VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VI MINH TÚ
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ
TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2018 - 2022
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI – 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VI MINH TÚ
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ
TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2018 - 2022
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8.34.04.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực
và chưa sử dụng để bảo vệ bất cứ luận văn của một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Hà Nội, ngày 25 tháng 2 năm 2019
Tác giả
Vi Minh Tú
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ
6
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
6
1.2. Một số khái niệm
8
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục dân tộc và phát triển hệ thống
trường Phổ thông dân tộc bán trú
12
1.4. Hệ thống văn bản chỉ đạo các cấp liên quan đến trường Phổ thông dân tộc bán trú 16
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ CỦA TỈNH LẠNG SƠN HIỆN
NAY
21
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc phát triển các trường phổ
thông dân tộc bán trú của tỉnh Lạng Sơn
21
2.2.Thực trạng phát triển các trường Phổ thông dân tộc bán trú trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn
26
2.3. Những khó khăn, tồn tại và nguyên nhân
41
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC HỌC SINH TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ
CỦA TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2018 - 2022 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM
2030
45
3.1. Các nguyên tắc xây dựng giải pháp
45
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trường
Phổ thông dân tộc bán trú vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn
46
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
81
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGDĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
CBQL
Cán bộ quản lý
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTT
Công nghệ thông tin
CSVC
Cơ sở vật chất
ĐCSVN
Đảng Cộng sản Việt Nam
GV
Giáo viên
HĐNGLL
Hoạt động ngoài giờ lên lớp
HS, HSBT
Học sinh, học sinh bán trú
KNS, GTS
Kỹ năng sống, giá trị sống
PGD&ĐT
Phòng Giáo dục và Đào tạo
PTDH, TBDH
Phương tiện dạy học, thiết bị dạy học
PTDTBT
Phổ thông dân tộc bán trú
PTDTNT
Phổ thông dân tộc nội trú
SGD&ĐT
Sở Giáo dục và Đào tạo
TDTT
Thể dục thể thao
TH
Tiểu học
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TNCSHCM
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
TPTĐ
Tổng phụ trách đội
TT
Thông tư
UBND
Ủy ban nhân dân
VHVN
Văn hóa văn nghệ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển hệ thống trường Phổ thông Dân tộc bán trú (PTDTBT) là một nội
dung quan trọng trong công tác quản lí Nhà nước về giáo dục và đào tạo, nhằm đáp
ứng nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng núi, đồng bào dân tộc, góp
phần chủ động trong xu thế hội nhập. Đối với tỉnh Lạng Sơn, việc phát triển hệ thống
trường PTDTBT sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế xã hội của tỉnh từ nay đến năm 2030.
Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo (GDĐT) tỉnh Lạng Sơn
nói chung, giáo dục vùng đặc biệt khó khăn nói riêng luôn nhận được sự quan tâm chỉ
đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự vào cuộc của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức
xã hội và sự đồng tình ủng hộ, chăm lo của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, đã đạt
được những kết quả quan trọng. Số trường, lớp, số học sinh tăng nhanh qua các năm;
cơ sở vật chất được tăng cường, củng cố; chất lượng giáo dục được nâng lên. Tỉnh
Lạng Sơn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở (GD THCS) năm 2006; đạt
chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học (GDTH), chống mù chữ năm 1997 và đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 2008; chất lượng giáo dục đại trà ngày càng
được nâng cao; tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu ban giảm, số học sinh khá, giỏi tăng. Những
năm gần đây số tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) ổn định trên 90%. Tỷ lệ huy
động trẻ đến trường, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học và trúng tuyển đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày càng tăng. Đội ngũ cán bộ, giáo viên từng bước
được chuẩn hóa, cơ bản đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. Công tác quản lý
giáo dục tiếp tục được đổi mới. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên và có
nhiều chuyển biến tích cực theo hướng chuẩn hóa.
Tuy nhiên do địa bàn và địa hình khó khăn phần nào đã ảnh hưởng và làm hạn
chế việc huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường, tỷ lệ chuyên cần của học sinh, chất
lượng GDĐT đã tác động đến tính bền vững của kết quả phổ cập giáo dục. Trình độ
dân trí, đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng đặc biệt khó khăn còn thiếu
thốn. Dân số trong độ tuổi học sinh các cấp ở mỗi xã không nhiều nên các trường tiểu
học vùng đặc biệt khó khăn có nhiều điểm trường lẻ cách xa trường chính. Học sinh ít
có cơ hội, điều kiện được tiếp cận phương pháp giáo dục hiện đại. Trường tiểu học còn
duy trì mô hình lớp ghép (lớp học ghép nhiều trình độ) đã ảnh hưởng không nhỏ đến
1
chất lượng GDĐT. Các trường phổ thông Dân tộc nội trú (PTDTNT) huyện không đáp
ứng đủ nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc địa phương vì đa số là đồng
bào dân tộc thiểu số.
Để khắc phục những khó khăn trên, với tinh thần hiếu học, cũng giống như
nhiều địa phương khác, nhiều năm qua người dân vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh đã
dựng lều lán, làm nhà tạm ở gần trường cho con em đi học (hình thức bán trú dân
nuôi). Song điều kiện rất thiếu thốn, không đảm bảo vệ sinh và an toàn. Nhu cầu của
học sinh ở bán trú trong trường để có điều kiện học tập, tham gia đầy đủ các hoạt động
giáo dục của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường PTDTBT
vùng cao, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn là một điều rất cần thiết.
Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của tỉnh và của ngành GDĐT trong
những năm vừa qua, nhằm thực hiện tốt Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc.
Trước tình hình đó, mô hình trường PTDTBT đã và đang hình thành, phát triển
tại các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn, bước đầu đã mang lại hiệu quả tốt trong
việc huy động trẻ em trong độ tuổi tiểu học (TH) và THCS đến trường, đảm bảo duy trì
sĩ số, cải thiện chất lượng giáo dục dân tộc.
Với những kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn trong công tác của bản thân - là
một cán bộ làm công tác Đảng ở tỉnh Lạng Sơn và vận dụng kết quả học tập từ bộ môn
khoa học chính sách công, tôi quyết định lựa chọn Đề tài: “CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN HỆ THỐNG TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ TỈNH LẠNG
SƠN GIAI ĐOẠN 2018 - 2022” để làm Luận văn tốt nghiệp kết thúc khóa học Thạc sỹ
chuyên ngành Chính sách công năm học (2017- 2019). Hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ
là sự tổng kết những bài học kinh nghiệm mang tính thực tiễn sâu sắc, đóng góp vào lý
luận và thực tiễn trong quản lí, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục trong hệ
thống trường PTDTBT của tỉnh Lạng Sơn trong những năm tiếp theo nói riêng và của
các địa phương khác trong cả nước nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận thực trạng thực hiện chính sách phát triển các
trường phổ thông dân tộc bán trú; đánh giá chất lượng giáo dục học sinh trường
2
PTDTBT vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn, đề tài đề xuất các giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục học sinh các trường PTDTBT trên địa bàn tỉnh giai đoạn hiện
nay theo tinh thần Nghị quyết số 52/NQ-CP, ngày 15/6/2016 của Chính phủ về đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng
đến năm 2030.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục dân tộc, chính sách phát triển hệ thống
trường PTDTBT của Đảng và Nhà nước;
Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển hệ thống trường
PTDTBT, công tác tổ chức và chất lượng giáo dục học sinh trường PTDTBT tại vùng
đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn giai đoạn hiện nay;
Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trường PTDTBT
vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đối với giáo dục ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách và việc thực hiện chính sách phát triển các
trường Phổ thông dân tộc bán trú.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chính sách và việc thực hiện chính sách phát triển các trường
Phổ thông dân tộc bán trú trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay. Qua đó, đưa ra các giải
pháp nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng giáo dục HS các trường PTDTBT vùng
đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018-2022 và định hướng đến năm 2030.
3
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận, quan điểm của Chủ Nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta,
những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách giáo
dục và chính sách dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp sưu tầm, phân tích, tổng hợp và hệ thống
hoá cá nguồn tài liệu về lý luận với thực tiễn có liên quan đến chính sách phát triển hệ
thống trường PTDTBT để làm rõ các vấn đề của nội dung luận văn, làm cho luận văn
có tính lôgic, sát với thực tế và đi vào trọng tâm cần giải quyết của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề về lý luận về chính sách phát triển hệ
thống trường PTDTBT ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần bổ sung hoàn thiện
những vấn đề lý luận về về thực hiện chính sách công nói chung, thực hiện chính sách
giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Đồng thời qua khảo sát nghiên
cứu đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển hệ thống trường PTDTBT tỉnh
Lạng Sơn đề tài chỉ ra những bất cập, những việc thực hiện chưa tốt, những mặt còn
hạn chế của việc thực hiện chính sách này ở địa phương. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề
xuất với các cấp có thẩm quyền các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh
trường PTDTBT, cũng như chất lượng giáo dục phổ thông.
Đề tài góp phần tổng hợp, đánh giá về quy mô mạng lưới trường PTDTBT trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đề xuất xây dựng mô hình quản lý hiệu quả, kịp thời đối
với loại hình trường PTDTBT - một loại hình trường tổ chức tương đối mới trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn. Với các giải pháp cụ thể, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục học sinh PTDTBT, vùng đặc biệt khó khăn trong tỉnh,
tăng số lượng, chất lượng học sinh đỗ tốt nghiệp THCS và tiếp tục học cấp THPT, tạo
nguồn cán bộ dân tộc cho địa phương sau này. Qua đó, đề tài góp phần thực hiện
những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo được trình bày gồm 3 chương:
4
- Chương I. Những vấn đề lý luận về chính sách phát triển trường phổ thông dân
tộc bán trú.
- Chương II. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển các trường phổ thông
dân tộc bán trú của tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
- Chương III.Các giải pháp nhằm phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh trường Phổ thông dân tộc bán trú của tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2018- 2022 và
định hướng đến năm 2030.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Cả nước và các địa phương
Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội ở vùng núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Trong hệ thống chính sách đối với vùng DTTS và vùng cao thì
chính sách giáo dục đóng một vai trò quan trọng, được xem là phương tiện phát triển
kinh tế - xã hội, giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Kể từ
những năm cuối của thế kỷ XX đến nay, việc tìm hiểu, khảo sát việc thực hiện và hiệu
quả của chính sách giáo dục vùng DTTS nói chung bắt đầu được thực hiện, tuy nhiên
số lượng các công trình này còn rất khiêm tốn (Nguyễn Ngọc Thanh 2012, trang 1314). Trong lịch sử phát triển, hệ thống trường lớp vùng cao có học sinh bán trú dân
nuôi đã tồn tại từ sớm nhưng chủ trương phát triển hệ thống trường PTDTBT mới được
bắt đầu từ năm 2010. Trước đó, một số bài viết, nghiên cứu nhỏ đặt ra vấn đề cần
nghiên cứu khảo sát xây dựng hệ thống chính sách hỗ trợ cho học sinh trường
PTDTBT cũng như phát triển hệ thống giáo dục này ở một số vùng và cả nước. Có thể
kể đến nghiên cứu của Nguyễn Hồng Thái (2007) “Nghiên cứu khảo sát xây dựng hệ
thống chính sách hỗ trợ cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú”, Nguyễn Hồng
Thái (2008) “Trường phổ thông dân tộc bán trú – sự nỗ lực sáng tạo cộng đồng để phát
triển giáo dục bền vững vùng dân tộc và miền núi” ; bài viết của Trần Văn Thuật
(2004) “Cần có cơ chế và chính sách hỗ trợ trường phổ thông dân tộc bán trú”; một số
bài viết của tác giả Trương Xuân Cừ: “Trường bán trú dân nuôi: Khâu đột phá phát
triển bền vững giáo dục vùng Tây Bắc” (2009), “Đề xuất một số giải pháp phát triển hệ
thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú khu vực Tây Bắc” (2009).
Khi chủ trương phát triển hệ thống trường PTDTBT được ban hành, đã có một
số bài viết đề xuất giải pháp triển khai thực hiện thông tư 24/TT-BGDĐT về loại hình
trường phổ thông dân tộc bán trú (Hà Đức Đà 2011). Sau một vài năm thực hiện Thông
tư này, đã có một số nghiên cứu đánh giá bước đầu về thành công, thực trạng quản lý
mô hình và chất lượng giáo dục của các trường cũng như đề xuất một số giải pháp nâng
6
cao chất lượng hoạt động hệ thống giáo dục này ở phạm vi một số địa phương nói riêng
và cả nước nói chung. Trong đó có thể kể đến các bài viết như: “Phát triển trường phổ
thông dân tộc bán trú các tỉnh Tây Nguyên: Thành tựu và triển vọng” (Nguyễn Sỹ Thư
2012), “Một số vấn đề về công tác quản lí ở trường phổ thông dân tộc bán trú”
(Nguyễn Thị Minh Nguyệt 2012), “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường phổ
thông dân tộc bán trú tiểu học ở Lào Cai” (Nguyễn Thị Hài 2013), “Nâng cao chất
lượng giáo dục ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tỉnh Gia Lai” (Hồ Xuân Hồng
2014), “Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động học tập của học sinh bán trú ở các
trường trung học phổ thông huyện Chiêm hóa, tỉnh Tuyên Quang” (Hoàng Thị Mai
2017).
Từ góc độ ngành Dân tộc học/Nhân học, bài viết gần đây nhất “Các lợi ích của
chương trình học tập nội trú ở trường học xã Sủng Thái, huyện Yên Minh, tỉnh Hà
Giang” của Nguyễn Thanh Tùng (2019) là một nghiên cứu trường hợp xem xét lợi ích
thực tiễn của mô hình trường PTDTBT ở cấp xã, qua đó nêu lên sự cần thiết thúc đẩy
các sáng tạo nhằm đa dạng hóa lợi ích của trường học địa phương trong chính sách
giáo dục dân tộc.
Ngoài ra, trong thời gian qua, có hàng chục bài viết trên các báo: Nhân dân,
Giáo dục và Thời đại, Dân trí, Tuổi trẻ và một số báo của các tỉnh cũng quan tâm, đề
cập đến sự phát triển của mô hình này ở một số địa phương và trên quy mô cả nước:
“Mô hình trường bán trú dân nuôi” (Thanh Sơn 2010), “Xây dựng trường phổ thông
dân tộc bán trú: Những vấn đề cần quan tâm” (Lê Thị Liêm 2013), “Trường bán trú
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc” (Giáo dục và Thời đại 2016), “Quảng
Nam: Dân góp gạo xây dựng mô hình trường “bán trú dân nuôi” (Đ. Hiệp – C. Bính
2017), “Thầy cô dựng nhà trọ cho học sinh” (Vũ Toàn 2016), “Niềm vui từ ngôi trường
bán trú” (Đình Diệu 2015), …
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có những công trình chuyên sâu về chính sách
phát triển cũng như hệ thống giáo dục này. Từ góc độ quản lý giáo dục, mới có một vài
luận văn, luận án tiếp cận vấn đề quản lý học sinh bán trú dân nuôi và hoàn thiện có
hiệu quả chính sách đối với học sinh dân tộc thiểu số ở một số địa phương, vùng như
tỉnh Phú Thọ, khu vực Nam Trung Bộ (Lê Mã Lương 2017, Đinh Phương Lan 2018).
1.1.2. Ở tỉnh Lạng Sơn
7
Qua nghiên cứu các nguồn tài liệu, tôi nhận thấy tại Lạng Sơn đến thời điểm
hiện nay đã có hệ thống văn bản chỉ đạo của các cấp hướng dẫn ngành GDĐT và chính
quyền địa phương thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi thành lập trường và yêu cầu nâng
cao chất lượng trường PTDTBT. Trong các tài liệu, văn bản của ngành GDĐT tỉnh
Lạng Sơn, các phương tiện thông tin, truyền thông có các chuyên đề, bài viết phản ánh
sâu sắc các quan điểm, nội dung và kết quả đạt được của công tác giáo dục dân tộc và
thực hiện xây dựng hệ thống trường PTDTBT trên địa bàn toàn tỉnh. Song, cho đến
nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp về "Chính sách phát triển hệ
thống trường phổ thông dân tộc bán trú tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2018-2022”.
Từ tiếp cận góc độ chính sách công, nghiên cứu này mong muốn làm rõ thực
trạng, hiệu quả đã đạt được trong việc phát triển hệ thống trường dân tộc bán trú ở vùng
đặc biệt khó khăn của tỉnh Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản, thiết
thực để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu
số mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra thông qua việc thực hiện tại địa bàn tỉnh Lạng
Sơn.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Chính sách
Trong luận văn này, có một số khái niệm về chính sách cần được làm rõ như
sau:
Chính sách là cách thức tác động có chủ đích của một nhóm, tập đoàn xã hội
này vào nhóm, tập đoàn xã hội khác thông qua các thiết chế khác nhau của hệ thống
chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu đã được xác định trước.
Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan nhằm lựa chọn
các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện chính sách nhằm giải quyết các
vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định của Đảng chính trị cầm quyền (Đỗ
Phú Hải 2012, trang 32).
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tổng hợp các quan
điểm, nguyên tắc, chủ trương, giải pháp tác động đến các dân tộc, vùng dân tộc, nhằm
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa các dân tộc theo hướng đảm bảo khối đại đoàn kết,
thống nhất giữa các dân tộc và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam (Hoàng Hữu
Bình, Phan Văn Hùng 2013, trang 8).
1.2.2. Phát triển
8
Có rất nhiều định nghĩa về phát triển. Trở nên thịnh hành từ sau Thế chiến II,
phát triển thường được xem là một cái gì đó tích cực, đáng mong muốn, đối với một xã
hội, một khu vực, hoặc một nhóm người và thậm chí đối với cá nhân con người (Bùi
Thế Cường, Đỗ Minh Khuê 2006, trang 67). Tuy nhiên, nghiên cứu này sử dụng khái
niệm phát triển là sự mở mang rộng rãi, làm cho tốt hơn (Nguyễn Lân 1998) với ngụ ý
mở rộng, nâng cao chất lượng mô hình, hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú tại
tỉnh Lạng Sơn.
1.2.3. Trường phổ thông dân tộc bán trú
Trường/lớp Dân tộc bán trú (theo cách gọi của Luật giáo dục) là trường phổ
thông tại vùng dân tộc và miền núi, có học sinh tiểu học và trung học cơ sở ăn ở, học
tập tại trường chính ở trung tâm xã. Đây chủ yếu là số học sinh không có lớp học tại
thôn bản, ở xa trường, không thể đi học và trở về trong ngày, tùy từng địa phương, học
sinh có thể được tổ chức ăn, ở tập trung với sự trợ giúp của cộng đồng, chính quyền
hoặc học sinh tự túc ăn ở với nhiều hình thức đan xem (Nguyễn Hồng Thái 2007, trang
87). Tuy nhiên, cần có sự phân biệt khái niệm trường dân tộc bán trú với trường dân
tộc nội trú và trường có học sinh bán trú dân nuôi.
Quyết định số 49/QĐ-BGD&ĐT ngày 25/8/2008, về việc ban hành quy chế tổ
chức và hoạt động của trường PTDTNT của BGD&ĐT đã ban hành hệ thống
trường PTDTNT bao gồm:
Trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cấp THCS được thành lập tại các
huyẹ̛n miền núi, hải đảo, vùng dân tộc;
Trường PTDTNT cấp tỉnh đào tạo cấp THPT được thành lạ̛p tại các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Để đào tạo nguồn cán bợ là con em dân tộc thiểu số
ở vùng có điều kiẹ̛n kinh tế đạ̛c biêt khó kha̛n, Ủy ban nhân dân Tỉnh có thể giao
cho trường PTDTNT cấp huyẹ̛n đào tạo cả cấp THPT; Bợ chủ quản có thể giao
cho trường PTDTNT thuợc Bộ đào tạo dự bị đại học và cấp THCS.
Còn trường phổ thông dân tộc bán trú là trường chuyên biẹ̛t, do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lạ̛p cho con em dân tợc thiểu số, con
em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiẹ̛n kinh tế - xã hợi
đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bợ cho các vùng này
bao gồm trường phổ thông dân tợc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là
người dân tợc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ
9
thông dân tợc bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là
người dân tợc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ
thông dân tợc bán trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tợc
thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú.
Trường THCS có học sinh bán trú dân nuôi là trường phổ thông công lạ̛p
trong hẹ̛ thống GD quốc dân. Bên cạnh viẹ̛c thực hiẹ̛n các nhiẹ̛m vụ chung của
mợt Trường THCS theo quy định của Điều lẹ̛ trường THCS, thì Trường
THCS có HSBTDN còn phải đảm nhạ̛n nhiẹ̛m vụ quản lý, cha̛m sóc, nuôi
dưỡng mợt lượng không nhỏ học sinh dân tộc thiểu số, con hợ nghèo sống ở
các khu vực xa trường, giao thông đi lại khó kha̛n và nguy hiểm ở BTDN tại
trường trong tuần và được sự hỗ trợ mợt phần tài chính của nhà nước hàng
tháng theo na̛m học để phục vụ chi phí a̛n, ở tại trường hoạ̛c ở trọ nhà dân.
Học sinh bán trú dân nuôi là khái niẹ̛m chỉ đối tượng học sinh đang học tại
các trường Trường THCS, TH và THCS có HSBTDN ở vùng có điều kiẹ̛n kinh
tế - xã hợi đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n; được Ủy ban nhân dân huyẹ̛n phê duyẹ̛t cho
phép ở lại trường để học tạ̛p trong tuần do không thể đi đến trường và trở về nhà
trong ngày. Kể từ na̛m học 2011 – 2012 trở lại đây, Nhà nước đã ban hành chính
sách hỗ trợ mợt phần kinh phí cho HSBTDN. Học sinh BTDN được hưởng 40%
mức lương cơ bản để chi phí cho tiền a̛n cho mợt tháng và 10% mức
lương tối thiểu/ tháng/ 1 HS để hỗ trợ tiền ở đối với HSBTDN phải thuê trọ bên
ngoài nhà trường khi ở BTDN.
Trường THCS có HSBTDN vốn là hình thức tổ chức có tính tự phát cho phù
hợp với đạ̛c điểm địa phương, khu vực ở các xã có điều kiẹ̛n kinh tế - xã hợi
đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n trong các huyẹ̛n nghèo miền núi theo quy định của nhà
nước, nơi mà học sinh không thể đi học và trở về ngay trong ngày thuạ̛n lợi
được do đường giao thông xa, qua sông, suối và dốc đồi trở ngại. Mô hình
Trường THCS, Tiểu học và THCS có học sinh bán trú dân nuôi đã hình thành tự phát
vào cuối những na̛m 1950 của thế kỷ trước và nhân rợng trong những na̛m đầu
thạ̛p kỷ 90 của thế kỷ XX tại các tỉnh miền núi của nước ta, nhằm đáp ứng nhu cầu
học tạ̛p, nâng cao dân trí cho con em đồng bào các dân tợc thiểu số. Mạ̛c dù
chưa có các va̛n bản pháp lý của Nhà nước, ngành quy định về loại hình bán trú
dân nuôi, nhưng trong thực tế thì nhà Trường THCS có HSBTDN này vẫn tồn tại
10
trong các trường THCS, TH&THCS ở miền núi như mợt nhu cầu tất yếu đối với
thực tiễn GD vùng dân tợc của nước ta.
1.2.4. Vùng đặc biệt khó khăn
Vùng có điều kiẹ̛n kinh tế - xã hợi đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n là vùng được
quy định tại Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 na̛m 1998 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyẹ̛t Chương trình phát triển kinh tế - xã hợi các xã
đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n miền núi và vùng sâu, vùng xa; Quyết định số 164/2006/QĐTTg ngày 11 tháng 7 na̛m 2006 của Thủ tướng Chính phủ về viẹ̛c phê duyẹ̛t
danh sách xã đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n, xã biên giới, xã an toàn khu vào diẹ̛n đầu tư
Chương trình phát triển kinh tế - xã hợi, các xã đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n vùng
đồng bào dân tợc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn
II); Quyết định số 69/2008/QĐ-TTg ngày 25 tháng 8 na̛m 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về viẹ̛c phê duyẹ̛t bổ sung danh sách xã đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n, xã biên
giới, xã an toàn khu vào diẹ̛n đầu tư Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách
xã ra khỏi diẹ̛n đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II; Quyết định số
1105/2009/QĐ-TTg ngày 28 tháng 7 na̛m 2009 của Thủ tướng Chính phủ về viẹ̛c
phê duyẹ̛t danh sách xã đạ̛c biẹ̛t khó kha̛n, xã biên giới, xã an toàn khu vào
diẹ̛n đầu tư Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách các xã hoàn thành mục
tiêu, ra khỏi diẹ̛n đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II; Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 na̛m 2008 của Chính phủ về mợt số chính sách
hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại 62 huyẹ̛n nghèo và các Quyết định khác
của Thủ tướng bổ sung.
Các xã đặc biệt khó khăn cũng được quy định tại Quyết định số 30/2012/QĐTTg ngày 18/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí xác định thôn đặc biệt khó
khăn, xã thuộc vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2012 - 2015; Quyết định số
2405/QĐ-TTg ngày 10/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt danh sách xã đặc
biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của chương trình 135 năm
2014 và năm 2015; Thông tư số 01/2012/TT-UBDT ngày 24 tháng 10 năm 2012 của
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc hướng dẫn thực hiện Quyết định số
30/2012/QĐ-TTg.
Ngoài ra, còn có quy định về xã khu vực III - là xã thuộc vùng dân tộc và miền
núi, có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhất và có ít nhất 4 trong 5 tiêu chí sau:
11
Số thôn đặc biệt khó khăn còn từ 35% trở lên (tiêu chí bắt buộc). Tỷ lệ hộ
nghèo và cận nghèo từ 45% trở lên; trong đó tỷ lệ hộ nghèo phải từ 20% trở lên. Có ít
nhất 2 trong 3 điều kiện sau: Còn từ 30% số hộ chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh; Tỷ
lệ lao động chưa qua đào tạo nghề trên 60%; Trên 50% cán bộ chuyên trách, công chức
xã chưa đạt chuẩn theo quy định. Có ít nhất 2 trong 3 điều kiện: Còn từ 20% số hộ trở
lên thiếu đất sản xuất theo quy định; Chưa có cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư xã đạt chuẩn; Dưới 10% số hộ làm nghề phi nông nghiệp. Có ít nhất 3 trong 5 điều
kiện sau: Đường trục xã, liên xã chưa được nhựa hóa, bê tông hóa; Còn có ít nhất một
thôn chưa có điện lưới quốc gia; Chưa đủ phòng học cho lớp tiểu học hoặc các lớp
học ở thôn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Trạm y tế xã chưa đạt chuẩn
theo quy định của Bộ Y tế; Nhà văn hóa xã chưa đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
Theo Quyết định số 447/QĐ-TTg ngày 19/9/2013, công nhận thôn đặc biệt khó
khăn, xã khu vực I, II, III thuộc vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2012 - 2015 của Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, tỉnh Lạng Sơn được công nhận 91 xã đặc biệt khó
khăn, có 838 thôn, bản thuộc khu vực III; 8 xã an toàn khu.
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục dân tộc và phát triển hệ thống
trường Phổ thông dân tộc bán trú
1.3.1. Giáo dục dân tộc
Ngay từ thời dựng nước, Việt Nam đã là quốc gia đa dân tộc, các dân tộc luôn
cố kết bên nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì lẽ đó mà ngay từ khi mới ra
đời, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai trò, vị trí đặc
biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Quán
triệt tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về vấn đề dân tộc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề ra nguyên tắc định hướng chiến lược và chính sách về dân tộc ở Việt Nam
đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và nhà nước ta luôn xác định nguyên tắc: Làm
cho miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, giúp
các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình, trong cán bộ
cũng như nhân dân cần khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi,
đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên xã hội chủ nghĩa.
12
Đối với vấn đề giáo dục dân tộc, tại Điều 10, Luật Giáo dục năm 2005 có nêu
về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân: Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế, đều
bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo
điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo
được học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng. Nhà
nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi,
người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện
quyền và nghĩa vụ học tập của mình.
Qua các kỳ đại hội, đặc biệt Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đại
hội lần thứ XI, XII của Đảng đều xác định nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc là
“Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển”. Để tiếp tục thực hiện tốt
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, các cấp, các ngành cần đẩy mạnh công
tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc
thiểu số, nhất là ở các xã vùng đặc biệt khó khăn.
1.3.2. Quy định về trường PTDTBT và học sinh PTDTBT
Luật Giáo dục 2005, Điều 61, Khoản 1 nêu: “Nhà nước thành lập trường phổ
thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học cho con
em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các
vùng này”.
Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT, ngày 02/8/2010 của Bộ trưởng Bộ giáo dục
và Đào tạo Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán
trú. Điều 2, Khoản 1 nêu: “Trường PTDTBT là trường chuyên biệt, được Nhà nước
thành lập cho con em các dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài
tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào
tạo cán bộ cho các vùng này. Trường PTDTBT có số lượng học sinh bán trú theo quy
định”.
Trường PTDTBT là trường chuyên biệt thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, được
thành lập cho con em các dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài
tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào
13
tạo cán bộ cho các vùng này. Trường PTDTBT có một bộ phận học sinh bán trú là học
sinh thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, được phép ở lại trường
để học tập trong tuần do không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày.
1.3.3. Chủ trương phát triển hệ thống trường PTDTBT
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII)
đã khẳng định: “Đối với miền núi, vùng sâu vùng khó khǎn, xóa "điểm trắng" về giáo
dục ở bản, ấp. Mở thêm các trường dân tộc nội trú và bán trú cụm xã, các huyện, tạo
nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để tạo cán bộ cho các dân tộc, trước
hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và quản lý.”
Thông báo Kết luận số 242-TB/TU ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết TW 2 (khóa VIII) về nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến
năm 2020 về đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục: “Nhà nước tập trung đầu tư
cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự
chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Thực hiện tốt chính sách cử
tuyển, đào tạo theo địa chỉ với việc bổ túc nâng cao trình độ cho đối tượng cử tuyển.
Quan tâm đào tạo cán bộ vùng dân tộc (cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở).
Tiếp tục phát triển hệ thống trường nội trú, bán trú, thực hiện tốt các chính sách ưu tiên,
hỗ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số”.
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình
hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, trong đó chính sách
giáo dục, đào tạo đã nêu: Bố trí đủ giáo viên cho các huyện nghèo; hỗ trợ xây dựng nhà
bán trú dân nuôi, nhà ở cho giáo viên ở các thôn, bản ... để đáp ứng nhu cầu đào tạo
nguồn cán bộ tại chỗ cho các huyện nghèo.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, đồng thời xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn là
giải quyết những khó khăn của giáo dục dân tộc vùng đặc biệt khó khăn hiện nay, Bộ
GDĐT ban hành Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT ngày 02/8/2010 Ban hành Quy chế
tổ chức và hoạt động của trường PTDTBT. Có thể nói đây là Thông tư đánh dấu sự ra
đời chính thức của hệ thống trường PTDTBT. Xuất phát từ thực tiễn ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, thường có địa hình phức tạp,
việc đi lại khó khăn, cách trở; có một bộ phận học sinh ở vùng này đến trường học
nhưng không thể trở về nhà trong ngày, phải ở lại trong trường hoặc trong nhà dân gần
trường để theo học đủ các ngày trong tuần. Cuối tuần, học sinh mới về gia đình lấy
14
lương thực, thực phẩm, chất đốt,…mang đến trường để nấu ăn tập trung do nhà trường
quản lý hoặc tự nấu. Hình thức tổ chức trường lớp đặc trưng này đã có từ những năm
1960 của thế kỷ XX ở vùng miền núi phía Bắc của nước ta. Chính sách phát triển
trường PTDTBT có thể coi là sự hiện thực hoá chính sách của nhà nước với công tác
xã hội hoá giáo dục và mô hình trường học dựa vào cộng đồng.
Ở cấp tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Kế hoạch số 76/KHUBND ngày 29/7/2011 thực hiện Chỉ thị số 1971/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
đồng thời chỉ đạo triển khai thực hiện Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT của Bộ GDĐT
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn: Có kế hoạch thực hiện việc chuyển đổi một số trường tiểu
học, trung học cơ sở ở các xã đặc biệt khó khăn sang loại hình trường PTDTBT theo
Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT, ngày 02/8/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đồng
thời triển khai Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg ngày 21/12/2010, của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành một số chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường PTDTBT.
Chỉ thị số 29-CT/TU ngày 25/4/2014, về thực hiện Chiến lược công tác dân tộc
đến năm 2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn nêu rõ: Nâng cao chất lượng giáo
dục ở các thôn, bản, các xã khu vực đặc biệt khó khăn; quan tâm xây dựng các trường
bán trú, bán trú dân nuôi ở các cấp học. Thực hiện chính sách ưu tiên tuyển sinh cho
các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Kế hoạch số 52/KH-UBND ngày 05/6/2014, triển khai thực hiện Chiến lược
công tác dân tộc đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
đã nêu nhiệm vụ cụ thể: Phát triển giáo dục, đào tạo, tập trung nâng cao chất lượng
giáo dục ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu…; quan
tâm đầu tư xây dựng các trường bán trú, bán trú dân nuôi ở các cấp học.
Quyết định số 446/QĐ-UBND ngày 26/3/2016 của UBND tỉnh về việc phê
duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với đồng bào
dân tộc thiểu số gắn với mục tiêu phát triển bền vững đối với giáo dục dân tộc.
Sau 3 na̛m triển khai Quyết định 85 của Thủ tướng Chính phủ, ngày
13/5/2014, Bợ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị về trường Phổ thông dân
tợc bán trú tại Hà Nợi cho các đơn vị có loại hình trường này. Tính đến tháng 4
na̛m 2014 cả nước có 25 tỉnh đã thành lạ̛p trường phổ thông DTBT gồm 797
trường với 128.645 học sinh bán trú. Trong đó, cấp Tiểu học 228 trường với 29.849
học sinh bán trú; Cấp Phổ thông cơ sở (gồm Tiểu học và THCS) có 110 trường với
15
- Xem thêm -