Chính sách lãi suất & tác động của nó
đến nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG I . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1.1
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Đặc điểm
1.2
CÁC LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG.
1.2.1 Nhóm lãi suất chịu tác động của quan hệ cung – cầu vốn
1.2.2 Nhóm lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố được sử dụng để điều
hành chính sách tiền tệ
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
1.3.1 Lạm phát kỳ vọng
1.3.2 Đầu tư
1.3.3 Thuế thu nhập
1.3.4 Ngân sách của chính phủ
1.3.5 Các yếu tó khác của đời sống xã hội
1.4 VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1.4.1 Vai trò Vĩ mô:
1.4.2 Vai trò vi mô
1.5 MỘT SỐ CHÍNH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.5.1 Chính sách lãi suất cố định
1.5.2 Chính sách lãi suất trần
1.5.3 Chính sách tự do hoá lãi suất
1.5.4 Chính sách lãi suất ưu đãi
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VIỆT
NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG CỦA NÓ TỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC TA QUA MỘT SỐ GIAI ĐOẠN
2.1 GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐỔI MỚI ( NĂM 1986 ĐẾN 1990)
2.1.1 Thực trạng và tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
1
2.1.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.2 CƠ CHẾ LÃI SUẤT TÍN DỤNG GIAI ĐOẠN TỪ 1991 ĐẾN 1995
2.2.1 Diễn biến quản lý lãi suất thời kỳ này
2.2.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.3
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT GIAI ĐOẠN TỪ 1996 ĐẾN 2000
2.3.1 Thực trạng chính sách lãi suất giai đoạn này chưa cho phép tự do hóa
hoàn toàn mà có sự điều tiết của Nhà nước.
2.3.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.4 GIAI ĐOẠN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CÓ NHIỀU ĐỔI MỚI THEO
HƯỚNG TỰ DO HOÁ (NĂM 2000- ĐẾN NAY)
2.4.1 Tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
2.4.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế:
CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BẰNG VNĐ
3.2 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CÔNG CỤ LS
3.3. KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ LÍ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI VN
CHƯƠNG I . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
2
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1.1.1 Khái niệm
Từ xa xưa, khi quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá bắt đầu phát triển thì “lãi
suất” bắt đầu hình thành. Lãi suất tín dụng là một phạm trù kinh tế tổng hợp mang
tính lịch sử, nó có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác, và đóng
vai trò như một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén. Quan trọng hơn cả, lãi suất là
công cụ điều hành nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Lãi suất là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong các vấn đề kinh tế.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất, theo Sammuelson “Lãi suất là giá
của người đi vay phải trả cho người cho vay để sử dụng một khoản tiền trong
một khoảng thời gian xác định”.
1.1.2 Đặc điểm
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất có thể được thoả thuận giữa khách
hàng và các tổ chức tín dụng (TCTD), giữa người đi vay và người cho vay… Sự tự
do thoả thuận ấy đã dẫn đến hai đặc điểm chính của lãi suất:
- Tính cạnh tranh: Lãi suất huy động vốn hình thành trên cơ sở cạnh tranh giữa các
Ngân hàng thương mại(NHTM, Tổ chức tín dụnh(TCTD)… Mỗi NHTM, TCTD…
phải có lãi suất hấp dẫn để thu hút khách hàng trên nguyên tắc kinh doanh có hiệu
quả và giữ được vị trí cạnh tranh với các NHTM và TCTD khác.
- Tính linh hoạt: Lãi suất tín dụng hình thành một cách linh hoạt, nhạy bén, thích
ứng với mọi hoàn cảnh, đối tượng. Sự thay đổi thường xuyên của lãi suất tín dụng
phù hợp với sự biến động của cung, cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi ngân
sách Nhà nước, yếu tố tâm lý của người đi vay và người cho vay trên thị trường
tiền tệ, tín dụng.
1.2 CÁC LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG.
Trên thực tế, lãi suất có thể có nhiều cách phân chia khác nhau như phân
loại theo nội tệ và ngoại tệ, phân theo nghiệp vụ kinh doanh của các Tổ chức tín
dụng, phân loại theo thời gian hay phân loại theo nội dung kinh tế...Ở đây, ta chia
lãi suất trên thị trường theo các nhân tố tác động thành 2 nhóm:
1.2.1 Nhóm lãi suất chịu tác động của quan hệ cung – cầu vốn
- Lãi suất tín phiếu kho bạc, đóng vai trò là lãi suất chuẩn, thấp nhất trên thị trường
tiền tệ
3
- Lãi suất các công cụ huy động vốn của các trung gian tài chính như tiền gửi,
chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu được NTTM chấp nhận...
- Lãi suất vay vốn giữa các NHTM trên thị trường tệ liên ngân hàng.
- Lãi suất của các khoản tín dụng ngắn hạn của các NHTM cho các doanh nghiệp
vay, là lãi suất cao nhất trên thị trường tiền tệ, lãi suất của các NHTM lớn áp dụng
cho các doanh nghiệp có uy tín là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường này và
thường gọi là lãi suất cho vay cơ bản (Prime rate bank loans)
1.2.2 Nhóm lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố được sử dụng để điều
hành chính sách tiền tệ
Các lãi suất này không được xác định chủ yếu theo quan hệ cung-cầu về vốn
mà được Ngân hàng Nhà nước xác định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ,
diễn biến tiền tệ và kinh tế vĩ mô. Bao gồm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng, lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
Trong các nền kinh tế thị trường, nhà nhà nước chỉ đóng vai trò là người
điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian. Các nước
có nền kinh tế thị trường chủ yếu theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính, do vậy
cơ chế hình thành lãi suất chủ yếu dựa trên cơ chế thị trường. Đó là sự thay đổi về
cung-cầu của vốn vay ảnh hưởng tới sự hình thành và biến đổi lãi suất trên thị
trường.
Cung về vốn vay bắt nguồn từ những người có thu nhập dôi ra mà họ muốn
tiết kiệm và cho vay kiếm lời, qua đó cho thấy rằng tiết kiệm là nguồn cung về vốn
vay. Còn cầu về vốn vay bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp muốn
vay tiền để đầu tư, mua nhà đất hay xây dựng nhà máy...Như vậy, đầu tư là nguồn
gốc làm phát sinh nhu cầu về vốn vay.
Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi về cung và
cầu vốn vay, dưới dây ta chỉ phân tích những tác nhân có ảnh hưởng quan trọng
đến đường cung và đường cầu về vốn vay, qua đó tác động đến lãi suất.
1.3.1 Lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi
suất sẽ có xu hướng tăng.
Ta thấy rằng : Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát
Do đó, để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất
danh nghĩa cũng phải tăng lên tương ứng.
4
Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, công chúng sẽ chuyển phần tiết kiệm của
mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạnh thức tài sản phi tài chính khác như vàng,
ngoại tệ mạnh hơn là cho vay. Điều đó làm giảm cung về vốn vay, qua đó làm dịch
chuyển đường cung sang trái và làm lãi suất tăng lên.
Ngược lại, ta thấy rằng, nếu lạm phát dự tính có xu hướng giảm thì sẽ làm
cho lãi suất giảm xuống.
1.3.2 Đầu tư
Đầu tư là nhân tố tác động trực tiếp đến lượng cầu về vốn vay. Khi Nhà
nước có các chính sách khuyến khích về đầu tư, ví dụ như nhà nước giảm thuế lợi
tức công ty, nó có khuyến khích doanh nghiệp vay tiền và đầu tư nhiều hơn vào tư
bản mới. Qua đó làm thay đổi đầu tư tại mọi mức lãi suất và làm thay đổi đến cầu
về vốn vay. Nhu cầu vay vốn tăng lên, đường cầu về vốn vay dịch chuyển sang bên
phải và làm cho lãi suất tăng lên. Ngược lại, các chính sách của chính phủ làm kìm
hãm đầu tư sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất.
1.3.3 Thuế thu nhập
Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến
giá cả hàng hóa. Thông thường người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận sau thuế
hơn là thu nhập danh nghĩa. Nên khi thuế thu nhập tăng lên, nó làm giảm đi một
phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những
người tham gia chứng khoán. Nghĩa là khi thuế thu nhập tăng, phần tiết kiệm của
các cá nhân và tổ chức sẽ giảm đi, do đó lượng tiền cho vay trên thị trường sẽ giảm
đi. Qua đó làm giảm cung về vốn vay, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái,
lãi suất tăng lên. Ngược lại, khi thuế thu nhập giảm đi sẽ là nhân tố làm giảm lãi
suất
1.3.4 Ngân sách của chính phủ
Ta biết rằng :
Tiết kiệm quốc dân = Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm Chính phủ.
Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân
sách làm giảm tiết kiệm quốc dân, cung về vốn vay giảm, đường cung vốn vay
dịch chuyển sang trái và làm tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, Chính phủ bội
chi ngân sách như vậy sẽ tác động đến tâm lý dân chúng về sự gia tăng của lạm
phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất.
1.3.5 Các yếu tó khác của đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất trên thị trường còn chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố về đời sống xã hội khác như: sự đa dạng của các công
cụ tài chính, sự thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế tài
5
chính trung gian, hiệu suất sử dụng vốn trong các thời kỳ khác nhau do những thay
đổi trong công nghệ và sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế, và cả các
biến động về kinh tế, chính trị,... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất.
1.4 VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Lãi suất là một trong những biến số được quan tâm chặt chẽ nhất trong nền
kinh tế,bởi lãi suất không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi chúng ta mà
còn là một chỉ số đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của
lãi suất qua 2 nội dung là vai trò vĩ mô và vai trò vi mô:
1.4.1 Vai trò Vĩ mô:
Đối với Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
Sự biến động của lãi suất trong quá trình điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tác
động đến nhiều mặt của nền kinh tế như đầu tư,tiêu dùng ,tiết kiệm,tỷ giá…qua đó
ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể
tiến hành bất cứ việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật,miễn là họ có
phương tiện thanh toán.Vì vậy bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng
tiền tức lãi suất, Ngân hàng Nhà nước ở bất kì quốc gia nào cũng có thể chi phối
dược sự tăng trưởng nền kinh tế. Bằng cách tăng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có
thể làm yếu đi khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại và do đó thực hiện
chính sách tiền tệ, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất
kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi
suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoặc
muốn kìm hãm tốc độ phát triển hay đẩy mạnh phát triển một ngành nào đó,Ngân
hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay mở rộng đầu
tư ở ngành này.
Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất tín dụng còn
đóng vai trò tích cực trong kìm chế lạm phát. Tháng 3 năm 1989, Việt Nam chủ
trương áp dụng chế độ siêu lãi suất tiền gửi đã nhanh chóng đem lại kết quả là
chặn đứng lạm phát: từ 7% trong tháng 1; 9,2% trong tháng 2 đã giảm xuống 4,5%
trong tháng 3; 3,5% trong tháng 4 và tiếp tục giảm trong những tháng sau. Điều
này khẳng định sức mạnh của công cụ lãi suất trong điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ
mô dù có gây nên hiệu ứng tiêu cực đến hoạt động kinh tế. Từ năm 1989 đến nay,
chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh nền kinh tế ở Việt Nam. Sau
khi đã kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ ổn định, Ngân hàng Nhà nước
đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến khích hoạt động đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh,khôi phục kinh tế.
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà
nước nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản suất
6
kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung
ứng tiền tệ, thu hẹp đầu tư và kiềm chế lạm phát.
Thực hiện vai trò đòn bẩy kinh tế, lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp
với mục tiêu kinh tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về
điều kiện cung ứng tín dụng và thanh toán là công cụ của nhà nước nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp vào các loại sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát
triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nước chậm phát triển
muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay vào công nghệ hiện đại trong thời đại
hiện nay. Như vậy, có thể coi lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sác tiền tệ. Nó
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông,
từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều chỉnh trong cơ chế
điều hành lãi suất sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt là lượng tiền
cung ứng của các ngân hàng vào lưu thông vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận kinh doanh của các ngân hàng.Việc mở rộng khung lãi suất, hoặc tăng trần
lãi suất đối với cơ chế điều hành lãi suất cũ hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế
điều hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng tiền trong lưu thông và
ngược lại.
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó tới đầu tư,tiết kiệm.
Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm,
nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô
tiết kiệm của nhân dân. Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng
càng lớn.Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi
suất dương,nó sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì nó có khả
năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung
của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân
cũng tăng lên, ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiết kiệm tài chính.
Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, đến sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu
hút các khoản vốn nhàn rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền
kinh tế tăng trưởng ổn định.
1.4.2 Vai trò vi mô
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù
đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân
hàng phải hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn
trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của
mình. Nếu hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng
hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn) điều này thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố
gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài chính của
7
ngân hàng kinh doanh và tổ chức tín dụng là huy động vốn để cho vay. Khi huy
động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ thu lãi của người
vay. Ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các
khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các tổ chức tín
dụng.Thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối
đa về lãi suất cho vay và mức độ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền
vay nhằm đảm bảo các lợi ích cho người gửi, người vay và ngân hàng kinh doanh
có khả năng bù đắp chi phí và một phần rủi ro nếu có. Trong kinh tế thị trường, do
yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh quyết
liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…. Đứng
vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều khồng đơn giản. Với phương
châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có
liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều phải đổi mới
phương thức phục vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời
cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng khác cũng cần phấn
đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hut được nhiều khách
hàng đến mở tài khoản và vay vốn.
1.5 MỘT SỐ CHÍNH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.5.1 Chính sách lãi suất cố định
Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước khống chế NHTM cả về
lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Khi đó sẽ không có sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng, không thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ hoàn toàn có thể kiểm soát
được lãi suất, bảo vệ được nhiều doanh nghiệp nhà nước.
1.5.2 Chính sách lãi suất trần
Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối đa.
Khuyến khích huy động vốn, khả năng kiểm soát của chính phủ tốt hơn. Chính phủ
ấn định một mức lãi suất và áp đặt cho toàn bộ các ngân hàng, chính sách lãi suất
này được ấn định cho toàn bộ nền kinh tế.
1.5.3 Chính sách tự do hoá lãi suất
Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi
mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.Lãi suất tăng giảm hoàn toàn do những
biến đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường.Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện
được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đang
sử dụng chính sách lãi suất thoả thuận
8
Các Tổ chức tín dụng được thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt
động tín dụng thương mại, thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng VND.
Xét về dài hạn, việc xóa bỏ “trần” lãi súat cho vay khiến các TCTD có thể mở rộng
mạng lưới để huy động, cho vay với lãi suất phù hợp cung – cầu của thị trường.
đặc biệt đối với những người sản xuất và tổ chức kinh tế ở khu vực nông thôn.
Nhất là trong bối cảnh mà tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn nhiều so với tăng
trưởng huy động vốn. Theo NHNN, cơ chế lãi suất mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường. Nói đúng
hơn, là xoá bỏ dần những “dị biệt” của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhằm tiến
tới hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
1.5.4 Chính sách lãi suất ưu đãi
Chính sách lãi suất ưu đai là chính sách dành cho một số đối tượng đặc biệt
như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính sách
này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ
vào những dự án không mấy hiệu quả.Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và phần
lớn chính sách này lấy từ Ngân sách nhà nước.Các đối tượng được vay vốn với lãi
suất ưu đãi thường là những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải đảo,
miền núi... Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay, nhưng
lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay. ( Giai phap ???)
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VIỆT
NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG CỦA NÓ TỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC TA QUA MỘT SỐ GIAI ĐOẠN
2.1 GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐỔI MỚI ( NĂM 1986 ĐẾN 1991)
2.1.1 Thực trạng và tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
Chúng ta hãy nhìn nhận lại sự ra đời của Ngân hàng từ trước năm 1986, trong
thời kỳ này chỉ có sự hoạt động duy nhất của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam hay
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia ra đời thực hiện nhiệm vụ
chủ yếu cung cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế quốc doanh và hợp tác xã theo
sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ phân bổ Ngân
sách Nhà nước chủ yếu là cho các doanh nghiệp Quốc doanh, chưa có khái niệm
9
kinh doanh và chủ động theo nguyên tắc thị trường. Tóm lại, Nhà nước chưa quan
tâm đến công cụ lãi suất mà áp đặt trong quản lý. Vai trò công cụ lãi suất trong giai
đoạn này là không có.
Từ 1986, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng tiền tệ, tín
dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Do những nguyên nhân như chiến tranh kéo dài tàn phá để lại những hậu quả nặng
nề cho nền kinh tế, sai lầm trong cơ chế điều hành nền kinh kế theo tập trung bao
cấp. Xét trên khía cạnh tài chính, giai đoạn này hệ thống tài chính không phát triển
do chưa nhìn nhận được vai trò của chính sách lãi suất theo tín hiệu thị trường dẫn
đến nền kinh tế đã trì trệ lại càng trì trệ hơn. Nhận thấy tình hình trên, ĐH Đảng 6
tháng 12-1986 quyết định đổi mới nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường,
trong đó đổi mới quản lý đối với hoạt động Ngân hàng.
Nhìn chung, hoạt động của Ngân hàng vẫn nằm trong sự quản lý chặt chẽ của
NN về cung cấp tín dụng cho tổ chức kinh tế Quốc doanh và hợp tác xã. Tuy
nhiên, với nhiệm vụ cấp phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản thuộc Ngân sách cho
các dự án, cho vay với mức lãi suất do Nhà nước quản lý chặt chẽ đã có tác động
đến việc nâng cao trách nhiệm cho các ngành trong việc sử dụng nguồn vốn có
hiệu quả.
Cũng trong giai đoạn này, lạm phát rất cao do những sai lầm trong cải cách giá
- lương – tiền. Đỉnh điểm là năm 1986, chỉ số lạm phát lên tới 774.7%, sản xuất
đình trệ nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn. Việc tăng lãi suất không đáng kể với mức lạm phát quá cao lúc bấy giờ. Thời
kỳ lãi suất thực âm kéo dài từ 1986-1989, có thể nói trước 1989 do chưa áp dụng
triệt để chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường, cùng với mức lạm phát phi mã
khiến cho lãi suất thực tế ở mức âm.
Trước tình hình trên, đến năm 1988, cùng với quá trình chuyển đổi của nền kinh
tế, hệ thống Ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ hệ thống Ngân hàng 1 cấp
sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp bao gồm có 4 Ngân hàng quốc doanh. Lãi suất tiền
gửi và cho vay của các Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước quy định, mức lãi suất
được áp dụng khác nhau tùy theo các đối tượng. Bên cạnh đó, Chính phủ áp dụng
chính sách lãi suất mới nâng dần mức lãi suất lên theo kịp chỉ số lạm phát, đối phó
với tình hình lạm phát cao lúc bấy giờ. Tuy nhiên, mức lãi suất huy động thực tế
vẫn âm, thể hiện năm 1982, lãi suất huy động là 1.5%/ năm kỳ hạn 3 tháng với
mức lạm phát 7.95%/ năm dẫn đến lãi suất thực âm 5.45%/ năm.
2.1.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
Trong giai đoạn đầu đổi mới, nền kinh tế nhìn chung đang trong tình trạng
khủng hoảng, sản xuất còn trì trệ, đời sống nhân dân còn khó khăn. Ngoài nguyên
nhân, do chiến tranh, cấm vận, tình hình trên còn do những sai lầm trong cơ chế
10
quản lý còn non trẻ của Nhà nước ta. Sớm nhận thức được sai lầm, Đảng và Nhà
nước đã có những điều chỉnh đáng kể.
Xét trên khía cạnh chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất nói
riêng cũng có những bước đổi mới lớn. Nhìn chung, trong giai đoạn này, Chính
phủ duy trì chính sách lãi suất cố định. Tuy đây là chính sách chưa mang tính chất
tự do hoạt động theo tín hiệu thị trường nhưng với nền kinh tế còn nhiều yếu kém
thì nó đã đem lại hiệu quả nhất định. Việc Ngân hàng Nhà nước chỉ định mức lãi
suất có tác dụng ổn định thị trường vốn, bảo hộ những nhiều ngành kinh tế còn non
yếu mới ra đời trong thời kỳ này.
Việc nâng mức lãi suất huy động được thực hiện nhưng chưa theo kịp được
lạm phát, mức lãi suất thực âm còn kéo dài từ những trước năm 1986 cho đến đầu
năm 1992. Tuy nhiên, chính sách này cũng đã có ảnh hưởng tới đời sống nhân dân
trước tình hình lạm phát lúc bấy giờ. Nhờ tăng lãi suất mà việc huy động vốn trở
nên có hiệu quả hơn, lạm phát từng bước được đẩy lùi. Cũng trong thời gian này,
hoạt động huy động vốn diễn ra hết sức sôi động làm cho lãi suất tăng nhanh, các
quỹ tín dụng đua nhau mọc lên nhưng do thiếu sự kiểm soát nghiêm ngặt nên
nhanh chóng đổ bể. Đến năm 1990, nhiều quỹ tín dụng huy động vốn với lãi suất
cao đồng loạt đổ bể, hậu quả đánh mất lòng tin của dân chúng.
2.2 CƠ CHẾ LÃI SUẤT TÍN DỤNG THỜI KỲ TỪ 1992 ĐẾN 1995
2.2.1 Diễn biến quản lý lãi suất thời kỳ này
Đại hội Đảng VII tháng 6/1991 đã đề ra chiến lược: ổn định và phát triển
kinh tế xã hội đến năm 2000 đồng thời đề ra phương hướng cho kế hoạch 5 năm
1991 - 1995. Khó khăn lớn lúc này là nền kinh tế vẫn bị bao vây, cấm vận trong
bối cảnh các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô (cũ) rơi vào khủng hoảng
trầm trọng. Song thuận lợi lúc này là đổi mới đã phát huy tác dụng, các cơ sở kinh
tế thích nghi dần với cơ chế quản lý mới.
Tháng 6/1992 được coi là mốc quan trọng đánh dấu một bước chuyển quan
trọng nhất về chất trong cơ chế lãi suất tín dụng. NHNN đã chuyển từ cơ chế lãi
suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương và được quản lý theo khung lãi suất.
Những điểm cơ bản của chính sách lãi suất mới là như sau:
Một là, NHNN quy định khung lãi suất của NHTM đối với nền kinh tế (lãi
suất tối thiểu đối với tiền gửi và lãi suất tối đa đối với tiền cho vay).
Hai là, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân,
chấm dứt sự bao cấp về vốn qua kênh tín dụng ngân hàng.
11
Ba là, đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy định lãi suất cho vay tối đa bằng
ngoại tệ. Lãi suất huy động bằng ngoại tệ do các NHTM quyết định trên cơ sở lãi
suất thị trường tiền tệ quốc tế và cung - cầu vốn ngoại tệ trong nước.
Từ thág 6/1992 đến cuối năm 1993, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất
cho phù hợp với chỉ số lạm phát và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ được điều chỉnh tăng từ 6,5%/năm lên
7,5%/năm, phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế. Kết quả là vốn huy động
hàng năm tăng hơn 20%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng gần 50%.
Trong 2 năm 1994 - 1995, cơ chế lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo
hướng thích ứng với cơ chế thị trường, phù hợp với quan hệ cung - cầu vốn, đồng
thời hạn chế sự can thiệp trực tiếp của NHN vào hoạt động kinh doanh của các tổ
chức tín dụng. NHNN chỉ khống chế mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức
tín dụng đối với nền kinh tế. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do tổ chức
tín dụng ấn định. Cho phép các tổ chức tín dụng điều chỉnh lãi suất tiền gửi của các
tổ chức kinh tế lên gần sát với mức lãi suất tiền gửi dân cư. Tăng lãi suất cho vay
trung và dài hạn lên 1,7%/tháng.
Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh 3 lần từ 7,5%/năm lên 9,5%/năm phù hợp
với sự biến động của lãi suất thị trường quốc tế.
Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng được thể hiện
ở bảng sau:
Diễn biến lãi suất cho vay và tiền gửi bình quân các năm
Đơn vị: %/ tháng
Lãi suất/thời điểm
1986 -1990
Cho vay
tháng
bình
quân
Tiền gửi
tháng
bình
quân
Chênh lệch
1991
1992
1993
1994
1995
4,3
2,5
2,5
1,8
1,6
1,7
6,0
2,9
1,9
1,4
1,3
1,4
- 1,7
- 0,4
0,6
0,4
0,3
0,3
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế, NHNN.
2.2.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
12
a) Như vậy, điểm nổi bật của cơ chế điều hành lãi suất tín dụng thời kỳ
1992 - 1995 so với thời kỳ trước 1992 có thể được nhìn nhận dưới các mặt sau:
- Cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân lớn hơn lãi suất tiền
gửi, lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát. NHNN chỉ quy định khung lãi suất tạo
điều kiện cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn. Mặt khác, NHNN còn cho phép
các TCTD huy động và cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các dự án có hiệu
quả, chủ yếu là đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ nông dân. Đây là
bước khởi đầu đánh dấu tiến trình tự do hoá lãi suất trong các lần điều chỉnh cơ
chế lãi suất sau này.
- Xoá bỏ quy định lãi suất phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các ngành
kinh tế, đưa lãi suất biến động tiến sát với lãi suất thị trường phù hợp với quan hệ
cung - cầu về vốn; rút ngắn khoảng cách chênh lệch bất hợp lý giữa lãi suất cho
vay ngắn hạn với lãi suất cho vay trung và dài hạn, giữa lãi suất nội tệ với lãi suất
ngoại tệ.
- Bỏ bao cấp qua lãi suất, thúc đẩy các TCTD chuyển sang hạch toán kinh
doanh, hạn chế việc ngân sách phải cấp bù lỗ lãi suất cho ngân hàng, đồng thời
giúp các doanh nghiệp có cơ sở xác định thực chất trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
b) Tuy nhiên, cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ này cũng bộc lộ những tồn tại
chủ yếu sau:
- Quá trình điều hành cơ chế lãi suất còn thiếu linh hoạt, chưa điều chỉnh kịp
thời khung lãi suất để phù hợp với tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Tăng trưởng
kinh tế thời kỳ này bình quân hơn 8%, lạm phát được kiềm chế ở mức 2 con số,
riêng năm 1993 ở mức 1 con số nhưng lãi suất vẫn giữ nguyên ở mức quá cao.
- Lãi suất cho vay còn cao so với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Điều này được dễ ràng nhận thấy khi tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành
Công - Nông nghiệp và Dịch vụ từ 1992 - 1995 chỉ ở mức 5,15 - 12%, trong khi lãi
suất cho vay bình quân ở mức 12 - 21%/năm.
- Lãi suất cho vay trung và dài hạn còn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn,
TCTD không mạnh dạn mở rộng cho vay trung và dài hạn do lo rủi ro. Điều này
không phù hợp với cơ chế thị trường.
- Lãi suất đồng Việt Nam và ngoại tệ còn khoảng cách chênh lệch khá lớn.
Điều này gây bất lợi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vì họ phải vay đồng Việt
Nam với mức lãi suất cao trong khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp, xuất hiện tình
trạng vay vốn ngoại tệ lòng vòng giữa các doanh nghiệp, NHTM với nhau để
hưởng chênh lệch lãi suất, đẩy cầu ngoại tệ tăng cao.
13
- Bên cạnh cơ chế khung lãi suất là cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận
bằng nguồn vốn huy động kỳ phiếu, trái phiếu của NHTM. Do vậy, nhiều TCTD,
nhất là các NHTMCP cho vay bằng các nguồn vốn khác cũng áp dụng cơ chế lãi
suất thoả thuận, do đó đẩy mặt bằng lãi suất lên cao vượt quá khung lãi suất cho
vay quy định của NHNN.
2.3 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT THỜI KỲ TỪ 1996 ĐẾN 2000
2.3.1 Thực trạng chính sách lãi suất thời kỳ này
Trong giai đoạn này, Ngân Hàng Nhà Nước đã đưa ra nhiều quyết định
quan trọng về lãi suất , nhằm từng bước tự do hóa lãi suất theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, Nhà nước vẫn đóng vai trò rất quan trọng. Chính sách lãi suất trần và
chính sách lãi suất sàn từng bước được đổi mới để thích ứng với sự phát triển kinh
tế .
Năm 1996 , chính sách lãi suất có sự thay đổi lớn, mức lãi suất đã được hạ
xuống còn 2,1% -1,75%/tháng, kèm theo quy định mức chênh lệch giữa lãi suất
cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa không được quá 0,35%.
Năm 1997-1998, Ngân Hàng Nhà nước đã không xiết chặt kiểm soát lãi
suất mà lại có vẻ nới lỏng chính sách lãi suất, trần lãi suất được nâng lên, các
Ngân hàng Thương mại có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn và quy
định giới hạn chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi ở mức
0,35%/tháng. Giảm lãi suất cho vay bình quân tối thiểu là 0,35%/tháng để tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất, tạo nguồn thu
cho ngân sách nhà nước.
Thực hiện chủ trương của Quốc hội, theo chỉ đạo của Chính phủ ngày
28/12/1997 Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước đã kí quyết định số 381/QĐ-NH1về
việc điều chỉnh lãi suất tín dụng với nội dung bắt đầu được thực hiện từ ngày
1/1/1998 , theo đó quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1,75%/tháng và trần
lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1.7%/tháng, lãi suất huy động của các ngân
hàng thương mại quy định trên cơ sở chênh lệch lãi suất huy động bình quân và lãi
suất cho vay bình quân không quá 0,35%/tháng .
Quyết định này đạt được một bước tiến quan trọng về quản lý lãi suất, giao
quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại trong việc điều hành lãi suất theo
tín hiệu của thị trường, theo quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường , hoàn cảnh
riêng của từng ngân hàng thương mại, từng khu vực kinh tế . Qua việc thực hiện
quyết định số 381/QĐ-NH, hầu hết các Ngân hàng Thương mại đã thực hiện tốt
trần lãi suất cho vay là 1,75%/tháng, nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng tiếp
tục tăng lên, đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế . Tuy nhiên, chúng ta cũng
14
thấy một điều rằng, nguồn vốn của các ngân hang thương mại tăng mạnh, chủ yếu
là gia tăng nguồn vốn ngắn hạn và dẫn đến một hiện tượng là một số ngân hàng
thương mại quốc doanh thừa vốn nhắn hạn trong khi vốn trung và dài hạn lại bị
thiếu một cách nghiêm trọng .
Năm 1998, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ba lần điều chỉnh giảm mức lãi
suất trần. Quyết định số191/QĐ-NH1 ban hành ngày 15/7/1998 theo đó trần lãi
suất cho vay ngắn hạn giảm xuống còn 1,6%/tháng , trung dài hạn xuống
1,65%/tháng .
Quyết định số 225/QĐ-NH1 ban hành ngày27/8/1998 hạ trần lãi suất cho
vay ngắn hạn xuống còn 1,5%/tháng , trung dài hạn 1,55%/tháng .
Quyết định số 266/QĐ-NH1 ban hành ngày 27/9/1998 giảm trần lãi suất cho
vay ngắn hạn xuống 1,25%/tháng , trung dài hạn là 1,35%/tháng .
Như vậy, chúng ta thấy trần lãi suất cho vay ngắn hạn của các tổ chúc tín
dụng không ngừng điều chỉnh giảm cùng với sự giảm xuống của tỉ lệ lạm phát lãi
suất cho vay trung dài hạn giảm nhưng tăng trưởng đối với lãi suất ngắn hạn, điều
này là hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và nguyên lý chung . Các quyết định
đảm bảo được cả ba lợi ích : lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung, của người
gửi tiền và các tổ chức tín dụng . Đặc biệt, đáng chú ý là lần đầu tiên việc quy định
chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh
doanh tiền tệ, thay vì quy định từng lãi suất cụ thể đối với từng nguồn cụ thể như
trước đây, Ngân hàng Nhà nước chỉ khống chế chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho
vay bình quân và lãi suất huy động bình quân , các tổ chức tín dụng được tự chủ ấn
định các mức lãi suất huy động cụ thể . Chính sách này đã khuyến khích hoạt động
tín dụng phát triển tăng trưởng kinh tế cao , tạo việc làm và kiềm chế lạm phát ở
mức thấp.
Cho đến tháng 1 năm 2000 Ngân hàng Nhà nước có thêm hai lần điều chỉnh
lãi suất đó là:
- Quyết định số 179/QĐ-NH ban hành ngày 28/5/1999 hạ trần lãi suất xuống
1,00%/tháng , trung dài hạn là 1,10%/tháng .
- Quyết định số 39/QĐ-NH1 ban hành ngày 17/1/2000 tăng dần lãi suất cho
vay ngắn hạn lên 1,2%/tháng, trung và dài hạn là 1,25%/tháng .
Cùng với Quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước còn quy định các mức lãi
suất ưu đãi cho vay phục vụ người nghèo (0,8%/tháng) cho vay với các tổ chức
kinh tế và dân cư thuộc vùng núi cao 0,5 0,6%/tháng, cho vay học sinh, sinh viên
0,7%/tháng, lãi suất nợ quá hạn 150% mức lãi suất trần cho vay cùng loại. Quy
định lãi suất tiền gửi ngoại tệ tối đa của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng
không kỳ hạn là 1,5%/năm, kỳ hạn 6 tháng 4%/năm, kỳ hạn trên 6 tháng là
3,5%/năm .
Mặt khác, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu
vực, nên nền kinh tế tăng trưởng thấp. Nhưng về chính sách lãi suất chưa áp dụng
15
hoàn toàn theo cơ chế thị trường nên lãi suất Việt Nam đồng vẫn cao hơn nhiều so
với tỷ lệ lạm phát . Năm 2000 do có thiểu phát nên lãi suất đã được điều chỉnh
giảm chút ít, nhưng xem xét lãi suất thực dương thì lại không phải giảm mà tăng
lên. Tỷ lệ lãi suất dương chia cho tỷ lệ lạm phát năm 1996 là 120%, năm 1997 là
175%, năm 1998 là 11,6% ,năm 1999 là 5350% và năm 2000 thì quá cao trên
6000%. Điều này lý giải vì sao giai đoạn này thiểu phát.
2.3.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
a) Những mặt tích cực
- Đảm bảo sự phù hợp , ổn định giữa lãi suất huy động và chỉ số lạm phát, giữa lãi
suất đầu ra với lãi suất huy động. Do đó, lãi suất thực dương đảm bảo lợi ích cho người
gửi tiền .
- Trần lãi suất cho vay tối đa liên tục được điều chỉnh giảm kết hợp với từng bước
nới lỏng các điều kiện vay vốn (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, công chứng…) nhằm tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu
quả kinh tế và nền kinh tế tăng trưởng cao, Đồng thời, lãi suất thấp phù hợp hơn với tỷ
suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chính sách lãi suất kết hợp với nhiều biện pháp, nhằm tăng nhanh khối lượng vốn
huy động và cho vay, để tạo ra khối lượng vốn cho đầu tư phát triển kinh tế,xã hội
- Điều chỉnh các mức lãi suất ưu đãi phù hợp để ưu tiên phát triển kinh tế những
vùng khó khăn như: vùng núi, hải đảo, tầng lớp khó khăn như nông dân, học sinh đi học
- Chính sách lãi suất tiếp tục được điêù chỉnh theo hướng tự do hoá, quyền chủ
động các Ngân hàng Thương mại ngày càng được nới lỏng, Nhà nước giảm dần sự can
thiệp quá sâu tạo điều kiện ban đầu cho việc lãi suất được hình thành theo quy luật cung
cầu trên thị trường.
b) Những mặt hạn chế
- Lãi suất thực thường xuyên biến đổi do lạm phát thay đổi thường xuyên, Nhưng
lãi suất huy động lại không được điêù chỉnh kịp thời. Do đó, thu nhập thực tế của người
gửi tiền bấp bênh, không ổn định
- Chính sách lãi suất vẫn còn mang tính chính sách xã hội, nên ảnh hưởng nhiều
đến hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại, chưa xem xét đến mức độ rủi
ro của các tổ chức tín dụng khi gặp phải trong hoạt động kinh doanh tiền tệ
- Trong suốt thời gian dài vẫn tồn tại chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất
ngoại tệ và gây khó khăn trong việc thu hút vốn ngoại tệ từ lưu thông về , tạo trục trặc
cho những người vay vốn ngoại tệ từ ngân hàng .
2.4 GIAI ĐOẠN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CÓ NHIỀU ĐỔI MỚI THEO
HƯỚNG TỰ DO HOÁ (NĂM 2000- ĐẾN NAY)
16
2.4.1 Tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
Trước năm 2000, Ngân hàng Nhà nước ấn định mức giá trần cho vay như đã
nêu trên. Thời điểm năm 1999, khi Ngân hàng Nhà nước giảm mức lãi suất trần
xuống cho phù hợp với tình hình lạm phát, các Ngân hàng thương mại không điều
chỉnh kịp dẫn đến việc lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trần lãi suất.
Trước tình hình đó tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước thay thế trần lãi suất
bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều
chỉnh theo lãi suất cơ bản do Nhà nước công bố. Các ngân hàng không được tính
lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0.3%/ tháng đối với vốn
ngắn hạn và 0.5%/ tháng đối với vốn trung và dài hạn. Về bản chất, cơ chế lãi suất
cơ bản không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, lãi suất cơ
bản cộng biên độ cao hơn trần lãi suất cũ rất nhiều, đây là cơ sở cho các ngân hàng
thực hiện việc thoả thuận lãi suất với khách hàng để ấn định mức lãi suất cho ngân
hàng mình. Trên thực tế, lãi suất cho vay của các ngân hàng luôn cao hơn mức lãi
suất cơ bản nhưng biến động theo lãi suất cơ bản. Thể hiện năm 2000 và năm
2001, khi Ngân hàng Nhà nước giảm mức lãi suất cơ bản thì lãi suất cho vay của
các ngân hàng thương mại có xu hướng giảm theo. Cũng trong thời gian này lãi
suất tiền gửi tăng lên, chính sự cạnh tranh của các ngân hàng đã giảm sự chênh
lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
Tới tháng 11 năm 2001, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá, cho phép
người đi vay có thể thương lượng lãi suất với ngân hàng nội địa cũng như các ngân
hàng nước ngoài. Đến tháng 6 năm 2002, lãi suất đồng Việt Nam cũng được tự do
hoá, ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và
thương lượng với khách hàng. Ngay khi áp dụng chính sách lãi suất mới này, các
ngân hàng tăng lãi suất huy động và mức lãi suất cho vay cũng nhích dần lên. Thời
điểm này, lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước chỉ mang tính chất tham khảo.
Nguyên tắc điều hành lãi suất của ngân hàng là lãi suất do thị trường quyết định.
Ngân hàng Nhà nước chỉ có tác động nhất định hạn chế để thị trường không có
biến động đột biến.
Năm 2004, tình hình Thế giới có nhiều biến động, giá thành nguyên vật liệu
tăng mạnh tạo ra chi phí đẩy làm cho giá cả tăng nhanh, lạm phát gia tăng. Lãi suất
tăng không theo kịp lạm phát, đồng tiền mất giá, làm cho lạm phát càng gia tăng.
Đến 6 tháng đầu năm 2005, chỉ số giá tăng so năm 2004 là 8.6%, như vậy đã làm
cho lãi suất thực tế trong 2 năm này ở mức âm. Lạm phát cao ở nhiều nước, Cục
dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất lên cao cũng trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình lãi
suất ở Việt Nam.
17
Năm
2001
2002
2003
2004
Lãi suất cho Lạm
phát Lãi suất cho
vay (%/năm) (%/năm)
vay thực tế
(%/năm)
9.0
0.8
8.2
9.2
4.0
5.2
9.6
3.0
6.6
10.0
9.5
0.5
Tỷ
lệ
LSCVTT/TP
(%)
1052.0
130.0
220.0
5.2
Tình hình lãi suất cho vay qua các năm 2001-2004
Năm
2001
2002
2003
2004
Lãi suất huy Lạm
phát Lãi suất huy
động (%/năm) (%/năm)
động thực tế
(%/năm)
5.4
0.8
4.6
6.0
4.0
3.0
6.2
3.0
3.2
6.2
9.5
-3.3
Tỷ
lệ
LSHĐTT/TP
(%)
575.0
50.0
106.6
-34.74
Tình hình lãi suất huy động qua các năm 2001-2004
Trước tình hình năm 2004-2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín
dụng cho nền kinh tế cũng tăng, Ngân hàng nhà nước không tăng mức lãi suất, chủ
trương giữ ổn định cả lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu,
chính sách được áp dụng để kìm chế lạm phát hện này đó là mức dự trữ bắt buộc.
Loại lói suất
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
0,65%/tháng 1426/QĐ-NHNN ngày
Lói suất cơ bản
01/10/2005
(7,8%/năm) 30/9/2005
Lói suất tái cấp
316/QĐ-NHNN ngày
6,00%/năm
01/04/2005
vốn
25/3/2005
316/QĐ-NHNN ngày
Lói suất chiết khấu 4,00%/năm
01/04/2005
25/3/2005
Mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước áp dụng với các Ngân hàng thương mại
2.4.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế:
18
Sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất, do sự cạnh tranh của các ngân hàng, đã
đẩy mức lãi suất cho vay và huy động của các ngân hàng tăng dần lên. Dẫn đến
mức lãi suất thực tế trong 3 năm 2001-2003 khá cao. Trên thực tế cho thấy lãi suất
giờ đây đã phản ánh đúng hơn cung cầu trên thị trường vốn vay, các ngân hàng
hoạt động theo cơ chế thị trường và sẽ đẩy mạnh cải cách để tăng cường khả năng
cạnh tranh. Ngoài ra, lãi suất cơ bản chỉ mang tính chất tham khảo, các ngân hàng
sẽ có thể đưa ra lãi suất khác nhau tuỳ theo mức rủi ro của khách hàng và chi phí
cho vay. Như vậy, các hộ kinh doanh nhỏ hay nông dân không bị loại ra ngoài như
trước đây, góp phần thúc đẩy sản xuất nhỏ nhưng lại đóng vai trò khá lớn trong sự
phát triển của cả nền kinh tế. Lãi suất cho vay được tự do hoá đã có tác động tích
cực làm cho hệ thống tín dụng ngân hàng sôi động hẳn lên dưới sự cạnh tranh của
các ngân hàng. Các ngân hàng phải nâng cao khả năng thẩm định dự án, quyết định
mức lãi suất, cạnh tranh thu hút vốn vay, tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả khi
chênh lệch cho vay và huy động giảm xuống. Hoạt động của các ngân hàng góp
phần hướng hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng tích cực hơn nhờ việc thẩm
định cung cấp vốn cho các dự án có hiệu quả. Ngoài ra, đây là bước đi đúng của
toàn bộ hệ thống tín dụng ngân hàng trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, cũng do sự cạnh tranh mở rộng quy mô ngân hàng dẫn đến việc đẩy
lãi suất lên cao, làm cho lãi suất không ổn định. Việc tăng lãi suất huy động
khuyến khích nhân dân gửi tiền vào nhưng cũng làm cho lãi suất cho vay tăng lên,
chi phí đề năng lên doanh nghiệp khiền cho các doanh nghiệp trì hoãn vay vốn mở
rộng sản xuất như vậy gây tác động xấu đến nền kinh tế. Hiện nay, một vấn đề đặt
ra đó là lãi suất VND cao hơn lãi suất USD, tỷ giá ổn định khiến cho nhiều doanh
nghiệp chuyển sang vay bằng USD. Nhưng, nguy cơ tiềm ẩn đó là khi có sự biến
động mạnh về tỷ giá sẽ gây rủi ro cho các doanh nghiệp.
Hiện nay, Ngân hàng nhà nước chỉ sử dụng lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất trên thị trường mở kết hợp công cụ khác để điều hành chính sách tiền
tệ. Lãi suất cơ bản chỉ mang tính chất tham khảo. Lãi suất chiết khấu, lãi suất tái
cấp vốn chưa phản ánh hết lãi suất thị trường, chỉ thể hiện diễn biến ngắn hạn. Đây
là khoản vay khi ngân hàng thiếu hụt thanh khoản thì nó mới phát huy tác dụng.
Như vậy, tình hình tăng lãi suất từ năm 2001-2003 không thể hiện sự khan hiếm
vốn của thị trường, các công cụ nêu trên của Ngân hàng nhà nước là chưa phát huy
được tác dụng ngăn làn sóng tăng lãi suất của các ngân hàng, nó có tác động mạnh
tới tăng trưởng nền kinh tế.
Năm 2004-2005, tình hình có diễn biến khác lạm phát là tình trạng chung đối
với toàn bộ thế giới. Các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất do sức ép của việc FED
tăng lãi suất đồng ngoại tệ. Trái với tình hình trên, Ngân hàng nhà nước chủ trương
giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, mặc dù về
mặt nào đó lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu có tác động nhất định đến
19
cung cầu trên thị trường. Công cụ tác động chỉ là dự trữ bắt buộc. Đây là bứơc đi
được xem là thận trọng của Ngân hàng nhà nước đạt được mục tiêu tăng trưởng lại
không ảnh hưởng đến chính sách kích cầu của Chính phủ.
CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI.
Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế là vấn đề
mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hoá lãi suất
đóng vai trò là hạt nhân và làm cho các nguồn tài chính lưu thông trong suốt, từ đó
góp phần làm thúc đẩy kinh tế-tài chính Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế
giới phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay. Tuy nhiên quá trình tự do
hoá lãi suất (TDHLS) ở nước ta phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách
thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần
môi trường tự do hoá lãi suất.
Thứ nhất, việc tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến
hành tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, các quy định
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của khách hàng tại các tổ chức tín
dụng - một rào cản đối với quá trình TDHLS - đã được bãi bỏ, tuy nhiên môi
trường pháp lí cho việc tự do hoá LS ngoại tệ vẫn còn chồng chéo, chưa được nới
lỏng, chưa thật sự thu hút người gửi tiền và người đi vay.
Thứ hai, trên thị trường nội tệ LS cho vay bằng đồng VN không còn bị khống
chế song vẫn chưa được tự do hoá. Do vậy cần hình thành và hoàn thiện cơ chế
điều hành LS trên thị trường tiền tệ song song với việc thực hiện nhiều giải pháp
nhằm phát triển thị trường tiền tệ, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu quả của các
công cụ LS thông qua lựa chọn LS định hướng phù hợp với mức độ phát triển của
thị trưòng tiền tệ.
Việc hoàn thiện cơ chế LS trên thị trường tiền tệ và nâng cao hiệu quả của các
công cụ LS phải được tiến hành theo hướng tác động nhanh, mạnh đến thị trường
tiền tệ trong những thời điểm cần thiết hay những giai đoạn diễn biến bất lợi cho
hoạt động tiền tệ đảm bảo điều tiết được thị trường tiền tệ.
3.1. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BẰNG VNĐ
3.1.1 Hoàn thiện cơ chế điều hành LS trên thị trường tiền tệ
Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi quy định về cơ chế tài chính đối với các tổ
chức tín dụng đồng thời tiến hành đồng bộ các biện pháp đồng bộ.
Ở tầm vĩ mô:
20
- Xem thêm -