VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HƢƠNG
CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HƢƠNG
CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số
: 60.34.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN CHIẾN THẮNG
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp, tôi đã cơ hội được học
hỏi thêm nhiều kiến thức, kỹ năng mới và được tạo điều kiện nghiên cứu sâu một
vấn đề mà mình quan tâm. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các Khoa,
Phòng và Quý Thầy Cô giáo trong Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình giúp đỡ tôi
hoàn thành Luận văn tốt nghiệp của mình.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS.Nguyễn Chiến
Thắng, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và trách
nhiệm.
Tôi cũng xin được cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn này.
Mặc dù tôi đã rất cố gắng nhưng trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn
không tránh khỏi thiếu sót; kính mong nhận được sự góp ý của Quý Thầy, Cô giáo
và bạn bè, đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn thạc sỹ
chính sách công "Chính sách xuất khẩu lao động từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Thị Thu Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG .................................................................................................. 7
1.1. Xuất khẩu lao động .............................................................................................. 7
1.2. Chính sách xuất khẩu lao động .......................................................................... 14
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2011-2016 ....... 32
2.1. Khái quát chung về tỉnh Quảng Nam ................................................................. 32
2.2. Chính sách xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn
2011-2016.................................................................................................................. 33
2.3. Thực trạng XKLĐ của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2011-2016 ................ 42
2.4. Đánh giá chính sách XKLĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn
2011-2016.................................................................................................................. 46
CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ................................................................ 62
3.1. Nhu cầu, mục tiêu định hướng hoàn thiện chính sách xuất khẩu lao động trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2017 - 2020 ....................................................... 62
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách xuất khẩu lao động .................................. 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
1
CNH
Công nghiệp hóa
2
HĐH
Hiện đại hóa
3
HĐND
Hội đồng nhân dân
4
KT-XH
Kinh tế - Xã hội
5
LĐ
Lao động
6
LĐ-TB&XH
Lao động - Thương binh và Xã hội
7
UBND
Ủy ban nhân dân
8
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
9
XKLĐ
Xuất khẩu lao động
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1:
Kết quả XKLĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn
2011-2016
Trang
43
2.2:
Mức phụ cấp tu nghiệp sinh Quảng Nam tại Nhật Bản
44
2.3:
Lương cơ bản ở một số ngành nghề tại Hàn Quốc
45
2.4:
Lương cơ bản một số ngành nghề tại Malaisia
45
2.5:
Lương cơ bản ở một số ngành nghề tại Đài Loan
46
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Nam là một tỉnh có dân số đông (gần 1,5 triệu người), LĐ chưa có việc
làm và thiếu việc làm còn nhiều, LĐ nông - lâm - ngư nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng
lớn trong cơ cấu LĐ (năm 2016, chiếm 48,12%), tỷ lệ hộ nghèo còn cao (năm 2016 là
11,13%); vì vậy, cho đến nay XKLĐ vẫn là giải pháp quan trọng trong công tác giải
quyết việc làm, giảm nghèo bền vững của tỉnh.
Với hệ thống chính sách về XKLĐ ngày càng hoàn thiện, chặt chẽ, đồng bộ phù
hợp với điều kiện phát triển KT-XH của đất nước cũng như xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta và thị trường LĐ quốc tế; công tác quản lý, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người LĐ Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
ngày càng được bảo đảm. Trong giai đoạn 2011-2016, đồng thời với chính sách
XKLĐ của Trung ương, tỉnh Quảng Nam đã ban hành chính sách của địa phương
nhằm hỗ trợ giải quyết các vấn đề mang tính đặc thù trong đặc điểm nguồn LĐ ở tỉnh
góp phần đẩy mạnh công tác XKLĐ trên địa bàn tỉnh. Quá trình triển khai thực hiện
các chính sách XKLĐ trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã góp phần nâng cao
nhận thức của các cấp chính quyền, gia đình và bản thân người LĐ về tầm quan trọng
của XKLĐ; người LĐ ngày càng chủ động, tích cực tìm kiếm việc làm phù hợp trong
và ngoài nước; nhìn chung, tình hình thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người
LĐ tham gia XKLĐ và gia đình họ đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, số lượng LĐ
của tỉnh đi làm việc ở nước ngoài chưa nhiều; trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến thức
ngoại ngữ, sức khỏe và ý thức tổ chức kỷ luật của người đi XKLĐ còn nhiều hạn chế
chưa tương xứng với tiềm năng về LĐ của tỉnh và nhu cầu, yêu cầu tỉnh Quảng Nam đặt ra
đối với công tác XKLĐ.
Thực tế cho thấy rằng, vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn trong quá trình tổ chức
triển khai thực hiện công tác này ở tỉnh; các chính sách XKLĐ (của Trung ương, của
tỉnh Quảng Nam) vẫn còn có những hạn chế, bất cập khi triển khai vào thực tiễn địa
phương... Tuy đã có những quan điểm, chủ trương chỉ đạo đúng đắn nhưng do việc hoạch
định chính sách XKLĐ chưa gắn kết chặt chẽ với thực tiễn nên một số nội dung trong
1
cơ chế, chính sách chưa phù hợp; một số cơ chế, chính sách cần có nhưng chưa ban
hành hoặc chậm ban hành; các thủ tục hành chính thanh toán các khoản hỗ trợ chi phí
XKLĐ, cho vay nguồn vốn phục vụ việc đi XKLĐ của người LĐ hoặc thanh toán chi
phí đào tạo nghề cho doanh nghiệp tham gia các chương trình dự án XKLĐ còn rườm
rà, phức tạp... Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở một số địa phương trên
địa bàn tỉnh về XKLĐ chưa đầy đủ do đó chưa tích cực chỉ đạo, triển khai thực hiện
công tác này; năng lực quản lý của cán bộ làm công tác XKLĐ tại các địa phương
chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; việc lồng ghép các chính sách hỗ trợ việc làm của Nhà
nước để khuyến khích người LĐ, cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp tham gia XKLĐ chưa
được quan tâm thực hiện...
Tình hình trên đòi hỏi cần phải nghiên cứu, hoàn thiện chính sách XKLĐ; đồng
thời, điều chỉnh quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách một cách hợp lý để
công tác XKLĐ của tỉnh đạt kết quả cao hơn, từ đó có những đóng góp tích cực vào
kết quả giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh. Các chính sách
XKLĐ hiện nay cần phải được rà soát, đánh giá lại một cách toàn diện nhằm hạn chế
sự chồng chéo, dàn trải, thiếu khả thi, kém hiệu quả. Quá trình tổ chức thực hiện cũng
cần xác định lại để phát huy những mặt tích cực; điều chỉnh, sửa đổi những mặt còn
hạn chế. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan và năng lực thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ làm công tác XKLĐ cũng cần xem xét, đánh giá một cách
khách quan hơn. Việc đổi mới phương pháp đánh giá chính sách XKLĐ nhằm giúp
các cấp, các ngành liên quan xác định đúng các bất cập của chính sách trong đời sống
KT-XH, nhìn nhận lại năng lực thể chế và năng lực thực thi chính sách từ đó có giải
pháp khắc phục là hết sức cần thiết. Hoàn thiện chính sách XKLĐ vừa là nhu cầu, vừa
là yêu cầu đặt ra đối với các cấp, các ngành liên quan và các địa phương nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện công tác này trong tình hình mới.
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề "Chính sách xuất khẩu lao động từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam" làm đề tài tốt nghiệp của mình với mong muốn củng cố lại
cơ sở lý luận về XKLĐ, làm rõ hơn cơ sở lý luận về chính sách XKLĐ; hệ thống lại
các cơ chế, chính sách đã và đang triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn
2011-2016; cung cấp thêm cho các cấp, các ngành chức năng một góc nhìn tương đối
2
tổng hợp về tình hình triển khai thực hiện các chính sách XKLĐ trên địa bàn tỉnh trong
thời gian qua và tham gia đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tháo gỡ các khó
khăn, hạn chế, tồn tại trong công tác XKLĐ trong thời gian đến.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, vấn đề XKLĐ đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả
với nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, nhiều luận văn, các đề tài nghiên cứu khoa học.
Một số đề tài, nội dung liên quan đến hoạt động XKLĐ mà bản thân đã được tiếp cận:
- Luận án Tiến sỹ chuyên ngành kinh tế học "Phát triển xuất khẩu lao động Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế" của Nguyễn Tiến Dũng (2010). Luận án này đã
nêu rõ cơ sở lý luận về XKLĐ, phân tích những tác động của XKLĐ đến phát triển
KT-XH của nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu LĐ, đồng thời phân tích các yếu tố
tác động đến phát triển XKLĐ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
Luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng XKLĐ của nước ta trong thời gian từ năm
2010 trở về trước, chỉ ra các tồn tại, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển
XKLĐ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- "Báo cáo tình hình thực hiện Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ
góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020" của Bộ LĐ-TB&XH đã đánh
giá một cách tương đối khách quan, toàn diện những mặt thành công, những hạn chế
tồn tại trong quá trình triển khai thực hiện Đề án hỗ trợ các huyện nghèo trên cả nước
thực hiện công tác XKLĐ; đặc biệt, báo cáo đã nêu được các định hướng điều chỉnh cơ
chế, chính sách XKLĐ đối với các huyện nghèo trong thời gian tới.
- "Đề án XKLĐ tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2015" của UBND tỉnh Quảng
Nam đã nêu rõ mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, giải pháp tổ chức thực hiện các
chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong công tác XKLĐ trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn
2011-2015.
- Các báo cáo về XKLĐ trong các năm từ 2011 đến 2016 của các ngành chức
năng ở Bộ LĐ-TB&XH, ở tỉnh Quảng Nam đã khái quát một số nội dung về tình hình
triển khai thực hiện công tác XKLĐ trong các năm qua; các hạn chế, tồn tại và giải
pháp thực hiện nhiệm vụ trong thời gian đến.
- Các bài viết trên các tạp chí phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả về một số
3
vấn đề liên quan đến hoạt động XKLĐ, chẳng hạn:“Đẩy mạnh công tác đào tạo góp
phần nâng cao năng lực của LĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài” của tác giả Vũ
Trường Giang - Cục Quản lý LĐ ngoài nước.
Trong đề tài Luận án tiến sỹ nói trên cũng như các báo cáo, bài viết liên quan,
về phần lý luận chỉ mới đề cập đến lý luận về XKLĐ, chưa đề cập đến lý luận về chính
sách XKLĐ ở Việt Nam; về thực tiễn chủ yếu phản ánh về thực trạng hoạt động
XKLĐ của Việt Nam từ trước năm 2010 hoặc thực trạng công tác XKLĐ tại các huyện
nghèo của nước ta từ năm 2009 đến 2014 hoặc khái quát tình hình thực hiện công tác
XKLĐ của tỉnh Quảng Nam trong từng năm qua từ đó đề xuất một số giải pháp thực
hiện công tác XKLĐ mà chưa thực sự đi sâu phân tích, đánh giá cụ thể về mục tiêu,
phương hướng, giải pháp thực hiện công tác XKLĐ trong bối cảnh hiện nay và những
năm đến (giai đoạn 2017-2020). Đặc biệt, chưa có một đề tài nào nghiên cứu về nội
dung chính sách XKLĐ nói chung và nhất là về chính sách XKLĐ trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam trong giai đoạn 2011-2016.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài "Chính sách xuất khẩu lao động từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam" làm đề tài tốt nghiệp của mình với các nội dung chính: những vấn đề lý
luận và thực tiễn về XKLĐ, chính sách XKLĐ; thực trạng thực hiện chính sách XKLĐ từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam; đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách
XKLĐ trên địa bàn tỉnh trong thời gian đến. Các công trình khoa học, báo cáo, bài viết... nêu
trên là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện bản Luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là vận dụng lý luận về chính sách XKLĐ ở Việt Nam để
phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách XKLĐ ở tỉnh Quảng Nam, tìm ra
những bất cập từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách
XKLĐ trong những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách XKLĐ ở Việt Nam.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách XKLĐ từ thực tiễn tại
tỉnh Quảng Nam.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện chính sách XKLĐ tại Quảng
4
Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách XKLĐ và nâng
cao hiệu quả triển khai thực hiện công tác XKLĐ trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các chính sách, công cụ XKLĐ của Nhà nước ta được thực thi trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách
XKLĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; từ kết quả thực hiện công tác XKLĐ sẽ phân
tích, đánh giá các thành công, hạn chế, tồn tại; xác định nguyên nhân của thành công,
nguyên nhân của hạn chế, tồn tại làm cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện chính sách XKLĐ và nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện công tác
XKLĐ trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
- Phạm vi không gian: Đề tài được thực hiện trong phạm vi toàn tỉnh Quảng
Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách XKLĐ trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam trong 6 năm, từ năm 2011 đến năm 2016 (từ khi UBND tỉnh ban
hành Quyết định số 4371/QĐ-UBND ngày 24/12/2010 về phê duyệt Đề án XKLĐ tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2011-2015).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và khai
thác thông tin từ các nguồn sẵn có liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm: chủ trương,
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các công trình nghiên cứu,
các báo cáo, tài liệu thống kê của Sở, Ban ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân có liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề XKLĐ ở nước ta nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp các phương pháp thống kê, khái quát thực tiễn, phương pháp phân
tích định tính, suy luận logic, diễn giải trong quá trình phân tích đánh giá chính sách.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, giúp người học nghiên cứu, bổ sung kiến
thức lý thuyết về chính sách XKLĐ ở Việt Nam; vận dụng các lý thuyết về quy trình
phân tích chính sách công, đánh giá chính sách công để đánh giá thực tiễn thực hiện
chính sách XKLĐ ở địa phương.
- Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết phân
tích chính sách công, đánh giá chính sách công là cần thiết trong quá trình nghiên cứu
thực tiễn thực hiện chính sách XKLĐ, từ đó góp phần hoàn thiện chính sách XKLĐ ở
nước ta nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách XKLĐ đã ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp cán bộ các cấp, các ngành,
Hội đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở hiểu rõ hơn về lý luận chính sách XKLĐ; xem xét giữa
lý luận và thực tiễn thông qua kết quả thực hiện chính sách XKLĐ tại tỉnh Quảng
Nam; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ XKLĐ trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu đề xuất các giải pháp điều chỉnh các chính sách XKLĐ
phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn đặt ra và cải tiến phương pháp, phương thức tổ chức
triển khai thực hiện chính sách XKLĐ; giúp người LĐ có khả năng tiếp cận các chính
sách XKLĐ và tham gia cùng Nhà nước đưa các chính sách XKLĐ vào thực tiễn; qua
đó, nâng cao hiệu quả thực hiện công tác XKLĐ góp phần giải quyết việc làm, phát
triển KT-XH địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục bảng số liệu, danh mục tài
liệu tham khảo, Luận văn được trình bày theo 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách XKLĐ.
Chương 2: Thực trạng chính sách XKLĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong
giai đoạn 2011-2016.
Chương 3: Hoàn thiện chính sách XKLĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG
1.1. Xuất khẩu lao động
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu lao động
Hiểu theo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng: XKLĐ là quá trình đưa người LĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài hợp
pháp được quản lý và hỗ trợ của Nhà nước theo hợp đồng của các doanh nghiệp hoạt
động dịch vụ, các tổ chức sự nghiệp, các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, các tổ
chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài, hợp đồng nâng cao tay nghề, hoặc theo hợp đồng
cá nhân giữa người LĐ và chủ sử dụng LĐ [1, tr.8].
Người LĐ khi ra nước ngoài làm việc gọi là người LĐ xuất cư; nước mà họ ra
đi được gọi là nước xuất cư. Người LĐ khi đến nước khác gọi là người LĐ nhập cư và
nước tiếp nhận gọi là nước nhập cư.
Khi nói đến XKLĐ, phải được hiểu là xuất khẩu “Sức lao động” của con người,
do người LĐ sử dụng sức LĐ của mình bán cho chủ sử dụng LĐ nước ngoài, sống và
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng LĐ đã ký kết. Nên quan hệ mua - bán sức LĐ
trong XKLĐ là quan hệ LĐ có yếu tố nước ngoài đặc biệt phức tạp, được thể hiện ở 3
đặc điểm sau:
Về kinh tế: sức LĐ nói ở đây phải là sức LĐ có giá trị và giá trị sử dụng, và phải
được xem là hàng hóa. Bên có sức LĐ cần được trả ngang giá, phù hợp với giá cả thị
trường và không trái với pháp luật. Còn bên mua sức LĐ phải tính toán làm sao để sau
khi mua sức LĐ sẽ sử dụng nó có hiệu quả.
Về xã hội: sức LĐ nói ở đây có nội hàm rộng, bao gồm các nhân tố thể lực, trí
lực và tâm lực của người LĐ. Đồng thời nó cũng là vốn của con người, phản ánh trình
độ dân trí, chất lượng và tính năng động xã hội của nguồn nhân lực đất nước.
Về quan hệ LĐ có yếu tố nước ngoài: thể hiện sau khi người LĐ xuất cảnh,
sống và làm việc ở nước ngoài, thì ngoài việc chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước
xuất khẩu, người LĐ còn chịu sự chi phối bởi pháp luật, các quan hệ kinh tế, văn hoá,
7
xã hội và phong tục tập quán của nước sở tại và các điều ước quốc tế mà nước xuất
khẩu và nước nhập khẩu cùng tham gia [1, tr.19] .
* Một số quan niệm khác về xuất khẩu lao động
Có thể nói, XKLĐ có nội hàm đa nghĩa, vì vậy hiện nay trên thế giới trong các
văn kiện, tài liệu, công trình nghiên cứu sử dụng rất nhiều khái niệm đồng nghĩa với
XKLĐ.
- Trao đổi quốc tế về sức lao động
Là hiện tượng người LĐ đi làm thuê, di chuyển ra nước ngoài nhằm mục đích
kiếm việc làm để sinh sống. Ở đây nói lên sự trao đổi, mua bán sức LĐ có tính quốc tế
hay trên phạm vi quốc tế; tuy vậy lại không chỉ ra được việc trao đổi đó có ngang giá
hay không, có sự quản lý, hỗ trợ của nước xuất cư và nhập cư hay không, người LĐ ra
nước ngoài làm việc có thời hạn hay không. Do vậy, thuật ngữ này không phản ánh
đầy đủ bản chất và nội dung của XKLĐ theo cơ chế thị trường.
- Hợp tác quốc tế về lao động
Nhằm chỉ việc trao đổi sức LĐ không ngang giá và không phản ánh đúng quan
hệ cung - cầu về sức LĐ và các quy luật của thị trường LĐ quốc tế. Thuật ngữ này chỉ
được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định để chỉ sự trao đổi LĐ giữa một số
nước XHCN trước đây trên tinh thần giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau.
- Tạo việc làm ngoài nước
Chúng ta có thể thấy dùng khái niệm “Tạo việc làm ngoài nước” để phân biệt
với “Tạo việc làm trong nước” nhưng không nói lên được người LĐ ra nước ngoài làm
việc có thời hạn hay không. Do vậy, thuật ngữ này không có tính khái quát cao về di
chuyển LĐ quốc tế và không phản ánh đầy đủ bản chất và nội dung của XKLĐ theo cơ
chế thị trường.
- Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Ở nước ta từ năm 1991 đến nay, khái niệm này được sử dụng trong các Nghị
định của Chính phủ, Bộ luật Lao động hoặc nhiều văn bản pháp luật khác. Khi Luật
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được Quốc Hội
khóa 10 thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 thì khái niệm “Đưa người
8
LĐ đi làm việc ở nước ngoài” đã được luật hóa. Vì vậy, cùng với “Xuất khẩu lao
động”, “Đưa người LĐ đi làm việc ở nước ngoài” là cách gọi hợp pháp [1, tr.11-12].
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động
Hiện nay, XKLĐ được thực hiện theo nhiều hình thức như sau:
- Căn cứ vào hợp đồng đưa lao động ra nước ngoài
XKLĐ được thực hiện thông qua Hiệp định giữa các Chính phủ; theo hợp đồng
giữa các doanh nghiệp XKLĐ; hình thức thầu bao công trình, đầu tư nước ngoài; hợp
đồng nâng cao tay nghề và theo hợp đồng đơn lẻ của người LĐ với chủ sử dụng LĐ.
- Căn cứ vào không gian di chuyển của người lao động
XKLĐ trực tiếp là việc di chuyển LĐ có tổ chức, có thời hạn, từ nước này đến
nước khác để làm việc kèm theo thay đổi chỗ ở, là hình thức chủ yếu trong trao đổi
quốc tế sức LĐ hiện nay.
XLKĐ giáp ranh là hiện tượng người LĐ của các nước có chung biên giới qua
lại để kiếm việc làm, nhưng không kèm thay đổi chỗ ở tạm thời hay vĩnh viễn.
XKLĐ tại chỗ là người LĐ làm việc ngay trên nước mình trong các Khu chế
xuất, Khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài….
XKLĐ phi chính thức là người LĐ ra nước ngoài tìm việc làm bất hợp pháp,
hình thức này chiếm tỷ lệ nhỏ, nhưng rủi ro cho người LĐ rất cao.
- Căn cứ vào chất lượng lao động xuất khẩu
XKLĐ có tay nghề hay còn gọi là xuất khẩu chuyên gia, kỹ thuật viên, LĐ lành
nghề; XKLĐ tay nghề thấp hoặc không có tay nghề hay còn gọi là XKLĐ phổ thông.
Hướng di chuyển của hai loại LĐ này cũng khác nhau. Trong khi LĐ có tay nghề
thường di chuyển song hành với luồng vốn đầu tư từ nước phát triển đến những nước
kém phát triển hơn thì LĐ phổ thông lại có hướng di chuyển ngược lại từ những nước
kém phát triển đến những nước phát triển hơn [1, tr.12-13] .
* Các hình thức xuất khẩu lao động của Việt Nam
Những năm 1990 trở về trước, công tác đưa người LĐ Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài thực hiện trên cơ sở Hiệp định hợp tác LĐ ký kết giữa hai Nhà nước (Việt
Nam và nước tiếp nhận) do Bộ LĐ-TB&XH trực tiếp tổ chức thực hiện.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo
9
định hướng XHCN, công tác đưa người LĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã
được thực hiện theo cơ chế thị trường với các hình thức tổ chức ngày càng đa dạng.
Theo quy định tại Điều 6, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng (Luật số 72/2006/QH11), người LĐ có thể đi làm việc ở nước ngoài
theo 4 hình thức:
- Thông qua doanh nghiệp hoạt động dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép
hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Người LĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức này sẽ có hai loại hình cơ
quan tổ chức đưa đi. Loại hình thứ nhất là các doanh nghiệp dịch vụ đưa người LĐ đi
làm việc ở nước ngoài, loại hình thứ hai là tổ chức sự nghiệp.
Ở loại hình thứ nhất, doanh nghiệp được Bộ LĐ-TB&XH cấp Giấy phép hoạt
động đưa người LĐ đi làm việc ở nước ngoài trực tiếp khai thác hợp đồng, đăng ký với
cơ quan có thẩm quyền, tổ chức tuyển chọn người LĐ, đưa và quản lý người LĐ ở
ngoài nước. Đây là hình thức phổ biến nhất, được nhiều người LĐ lựa chọn nhất khi đi
làm việc ở nước ngoài.
Ở loại hình thứ hai, người LĐ sẽ được tổ chức sự nghiệp tuyển chọn và đưa đi
làm việc ở nước ngoài. Tổ chức sự nghiệp đưa LĐ đi làm việc ở nước ngoài là tổ chức
thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; được Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ thành lập và giao nhiệm vụ
đưa người LĐ đi làm việc ở nước ngoài theo Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN
Việt Nam là thành viên hoặc theo thỏa thuận quốc tế do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ ký với bên nước ngoài với mục đích phi lợi nhuận.
- Thông qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư
ở nước ngoài
Đây là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân Việt Nam, trúng thầu, nhận thầu
ở nước ngoài, đưa người LĐ của doanh nghiệp mình đi làm việc ở các công trình trúng
thầu, nhận thầu ở nước ngoài hoặc là các tổ chức, cá nhân của Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài, đưa người LĐ Việt Nam sang làm việc tại cơ sở sản xuất, kinh doanh do
tổ chức, cá nhân này đầu tư thành lập ở nước ngoài.
- Thông qua doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình
10
thức thực tập nâng cao tay nghề.
Hình thức này xuất hiện tượng đối nhiều trong những năm qua tại các doanh
nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Người lao động tự đi theo hình thức hợp đồng cá nhân
Người LĐ chủ yếu đi thông qua các mối quan hệ họ hàng giới thiệu, được bảo
lãnh, hoặc chủ sử dụng LĐ cũ tuyển dụng lại lần thứ hai, nhiều nhất là ở thị trường Đài
Loan.
Người LĐ ký hợp đồng trực tiếp với chủ sử dụng LĐ, không thông qua bên
trung gian môi giới và trực tiếp đến Sở LĐ-TB&XH nơi thường trú để đăng ký hợp
đồng cá nhân. Khi làm việc ở nước ngoài, người LĐ có trách nhiệm đăng ký công dân
với Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước sở tại.
Hình thức đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân được nhà nước
khuyến khích do mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho người LĐ, gia tăng tính tự chủ và
việc tự chịu trách nhiệm của người LĐ. Tuy nhiên, do người LĐ đi làm việc có tính
chất đơn lẻ, phân tán ở nhiều vùng nên công tác quản lý cũng như bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho họ rất phức tạp. Vì vậy, đối với loại hình này, vai trò của cơ quan
quản lý ở địa phương nơi cư trú của người LĐ và Cơ quan đại diện ngoại giao tại nước
sở tại trong công tác nắm thông tin và xử lý phát sinh khi xảy ra đối với người LĐ là
rất quan trọng.
1.1.3. Vai trò và tác động của xuất khẩu lao động trong nền kinh tế thị trường
* Các tác động tích cực
- Đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
XKLĐ góp phần vào tăng trưởng kinh tế đất nước được phản ánh trên hai
phương diện:
Một là, toàn dụng nguồn nhân lực đất nước làm tăng thu nhập quốc gia, XKLĐ
tạo cơ hội cho một bộ phận LĐ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm có cơ hội sản xuất ra
hàng hóa và dịch vụ ở nước khác làm tăng thu nhập cho người LĐ, gia đình họ, tăng
doanh thu cho doanh nghiệp XKLĐ, tạo chuyển biến mới về phân công LĐ xã hội cả về
chiều rộng và chiều sâu.
Hai là, nâng cao tiềm lực của nền kinh tế thể hiện ở cơ sở vật chất, khả năng tích
11
luỹ nội bộ của nền kinh tế thông qua các khoản thu ngân sách từ người LĐ, doanh
nghiệp XKLĐ và các tổ chức hỗ trợ khác.
XKLĐ làm tăng cầu LĐ trên thị trường LĐ nước xuất khẩu dẫn đến làm giảm sự
căng thẳng quan hệ cung - cầu LĐ, tạo áp lực tăng thu nhập cho người LĐ đưa đến mặt
bằng thu nhập của người LĐ nước xuất cư tiến gần hơn mặt bằng thu nhập ngoài nước;
từ đó, làm tăng thu nhập cho người LĐ và xã hội, góp phần tăng sức mua, tăng cầu, mở
rộng thị trường hàng hóa và tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ phát triển.
- Góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Dưới tác động của các quy luật kinh tế và vai trò chủ động quản lý, điều tiết, định
hướng kinh tế vĩ mô của Nhà nước, XKLĐ có sức lan tỏa nhanh trong nền kinh tế, góp
phần chuyển dịch cơ cấu LĐ và kinh tế theo ngành, theo vùng, theo hướng mở.
Thông qua XKLĐ, tay nghề của một bộ phận người LĐ được nâng lên nhờ được
đào tạo, đào tạo lại khi làm việc ở nước ngoài góp phần hình thành đội ngũ công nhân có
chuyên môn kỹ thuật hiện đại, có trình độ ngoại ngữ và tác phong công nghiệp đáp ứng
một phần nhu cầu đòi hỏi của các nhà đầu tư theo chiều sâu tạo nên sự chuyển dịch
kinh tế theo cơ cấu nghề.
- Tạo việc làm, góp phần ổn định xã hội, an ninh - quốc phòng
Hàng năm, XKLĐ giải quyết việc làm cho hàng triệu LĐ, không những LĐ đi làm
việc ở nước ngoài theo chương trình XKLĐ mà cả LĐ của doanh nghiệp, các Trung tâm
dịch vụ việc làm, các cơ sở đào tạo nghề khi tham gia thực hiện chương trình XKLĐ. Số
LĐ được đưa ra nước ngoài làm việc hiện nay phần lớn là ở nông thôn, đang thất nghiệp
hoặc bán thất nghiệp. Chính lực lượng này khi được đưa đi làm ở nước ngoài với mức
thu nhập hợp lý đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, ổn định xã hội, giữ vững an
ninh - quốc phòng.
- Góp phần giải quyết chính sách xã hội
Nhà nước xem XKLĐ là giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội như: giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm nghèo, thực hiện chính sách
đối với gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo...; thể hiện ở việc tạo điều kiện cho
người LĐ thuộc các nhóm đối tượng trên tham gia XKLĐ, nhất là tại các thị trường có
thu nhập tốt, tuyển dụng với số lượng hạn chế (người LĐ được Nhà nước hỗ trợ chi phí
12
đào tạo nghề, học ngoại ngữ và giáo dục định hướng và được cho vay nguồn vốn có lãi suất
ưu đãi để trang trải các chi phí phục vụ việc đi XKLĐ...).
- Góp phần phát triển nguồn nhân lực đất nước
Nhờ XKLĐ mà Nhà nước quan tâm và có chính sách đào tạo, đào tạo lại cho một
bộ phận LĐ nhờ đó chất lượng nguồn nhân lực từng bước được cải thiện.
Đối với đại đa số người LĐ, sau khi kết thúc thời gian làm việc ở nước ngoài,
trình độ tay nghề, tác phong, kỷ luật LĐ, ngoại ngữ, hiểu biết được nâng lên rõ rệt góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
- Đưa nhanh tiến bộ - khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh
Người LĐ khi làm việc ở nước ngoài được tiếp cận với các công nghệ hiện đại,
các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới; họ có thể nghiên cứu, học hỏi và áp dụng các kiến
thức, kinh nghiệm này vào hoạt động sản xuất, kinh doanh khi về nước. Đây chính là lực
lượng chuyển giao công nghệ, khoa học kỹ thuật nhanh nhất và hiệu quả nhất góp phần
đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất và quản lý, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
đất nước.
- Góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
XKLĐ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc
đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới và phân công LĐ quốc tế, thúc đẩy các quan hệ
tín dụng, tài chính, quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa,
nâng cao năng lực cạnh tranh của sức LĐ trên thị trường quốc tế. Đến lượt nó, chính các
quan hệ kinh tế đối ngoại đó lại tạo điều kiện cho việc mở rộng XKLĐ. Việc gia nhập và
tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực và thế giới tạo điều kiện mở rộng và phát triển
bền vững XKLĐ.
- XKLĐ còn là cầu nối giao lưu văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các
dân tộc, nâng cao vị trí chính trị và uy tín nước XKLĐ trên trường quốc tế.
* Các tác động tiêu cực
Ngoài những tác động tích cực là chủ yếu, XKLĐ có những tác động tiêu cực
đến đời sống, xã hội và kinh tế của nước XKLĐ như:
- Có thể gây khan hiếm cục bộ lao động nội địa
Ở một số nước XKLĐ, có lúc, có nơi có thể gây khan hiếm cục bộ LĐ trong các
13
- Xem thêm -