn đó: Trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu
nhập
quốc
dân,
phat
triển
phúc
lợi
xã
hội.
Bốn là, Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh
doanh vừa và nhỏ….trở nên gay gắt.
Năm là, Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của
các tổ chức liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân
tộc và xung đột lợi ích giữa các đối thủ trên thị trường thế giới. Đòi hỏi có sự
điều tiết các quan hệ chính trị, kinh tế quốc tế của nhà nước tư sản. Nhà nước tư
sản
có
vai
trò
quan
trọng
để
giải
quyết
các
quan
hệ
đó.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với CNXH
hiện thực và tác động của cách mạng khoa học- công nghệ, đòi hỏi có sự can
thiệp
trực
tiếp
của
nhà
nước.
b) Bản chất
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một nấc thang phát triển của CNTB
độc quyền, là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức
mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục
vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho CNTB
Xét về bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản,
chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù đã có nhiều thay đổi so với
chủ nghĩa tư bản thời kỳ canh tranh tự do.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, nhưng nó vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc
quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ
nghĩa tư bản độc quyền thời kỳ đầu. Nó là sự thống nhất của 3 quá trình gắn bó
chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can
thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế độc quyền tư nhân với
sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước
phụ thuộc vào ác tổ chức độc quyền.
Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành
một tập thể tư bản khổng lồ. nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường.
Nhưng nó vẫn có những điểm khác biệt: ngoài chức năng một nhà tư bản thông
thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp: cảnh sát,
quân đội, nhà tù....
Ở đây nhà nước tư bản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư
bản xã hội, đồng thời lại là người quản lý xã hội bằng pháp luật với bộ máy bạo
lực
to
lớn.
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội, chứ không chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của
chủ
nghĩa
tư
bản.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự điều tiết
của nhà nước về kinh tế. trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, nhà nước tư
sản ở bên trên,bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở
việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Nhưng trong chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước, vai trò của nhà nước có sự thay đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản
xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí
nghiệp
thuộc
khu
vực
kinh
tế
nhà
nước...
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh
tế mới so với chủ nghĩa tư bản, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với
chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là chủ
nghĩa tư bản độc quyền có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự
kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó
thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi
thích hợp đối với xã hội đó. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh,
nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ
dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản độc quyền vai trò của nhà nước tư sản dần dần co sự biến đổi,
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế và phấp luật mà còn có
vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho
chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
2. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước so
với chủ nghĩa tư bản độc quyền cũ
Xét về phương diện lịch sử, chủ nghĩa tư bản vào thế kỷ XX trở lại đây đã có
những biến đổi sâu sắc, có thể coi như một bước phát triển mới của chủ nghĩa tư
bản
độc
quyền
nhà
nước.
a) Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc
quyền
- Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền:
Sự xuất hiện ngày càng nhiều những công ty độc quyền xuyên quốc gia bên
cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của các consơn
và cônglômêrát ngày càng được tăng cường. Cách mạng khoa học công nghệ
dường như biểu lộ thành hai xu hướng đối lập nhau nhưng thực ra là thống nhất
với nhau: xu hướng tập trung và phi tập trung hóa. Sự xuất hiện nhiều doanh
nghiệp
vừa
và
nhỏ
là
do:
Thứ nhất: việc ứng dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công
nghệ cho phép tiêu chuẩn hóa và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng,
dẫn tới hình thành hệ thống gia công, nhất là trong những ngành sản xuất ô tô,
máy bay, đồ điện, cơ khí, dệt, may mặc, đồ trang sức, xây dựng nhà ở.
Nhìn bề ngoài, dường như đó là hiện tượng "phi tập trung hóa", nhưng thực
chất đó chỉ là một biểu hiện mới của sự tập trung sản xuất, trong đó các hãng
vừa và nhỏ lệ thuộc và chịu sự chi phối của các chủ hãng lớn về công nghệ, vốn,
thị
trường,
v.v..
Thứ hai: những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
trường.
Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất, linh
hoạt ứng phó với tình hình biến động của thị trường, mạnh dạn trong việc đầu tư
vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm, kể cả những ngành lúc đầu ít lợi
nhuận và những ngành sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá biệt. Các doanh nghiệp
nhỏ dễ dàng đổi mới trang bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung.
- Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của
TBTC
Thích ứng với sự biến đổi mới, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư
bản tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và
thâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Ngày nay,
phạm vi liên kết được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn tài chính
thường tồn tại dưới hình thức những tổ hợp đa dạng kiểu công - nông - thương tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự dịch vụ quốc phòng. Vai trò kinh tế và
chính trị của tư bản tài chính ngày càng lớn, không chỉ trong khuôn khổ quốc gia
mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước khác trên thế giới. Trùm tài chính
không chỉ tăng cường địa vị thống trị về kinh tế mà còn tăng cường sự khống
chế và lợi dụng chính quyền nhà nước.
Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh
tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và
xuyên quốc gia, tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào các
nước khác, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế đã dẫn đến sự ra đời các trung tâm
tài chính của thế giới như: Nhật Bản, Mỹ, Cộng hoà Liên bang Đức, Hồng
Kông, Singapo...
- Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của tư bản độc quyền nhưng quy mô, chiều
hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới
Có sự tăng trưởng rất nhanh của việc xuất khẩu tư bản của các nước tư bản
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
phát triển. Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản ngày càng lớn, một mặt,
là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc đẩy sự phát triển của
việc phân công quốc tế, việc quốc tế hoá sản xuất và việc tăng nhanh tư bản "dư
thừa"ở các nước; mặt khác là do sự tan rã của hệ thống thuộc địa cũ sau chiến
tranh.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước kia,
luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang các
nước kém phát triển (khoảng 70%). Nhưng từ sau những năm 70 của thế kỷ XX,
3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các nước phát triển, mở đầu bằng việc tư
bản
quay
trở
lại
Tây
Âu.
Từ những năm 70, của thế kỷ XX đại bộ phận dòng tư bản lại chảy qua chảy lại
giữa các nước tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau. Nguyên nhân chủ yếu của
sự chuyển hướng đầu tư nói trên là:
+ Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong tình
hình chính trị thiếu ổn định; thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi; thiếu
đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học - kỹ thuật, trình độ dân trí thấp không đủ
mức
cần
thiết
để
tiếp
nhận
đầu
tư
nước
ngoài.
+ Về phía các nước TBCN phát triển, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch vụ mới, nhất là những ngành
có hàm lượng khoa học cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu tư vào nghiên cứu
KH-KT và sản xuất. Có một sự di chuyển vốn trong nội bộ các công ty độc
quyền xuyên quốc gia. Các công ty này cắm chi nhánh ở nhiều nước, nhưng
phần lớn chi nhánh của chúng đặt ở các nước TBCN phát triển. Để vượt qua
những hàng rào bảo hộ mậu dịch và khắc phục những trở ngại do việc hình
thành các khối liên kết như EU, NAFTA... các công ty xuyên quốc gia đã đưa tư
bản vào trong các khối đó để phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan... đã vượt qua
cả lệnh cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn họ
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
đầu tư thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam, đó là bằng chứng rõ rệt chứng
minh cho xu hướng trên. Sở dĩ như vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những
kim loại quý hiếm vẫn đang là "gót chân Asin" của nền kinh tế các nước TBCN
phát triển, trong khi đó các nước đang phát triển giàu tài nguyên lại thiếu vốn và
kỹ thuật để khai thác.
- Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản:
Xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực
hóa nền kinh tế. Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền
xuyên quốc gia tăng lên càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và
sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc
hình
thành
CNTB
độc
quyền
nhà
nước
quốc
tế.
Cùng với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế lại diễn ra
hiện tượng khu vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh tế khu vực
như: Liên hợp châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), Diễn
đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC)... Ngày càng có nhiều
nước tham gia vào các Liên minh Mậu dịch tự do (FTA) hoặc các Liên minh
Thuế quan (CU).
( FTA là khu vực trong đó các nước thành viên cam kết xoá bỏ hàng rào
thuế quan đối với hàng hóa của nhau.
CU là liên minh trong đó các nước thành viên có mức thuế chung đối với
hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài khối)
Các liên minh kinh tế khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có nhiều ưu thế
hơn so với tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu.
- Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình
thức cạnh tranh và thống trị mới
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân
mới đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc
công khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện "Chiến
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
lược biên giới mềm", ra sức bành trướng "biên giới kinh tế" rộng hơn biên giới
địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công
nghệ
đi
đến
sự
lệ
thuộc
về
chính
trị
vào
các
cường
quốc.
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng
lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương mại,
những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộc
đụng độ đó là các cường quốc đế quốc. Những cuộc tấn công của Mỹ và đồng
minh vào Afganixtan, Irắc... chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc vẫn là một đặc điểm
trong
giai
đoạn
phát
triển
hiện
nay
của
chủ
nghĩa
tư
bản.
Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, CNTB đôc quyền nhà nước
trong giai đoạn hiện nay vẫn là CNTB độc quyền. Những biểu hiện mới đó
chỉ là sự phát triển của năm đặc điểm cơ bản của CNTB độc quyền mà thôi.
3. Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có những biểu
hiện
mới
sau
đây:
- Các hình thức của kinh tế thuộc nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
ngày càng trở nên đa dạng: nó vừa bao gồm các xí nghiệp thuộc nhà nước trong
các ngành sản xuất vật chất, vừa bao gồm các tổ chức tài chính thuộc ngân hàng,
ngành kinh tế thứ ba (dịch vụ), cùng những công trình cơ sở hạ tầng xã hội mới
xây
dựng
do
nhà
nước
TBCN
đầu
tư.
- Kinh tế thuộc nhà nước và tư nhân kết hợp tăng lên mạnh mẽ: Năm
1979, trong 40 công ty công nghiệp lớn nhất của Tây Âu có 7 công ty hỗn hợp
vốn giữa nhà nước và tư nhân, trong đó vốn nhà nước chiếm khoảng một nửa.
Trong công ty dầu lửa của Mỹ, cổ phần do Chính phủ nắm là 46%. ở Cộng hoà
Liên bang Đức đã có 1.000 xí nghiệp thuộc Nhà nước và tư nhân kết hợp.
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước TB phát triển dùng để điều tiết quá trình tái
sản xuất xã hội tăng lên nhiều : Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, khoản chi
này chiếm khoảng 10% tỷ trọng tổng giá trị sản phẩm quốc dân, thì đến đầu
Lớp: DE11KT163
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
GVHD: ĐỖ THẮNG
những năm 1980, khoản chi này đã chiếm hơn 30%, cá biệt có nước vượt quá
50%.
-Phương thức điều tiết của nhà nước cũng thay đổi một cách linh hoạt, mềm dẻo
hơn, kết hợp điều tiết tình thế với điều tiết dài hạn. Các công cụ và phạm vi điều
tiết của nhà nước cũng đa dạng và mở rộng hơn.
4. Sự biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay
và hành động của chúng ta
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản luôn tìm cách thích nghi trước sự
biến đổi nhanh chóng, phức tạp của các mối quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế,
nhưng bản chất của chúng vẫn không thay đổi. Bởi vậy, trong quá trình mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải đề cao cảnh giác, chủ động chống lại âm
mưu "diễn biến hòa bình", ra sức phát huy nội lực và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa tư bản ra đời cách đây hơn 500 năm và có bốn lần thay đổi lớn.
Vào giữa thế kỷ thứ XVIII, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất nổ
ra, chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và thương nghiệp chuyển thành chủ nghĩa tư
bản công nghiệp và tự do cạnh tranh. Cuối thế kỷ thứ XIX, cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật lần thứ hai xuất hiện, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền. Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới vào những năm 30 của thế kỷ XX và rõ nhất là sau chiến tranh thế giới thứ
hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước. Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã dẫn đến toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên
quốc gia.
Cùng với sự phát triển của các công ty độc quyền xuyên quốc gia và toàn
cầu hóa nền kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản tổ chức ra Quỹ tiền tệ quốc tế,
Ngân hàng thế giới và các thỏa thuận về thuế quan. Do nhu cầu điều chỉnh quan
hệ thương mại nên ngay từ năm 1948, các nước tư bản đã tổ chức ra Hiệp định
Lớp: DE11KT163
- Xem thêm -