Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách đối ngoại của liên bang nga dưới thời tổng thống v. putin...

Tài liệu Chính sách đối ngoại của liên bang nga dưới thời tổng thống v. putin

.PDF
103
158
123

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------Nguyễn Hải Vân Anh CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG V.PUTIN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC Hà Nội-2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------------Nguyền Hải Vân Anh CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG V.PUTIN Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế Mã số: 60.31.40 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phạm Quang Minh HÀ NỘI-2008 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 4 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 6 3. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8 4. Phương pháp nghiên cứu 9 5. Kết cấu luận văn 10 CHƯƠNG 1 Tình hình thế giới và Liên bang Nga dưới thời Tổng thống 11 V.Putin 1.1. Tình hình thế giới 11 1.2. Tình hình trong nước 14 1.3. Vài nét về con người V.Putin 20 CHƯƠNG 2 Nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang 23 Nga dưới thời Tổng thống V.Putin 2.1. Quá trình hình thành chính sách đối ngoại 23 2.1.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại 23 2.1.2. Những giai đoạn chính trong quá trình hình thành chính 27 sách đối ngoại 2.2. Nội dung của chính sách đối ngoại 32 2.2.1. Chính sách đối ngoại “định hướng Âu- Á” 32 2.2.2. Chính sách đối ngoại của Nga với một số đối tác 35 2.2.2.1. Chính sách đối ngoại của Nga đối với SNG 36 2.2.2.2. Chính sách đối ngoại của Nga đối với Châu Âu 38 2.2.2.3. Chính sách đối ngoại của Nga đối với Mỹ 44 2.2.2.4. Chính sách đối ngoại của Nga đối với Châu Á 47 1 2.2.3. CHƯƠNG 3 Chính sách đối ngoại linh hoạt, thực dụng 63 Đánh giá chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời 71 Tổng thống V.Putin 3.1. Một số thành tựu 71 3.2. Một số thách thức 75 3.3. Tác động của chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới 78 thời Tổng thống V.Putin đối với thế giới và khu vực 3.4. Triển vọng chính sách đối ngoại của Liên bang Nga KẾT LUẬN 81 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN Association of Southeast Asia Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN ABM Anti-Ballistic Missile Treaty Hiệp ước phòng thủ chống tên lửa đạn đạo EU European Union Liên minh Châu Âu FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội NATO North Atlantic Treaty Organization Khối hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương NMD National Missile Defense Hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo quốc gia OECD Organization for Economic Cooperation and Devolopment Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới 3 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thế kỷ XX là thế kỷ đánh dấu những thăng trầm, biến đổi của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay. Hầu hết mọi sự kiện lớn của thế giới trong thế kỷ qua đều gắn liền với Liên Xô và Liên bang Nga. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nhắc đến Liên Xô là người ta nghĩ ngay đến đất nước của Lênin, đến thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít, là người đi tiên phong trong việc tạo dựng một chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa - đối lập với những gì mà các nước tư bản đang theo đuổi. Nhưng vào những năm cuối của thế kỷ, do những định hướng sai lầm trong công cuộc cải tổ, do nóng vội, chủ quan duy ý chí, Liên Xô đã sụp đổ và thay thế vào đó là nhà nước Liên bang Nga hiện nay. Nước Nga mới kế tục sự nghiệp của Liên Xô với một nền kinh tế lạc hậu, nền chính trị rệu rã và quân sự đang bị thách thức nghiêm trọng. Nước Nga từ địa vị cường quốc hàng đầu thế giới đang dần dần tụt xuống vị trí các quốc gia hạng hai, thậm chí hạng ba. Chính vào những năm tháng bản lề này, người ta thấy sự xuất hiện của một nhân vật làm thay đổi được cục diện và tình hình của nước Nga. Đó là Vladimir Vladimirovich Putin. Ông là vị Tổng thống thứ hai của Liên bang Nga và đã đi vào lịch sử của đất nước này như là người có công trong việc khôi phục nước Nga từ “đống hoang tàn” của những năm cải tổ, để bước vào thế kỷ mới. Sự xuất hiện của V.Putin trên vũ đài chính trị nước Nga, sự thăng tiến quá nhanh và cả uy tín của ông, cùng với lòng ngưỡng mộ mà người dân Nga dành cho ông đã trở thành một sự kiện không chỉ riêng với nền chính trị của nước Nga mà cả thế giới. Lịch sử nước Nga trong thế kỷ XX, chưa từng biết đến một sự vươn tới đỉnh cao quyền lực của một lãnh tụ chính trị nào nhanh đến như vậy. Trong nhiều trường hợp thường thì điều này chỉ đạt được nhờ đấu tranh chính trị phức tạp và bền bỉ, thậm chí có thể phải đổ máu. 4 Vực dậy một đất nước đã quá suy yếu và chia rẽ là điều không đơn giản với bất kỳ nhà lãnh đạo nào. Nhưng V.Putin đã làm được điều đó. V.Putin đã biến một nước Nga hỗn loạn thành một nước Nga ổn định, một nền kinh tế đổ vỡ thành một nền kinh tế phát triển, một nước Nga suy sụp thành một nước Nga đầy tự tin và kiêu hãnh. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, nước Nga đạt được những thành tựu đó là do chính sách đối nội và chính sách đối ngoại đúng đắn của Tổng thống V.Putin. Ngay sau khi trở thành Tổng thống, V.Putin đã đưa ra chính sách đối ngoại “Định hướng Âu - Á”, theo đó Nga sẽ thiết lập mối quan hệ cân bằng giữa phương Đông và phương Tây trên nguyên tắc linh hoạt, thực dụng với ưu tiên hàng đầu là bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Nhìn lại nước Nga những năm đầu sau khi trở thành quốc gia độc lập, chúng ta thấy người tiền nhiệm của V.Putin, Tổng thống B.Elsin đã thực hiện một chính sách đối ngoại khác hẳn, chính sách đối ngoại “Định hướng Đại Tây Dương” hay còn có tên gọi khác là đường lối ngoại giao “hướng Tây”. Nội dung cơ bản của chính sách này là đặt quan hệ với Mỹ và các nước tư bản phương Tây lên hàng đầu, coi đó là quan hệ “hữu nghị”, là “liên minh chiến lược”. Tổng thống B.Elsin trong bài phát biểu ngày 17 tháng 4 năm 1992, tại kỳ họp thứ 6 Đại hội đại biểu nhân dân toàn Nga đã khẳng định: “nhiệm vụ trung tâm bao trùm mọi hoạt động quốc tế của Nga là xây dựng quan hệ bạn bè với các nước dân chủ trên thế giới nhằm đảm bảo cho nước Nga gia nhập cộng đồng các nước phương Tây một cách hợp pháp và hài hòa” [17, tr. 84]. Nga “bỏ rơi” hầu như tất cả các đồng minh truyền thống ở Đông Âu cũng như ở Châu Á và Châu Phi. Với chính sách trên, nước Nga đã có những nhượng bộ, thỏa hiệp với Mỹ và phương Tây để từ đó hy vọng vào sự giúp đỡ của họ. Nhưng thực tế không diễn ra như nước Nga mong đợi. Nga ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào Mỹ và phương Tây, vị thế quốc tế của Nga ngày càng suy yếu. Nga không những không hòa nhập được với phương Tây mà còn trở thành “vị khách” của phương Tây. Từ những nét khái quát trên, chúng ta thấy, chính sách đối ngoại đóng một vai trò quan trọng trong sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia cũng như trong việc nâng cao sức mạnh và vị thế của các quốc gia đó trên trường quốc tế. Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin” là việc làm cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ cung cấp cách nhìn khách quan và toàn diện về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga. 5 Vậy chính sách đối ngoại của V.Putin đã được hình thành như thế nào, nó bao gồm những mục tiêu và nội dung gì? Chính sách đối ngoại này có sự kế thừa chính sách đối ngoại của Tổng thống B.Elsin hay không? Chính sách đối ngoại này đã có tác động như thế nào đối với nước Nga, với khu vực và với thế giới? Đó là lý do để tôi quyết định chọn đề tài: “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin” làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Kể từ khi V.Putin xuất hiện trên chính trường nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, đã có rất nhiều nghiên cứu của các học giả Nga và nước ngoài đề cập về nhân vật này. Trong thời gian này, hình ảnh của V.Putin luôn được đăng tải trên trang bìa của các tạp chí nổi tiếng. Những cuốn sách viết về V. Putin được xuất bản ở nhiều nước trên thế giới, như Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Pháp... và được bán hết một cách nhanh chóng. Họ viết về tiểu sử của V.Putin, về những năm tháng hoạt động tình báo của V.Putin, về những việc ông đang làm và sẽ làm nhằm cứu vãn và phục hồi lại nước Nga, đưa nước Nga tìm lại vị thế xứng đáng của mình trong trật tự thế giới mới. V.Putin được coi như là một “hiện tượng”, là “một ngôi sao” đã, đang và sẽ toả sáng trên bầu trời chính trị nước Nga nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây còn là đề tài tương đối mới mẻ. Phần lớn các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về V.Putin mới chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu chính sách đối ngoại của V.Putin trong phạm vi tác động với từng khu vực, như quan hệ giữa Nga với Liên minh Châu Âu - EU, hay giữa Nga với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, và các khu vực khác,… Có thể chia các sách, tài liệu và bài báo viết về V.Putin theo ba nhóm: * Nhóm thứ nhất: Tìm hiểu về tiểu sử của V.Putin, về quãng đời là một nhà tình báo trước khi trở thành Thủ tướng rồi Tổng thống của Liên bang Nga. Như các sách: - V.Putin - Từ trung tá KGB đến Tổng thống Liên bang Nga; Tác giả: Lý Cảnh Long. - V.Putin và những người cộng sự; Tác giả: A.A. Mukhin. 6 - V.Putin - Đường tới điện Kremlin; Tác giả: Hồng Thanh Quang. Những tác phẩm này đã cho chúng ta thấy được chân dung của V.Putin, từ tính cách, sở thích, bản lĩnh và con người V. Putin. * Nhóm thứ hai: Đó là các bài báo nói về những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin, được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu. Ví dụ: Chiến lược đối ngoại của nước Nga thời kỳ Tổng thống V.Putin của tác giả Hồ Châu, số 3 - 2001; Những xu hướng khác nhau trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ thời gian gần đây của tác giả Phạm Văn Dân và Phạm Thị Phúc, số 6 2001,…. Các bài báo này mới chỉ nêu được những điểm mới trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga nhưng chưa chỉ ra được cụ thể chính sách đối ngoại đó là như thế nào. * Nhóm thứ ba: Đó là các bài báo nghiên cứu về quan hệ của Liên bang Nga với những đối tác cụ thể như: quan hệ Nga - Hoa Kỳ, Nga - Trung Quốc, Nga - Châu Âu,... Nhìn chung, các tài liệu nói trên mới chỉ tìm hiểu những nội dung riêng lẻ trong chính sách đối ngoại của Tổng thống V.Putin, chưa nghiên cứu tập trung và toàn diện, chưa làm rõ được tính linh hoạt và thực dụng trong chính sách đối ngoại của V.Putin, chưa thấy được sự thay đổi trong quan điểm của Tổng thống V.Putin trong hai nhiệm kỳ Tổng thống của ông. 3. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Mục tiêu của đề tài sẽ tập trung làm rõ chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin, bao gồm cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại, các yếu tố tác động tới quá trình hình thành chính sách đối ngoại, đặc điểm và nội dung của chính sách này, cũng như tác động của nó đối với tình hình quốc tế, khu vực và một số đối tác chủ yếu. Để hoàn thành mục tiêu trên, luận văn sẽ phân tích những nội dung cơ bản sau: - Tình hình thế giới và Liên bang Nga trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI để từ đó làm rõ sự cần thiết phải hình thành một chính sách đối ngoại mới cho nước Nga. 7 - Vai trò của Tổng thống V.Putin trong quá trình hình thành chính sách đối ngoại của Liên bang Nga trong hai nhiệm kỳ Tổng thống của ông (Nhiệm kỳ thứ nhất từ 2000 đến 2004 và nhiệm kỳ thứ hai từ 2004 đến 2008). - Kết quả thực hiện chính sách đối ngoại của Nga thông qua quan hệ của Nga với một số đối tác, cụ thể như với Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), giữa Nga với Châu Âu, bao gồm cả Liên minh Châu Âu (EU) và Khối Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO), giữa Nga với các nước Châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Việt Nam. - Đánh giá tác động của chính sách đối ngoại đó ở phạm vi trong nước và nước ngoài, cũng như triển vọng của chính sách đối ngoại của Liên bang Nga. Vì điều kiện thời gian và nguồn tài liệu còn hạn chế, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tác động của chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin đối với một số đối tác và khu vực chủ yếu. Những đối tác và khu vực khác xin được đề cập trong một công trình khác. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trên cơ sở các nguồn tài liệu sưu tầm được, luận văn cố gắng trình bày theo các phương pháp lôgíc kết hợp với phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống,... nhằm tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển, điều chỉnh trong đường lối đối ngoại của Tổng thống V.Putin. Các phương pháp được kết hợp với nhau để tạo ra sự tiếp cận toàn diện khi nghiên cứu chính sách đối ngoại. Trong các phương pháp đó, luận văn đặc biệt chú ý đến phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh. Thông qua hai phương pháp này đã xác định những điểm giống và khác trong đường lối đối ngoại của V.Putin với những người tiền nhiệm của mình. 5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: 8 Chương 1: Tình hình thế giới và Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin. Chương này sẽ tập trung làm rõ những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới và tình hình nước Nga trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Đồng thời, trong chương này cũng đề cập đến vai trò của V.Putin trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Liên bang Nga. Chương 2: Nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin. Chương này trình bày những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga, bao gồm các mục tiêu, các giai đoạn trong quá trình hình thành chính sách đối ngoại và các đặc điểm chính của chính sách đó. Chương 3: Đánh giá chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin. Chương này sẽ đưa ra những đánh giá về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.Putin, bao gồm những thành tựu mà nước Nga đã đạt được và những hạn chế của chính sách này. Ngoài ra, chương này còn đánh giá những tác động của chính sách đối ngoại của V.Putin đối với nước Nga, đối với khu vực và thế giới thông qua một số đối tác cụ thể. Phần cuối là một số đánh giá về triển vọng của chính sách đối ngoại của Liên bang Nga trong tương lai. CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ LIÊN BANG NGA DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG V.PUTIN 1.1. Tình hình thế giới Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu tan rã, một trật tự thế giới mới đang được hình thành. Ngày 31 tháng 12 năm 1991, Liên Xô - cường quốc hàng đầu trên thế giới trong hệ thống quốc tế hai cực đã sụp đổ. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử thế giới hiện đại. Liên Xô sụp đổ đồng nghĩa với sự kết thúc của cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài trong nhiều năm giữa hai siêu cường trên thế giới là Liên Xô và Mỹ - đại diện cho hai 9 chế độ xã hội khác nhau, một bên là Tư bản chủ nghĩa và một bên là Xã hội chủ nghĩa. Thế giới chuyển từ trật tự hai cực sang một trật tự mới chưa xác định với sự nổi trội của Mỹ. Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ có cơ hội thực hiện chính sách đơn phương của mình. Tuy nhiên, trong những năm cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, thế giới được chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ của những nền kinh tế mới. Giờ đây, sức mạnh của Mỹ đang bị cạnh tranh bởi Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc. EU đang được xem như là một trung tâm quyền lực kinh tế, chính trị thế giới, với GDP xấp xỉ Mỹ. Các chỉ số khác như tỷ trọng thương mại toàn cầu hay thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU cũng vượt trội các trung tâm khác. Năm 2004, EU chiếm tỷ trọng 40,6% xuất khẩu và 45,2% đầu tư trực tiếp nước ngoài [50, tr. 16]. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đang nổi lên như là một cường quốc mới. Mặc dù, hiện tại Trung Quốc chỉ chiếm 3,5% GDP và 4% thương mại thế giới, nhưng Trung Quốc đang có một tiềm năng sức mạnh khổng lồ. Các nhà nghiên cứu khẳng định: “Nếu tính theo PPP thì Trung Quốc đã chiếm 10% GDP thế giới, đứng thứ hai sau Mỹ. Nếu với tốc độ tăng trưởng 6-9% thì Trung Quốc sẽ vượt Nhật Bản và Châu Âu trong việc góp phần vào tăng trưởng kinh tế thế giới ngay năm 2008” [26, tr.24]. Bên cạnh Trung Quốc, Ấn Độ cũng đang có những bước phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực. Vai trò của Ấn Độ liên quan nhiều tới phát triển dịch vụ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các dịch vụ hiện đại, tức là các nước đang phát triển [52, tr. 15]. Những trung tâm quyền lực này đang đe dọa tới vị trí đứng đầu của Mỹ trong nền kinh tế, chính trị thế giới, đồng thời cũng đang cạnh tranh với nhau để củng cố vị thế của mình. Từ sự vươn lên mạnh mẽ của những nền kinh tế mới trên thế giới đã chứng minh cho một xu thế mới hiện này là thế giới sẽ chuyển mạnh từ chạy đua về quân sự, tranh giành những khoảng trống quyền lực sang cạnh tranh về kinh tế chiếm lĩnh thị trường. Vì sức mạnh kinh tế là nhân tố hàng đầu quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia, đóng vai trò quyết định vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế, nên Liên bang Nga sẽ càng khó khăn hơn trong việc lấy lại vị trí cường quốc của Liên Xô trước đây. Trong những thập niên gần đây, “toàn cầu hoá” đã trở thành một trong những thuật ngữ được nhắc đến nhiều nhất. Toàn cầu hoá được biết đến hiện nay với những đặc điểm nổi bật là sự lưu chuyển tự do các dòng hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, lao động ngày càng tăng, là sự hình thành các mạng lưới sản xuất quốc tế với vai trò chi phối các công ty 10 xuyên quốc gia, là sự cạnh tranh giữa các quốc gia và các khu vực. Tham gia toàn cầu hoá các quốc gia có thể nhanh chóng hội nhập và tiếp cận thị trường thế giới, qua đó hình thành đồng bộ các thể chế kinh tế thị trường trên quy mô toàn cầu. Ngoài ra, các quốc gia khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa còn có khả năng tiếp cận được những thành quả sáng tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất và kinh doanh. Từ đó, thúc đẩy sự cải cách sâu rộng của nền kinh tế quốc gia và cả sự hợp tác khu vực để các quốc gia có thể nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra hàng loạt nguy cơ và thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Do yêu cầu của toàn cầu hoá là đòi hỏi các nước phải dỡ bỏ các luật lệ bảo hộ kinh tế, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, cũng như các rào cản khác về đầu tư, tài chính, kỹ thuật, thể chế,... nên những quốc gia này luôn luôn phải chịu sức ép nặng nề của các dòng hàng hoá, dịch vụ, công nghệ nhập khẩu và những chấn động khu vực và toàn cầu, trong đó, nguy cơ lớn nhất là những chấn động về tài chính tiền tệ. Từ đó, toàn cầu hóa làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Hòa bình, hợp tác, phát triển được xem là xu hướng chính trong quan hệ quốc tế hiện nay. Một cuộc chiến tranh thế giới là khó xảy ra. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng và khó dự đoán diễn biến trên quy mô toàn cầu. Cục diện thế giới là bất ổn, phức tạp, không thái bình, căng thẳng, luôn xáo trộn với sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ dưới nhiều hình thức, cả về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống [51, tr. 64]. Đồng thời, thế giới cũng đang phải đối diện với những nguy cơ gây bất ổn như chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa phát xít mới, nạn buôn lậu vũ khí, các tổ chức mafia và tội phạm quốc tế đang ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn cầu. Những nguy cơ này hiện đang trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với hoà bình và an ninh của toàn nhân loại. Đây là những đặc điểm nổi bật của tình hình quốc tế trong những năm cuối của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Những thay đổi và biến động khó lường này của tình hình quốc tế đều có tác động đối với tất cả các quốc gia. Mỗi quốc gia phải có sự điều chỉnh trong chiến 11 Ket-noi.com chia se mien phi lược đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới. Liên bang Nga cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nước Nga dưới thời V.Putin cần phải nhanh chóng đề ra được một chính sách đối ngoại giúp đất nước có thể ổn định được tình hình chính trị, khôi phục nền kinh tế đang bị suy thoái nghiêm trọng và đặc biệt là phải tìm được vị trí xứng đáng trong việc hình thành một trật tự thế giới mới. 1.2. Tình hình trong nước Năm 2000, V.Putin được B.Elsin chọn làm người kế tục sự nghiệp, trở thành Tổng thống thứ hai của Liên bang Nga. Ngay từ khi mới nhậm chức, V.Putin đã phải đối diện với muôn vàn khó khăn và thách thức. * Về chính trị: Đặc điểm nổi bật của nền chính trị Nga trong thập niên 90 là sự mất ổn định và sự đối đầu tranh giành quyền lực giữa các thế lực. Cuộc chính biến tháng 8 năm 1991 ở Liên Xô thất bại. B.Elsin thâu tóm mọi quyền lực, đẩy nhanh sự tan rã của Liên Xô. Tháng 12 năm 1991, Tổng thống ba nước Nga, Bêlarút, Ucraina ký Hiệp ước tại Bêlarút tuyên bố sự cáo chung của Liên Xô và sự ra đời của cộng đồng các quốc gia độc lập - SNG. Liên bang Nga trở thành người thừa kế Liên Xô cũ. Chính quyền Nga do B.Elsin làm Tổng thống chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường tự do, đẩy mạnh việc tư nhân hoá, tạo dựng chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, cộng hoà tổng thống, tập trung nhiều quyền lực cho tổng thống. Đồng thời, B.Elsin cũng đề ra chính sách đối ngoại “định hướng Đại Tây Dương” với mục tiêu đưa nước Nga nhanh chóng hội nhập với phương Tây và phục hồi vị thế cường quốc của Liên bang Nga trên trường thế giới. Cuộc đấu tranh tranh giành quyền lực diễn ra gay gắt trong chính quyền mới của nước Nga, mâu thuẫn giữa B.Elsin, đại diện cho cơ quan hành pháp mới và Chủ tịch Xô viết tối cao Khasbulatov, đại diện cho hệ thống cơ quan lập pháp cũ, đẩy đến cao điểm thành cuộc xung đột vũ trang đẫm máu tháng 10 năm 1993. Kết quả là hệ thống Xô viết cũ từ Trung ương đến địa phương bị xoá bỏ. Đối thủ chính trị của B.Elsin đã bị loại bỏ và quyền lực của B.Elsin được củng cố. Ngày 12 tháng 12 năm 1993, B.Elsin tổ chức trưng cầu dân ý, thông qua Hiến pháp và bầu Quốc hội mới. Nước Nga theo chế độ cộng hoà tổng thống với Quốc hội liên bang 12 gồm hai viện là Thượng viện (Hội đồng liên bang) và Hạ viện (Duma quốc gia). Với chế độ này, quyền lực tập trung chủ yếu trong tay Tổng thống. Tổng thống đã dàn xếp với các lực lượng chính trị ký kết thoả ước cam kết không dùng vũ lực để giành chính quyền, thay đổi một số thành phần chính phủ, đưa một số người có quan điểm cải cách ôn hoà vào chính phủ để giảm bớt sức ép của phe đối lập đối với chính phủ và Tổng thống. Tổng thống trực tiếp chỉ huy các Bộ Quốc phòng, An ninh, Ngoại giao, Nội vụ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tình hình kinh tế và việc đưa quân vào Chechnya (12-1994), uy tín của Tổng thống và chính phủ sụt giảm nghiêm trọng. Trong nội bộ chính phủ và giữa các phe phái diễn ra sự phân hoá gay gắt. Tháng 6 năm 1995, Duma ra Nghị quyết bất tín nhiệm chính phủ Chernomyrdin. Để tránh đổ vỡ, hơn nữa tương quan lực lượng chưa đủ áp đảo, hai bên đã đi đến sự thoả hiệp với nhau. Tổng thống phải cách chức Bộ trưởng An ninh, Nội vụ và Bộ trưởng phụ trách các vấn đề dân tộc và chính sách khu vực, còn chính phủ Chernomyrdin được tiếp tục duy trì. Trong cuộc bầu cử Duma khoá II (17-12-1995), Đảng cộng sản Liên bang Nga giành được thắng lợi lớn, còn “Đảng nước Nga ngôi nhà của chúng ta ” và các đảng phái dân chủ khác thất bại, giành được số ghế ít hơn. Năm 1996 diễn ra cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 4 năm (1996-2000). B.Elsin đã thắng cử sau hai vòng bỏ phiếu với số phiếu 53,8% và tiếp tục giữ chức Tổng thống Liên bang Nga nhiệm kỳ hai đến tháng 6 năm 2000. Trong nhiệm kỳ hai này của mình, B.Elsin đã làm nhiều việc để xoa dịu mâu thuẫn giữa các lực lượng chính trị, nhưng đều không đạt được ý muốn. Trong năm 1999, B.Elsin đã hai lần thay đổi thủ tướng và cải tổ chính phủ: cách chức Primakov (12-5-1999) đưa Stepasin lên thay (19-5-1999), cách chức Stepasin (12-8-1999) đưa V.Putin lên thay (16-8-1999). Ngược lại, lực lượng cánh tả, lực lượng đối lập cũng đấu tranh quyết liệt đòi thay đổi đường lối, luận tội và phế truất Tổng thống. Để tạo ưu thế thuận lợi trong Duma, ít tháng trước ngày bầu cử Duma, Tổng thống đã cho ra đời Đảng Thống nhất để giành một số ghế trong Duma. Kết quả cuộc bầu cử Duma tháng 12 năm 1999 là: Đảng Cộng sản Liên bang Nga được 113 ghế, Đảng Thống nhất 72 ghế, Tổ quốc- Toàn Nga 67 ghế, Liên minh hữu 29 ghế, Đảng dân chủ tự do 17 ghế, Phái Yablako 20 ghế, Nước Nga ngôi nhà của chúng ta được 7 ghế, các ứng cử viên độc lập được 116 ghế. Tổng cộng là 441 ghế. Tuy nhiên, B. Elsin đã tuyên bố từ chức trước thời hạn 6 tháng và đề nghị Thủ tướng V.Putin làm quyền Tổng thống Liên bang 13 Nga. Cuộc bầu cử tổng thống Liên bang Nga nhiệm kỳ III được tổ chức ngày 26 tháng 3 năm 2000, quyền Tổng thống V.Putin đã thắng cử với trên 52,4% phiếu bầu. V.Putin lên nắm chính quyền đã chấm dứt thời kỳ đấu tranh giành quyền lực giữa các đảng phái trong nội bộ nước Nga. * Về kinh tế - xã hội: Sau khi Liên Xô sụp đổ, Liên bang Nga ra đời với tư cách là một quốc gia độc lập, là người kế thừa địa vị pháp lý của Liên Xô, được thừa hưởng chủ yếu “gia tài” vĩ đại của Liên Xô để lại. Liên bang Nga thừa hưởng khoảng 75% tiềm lực công nghiệp và khoảng 70% tiềm lực kinh tế nói chung của Liên Xô. Nước Nga bước vào công cuộc cải cách kinh tế trong điều kiện rất khó khăn và chứa đựng đầy mâu thuẫn. Hậu quả của thời kinh tế bao cấp và 5 năm cải tổ thời Goócbachốp (1986-1991) đã để lại cho Liên bang Nga một di sản nặng nề. Thực trạng kinh tế của Nga năm 1991 là: GDP giảm 15%, công nghiệp giảm 12-15%, ngũ cốc giảm 24%, lạm phát 15-20%/ tháng [25, tr. 83]. Sự sụp đổ của Liên Xô làm cho các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các nước cộng hoà và các bạn bè truyền thống bị tan vỡ. Chương trình cải cách kinh tế 500 ngày của Yavlinski- lãnh tụ phái Yablaco, “Liệu pháp sốc” thả nổi giá cả, tư nhân hoá ồ ạt, thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ theo mô hình của IMF, cơ cấu lại nền kinh tế, tự do hoá kinh tế và mở rộng kinh tế đối ngoại của quyền Thủ tướng Gaida đã thất bại. Nguyên nhân là do tình hình chính trị không ổn định, các biện pháp cải tổ kinh tế vội vã không tính đến đặc thù của nước Nga và đã mắc phải nhiều sai lầm trong cách thức tiến hành. Một năm sau cải cách, năm 1992, GDP giảm 19%, công nghiệp giảm 18,8%, nông nghiệp giảm 8%, đầu tư cơ bản giảm 45%, thâm hụt ngân sách 20,0% GDP, lạm phát trên 20%/ tháng, giá cả tăng 26 lần, thu nhập thực tế của người dân chỉ bằng 44% đầu năm 1992 [26, tr. 83]. Chương trình cải cách kinh tế thất bại, xung đột vũ trang và khủng hoảng chính trị xảy ra liên miên đã làm cho nền kinh tế nước Nga lại tiếp tục suy giảm và đã xuống tới điểm thấp nhất. Năm 1994, GDP giảm 12%, bằng 53% GDP của Nga năm 1990, công nghiệp giảm 23%, lạm phát khoảng 12%/tháng, nợ chồng chéo giữa các xí nghiệp không thanh toán được với nhau khoảng 125 ngàn tỷ rúp [26, tr. 84]. Để cứu vãn tình hình, cuối năm 1994, Chính phủ Nga đưa ra Chương trình ổn định và phát triển kinh tế trung hạn 1995-1997 với ý đồ kiềm chế lạm phát, chống suy thoái sản xuất để ổn định kinh tế vào năm 1996. Nhà nước quy định biên độ dao động tỷ giá giữa 14 Ket-noi.com chia se mien phi đồng rúp và đồng đôla, phát hành tín phiếu, trái phiếu, hạn chế lưu thông tiền mặt nên đã từng bước hạ được mức lạm phát, giữ được đồng rúp ổn định. Từ cuối năm 1995, kinh tế Nga đã có bước khởi sắc. Đến cuối năm 1997, GDP của Nga đã tăng được 0,4% so với năm 1996, công nghiệp tăng khoảng 1,7%, nông nghiệp được mùa lớn đạt 95,1 triệu tấn lúa mỳ và nước Nga có thể xuất khẩu từ 3-4 triệu tấn. Lạm phát dưới 1%/tháng, chỉ số giá cả tăng 8,3%. Nước Nga đã thu hút được 7 tỷ đôla Mỹ vốn đầu tư nước ngoài, tăng 2 lần so với năm 1996. Trong giai đoạn 1992-1997, đầu tư nước ngoài vào Nga là 23 tỷ đôla, trong đó đầu tư trực tiếp là 9,7 tỷ đôla Mỹ. Tổng kim ngạch ngoại thương đạt 138,2 tỷ đôla Mỹ tăng gần 2% so với năm 1996, khai thác được trên 275 triệu tấn dầu và 391 tỷ m3 khí đốt. Đến năm 1997, đã tư nhân hoá gần 60% số xí nghiệp quốc doanh cũ, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 60-70% GDP [26, tr. 84]. Đây được coi là những dấu hiệu khả quan cho sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế Nga. Tuy nhiên, tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã nhanh chóng gây tác động đến nước Nga. Nền kinh tế mới được phục hồi của nước Nga không đủ sức chống đỡ lại những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Năm 1998, kinh tế Nga lại rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện, sản xuất suy thoái nghiêm trọng. So với năm 1997, GDP năm 1998 giảm 8%, sản xuất công nghiệp giảm 4,5%, 48% số xí nghịêp có nguy cơ bị phá sản, sản xuất nông nghiệp giảm 8-9%, sản lượng lúa mỳ đạt 47 triệu tấn, lạm phát tăng 100%, kim ngạch ngoại thương hai chiều giảm 17% [26, tr. 85]. Dư âm của cuộc khủng hoảng còn kéo dài đến năm 1999. Đồng thời, trong thời gian này cuộc đấu tranh tranh giành quyền lực ở nước Nga đang diễn ra quyết liệt (trong vòng chưa đầy 1 năm, từ tháng 9 năm 1998 đến tháng 8 năm 1999, ở Nga đã ba lần thay đổi chính phủ), đã làm cho nền kinh tế Nga lại tiếp tục bị suy giảm. Các chỉ tiêu kinh tế đều thấp hơn so với năm 1997, GDP chỉ bằng 98,1%, nông nghiệp bằng 88,9%, đầu tư vốn cơ bản bằng 94,2%. Tuy nhiên, lạm phát đã giảm, chỉ còn mức 36,5%, công nghiệp tăng 8,1%. Người ta ước tính, sau 8 năm tiến hành cải cách (1991-1998), con số thiệt hại lên tới 1200 tỷ đôla Mỹ, gấp 3 lần thiệt hại trong Chiến tranh thế giới lần II (420 tỷ đôla Mỹ) [26, tr. 86]. Khủng hoảng kinh tế trầm trọng đã làm cho đời sống xã hội của người dân Nga bị suy giảm. Thu nhập thực tế của người dân Nga liên tục giảm trong những năm tiến hành 15 quá trình cải tổ và đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tháng 8 năm 1998. Tổng thu nhập bằng tiền của người Nga, theo phương pháp tính toán của Liên hiệp quốc, chỉ bằng gần 10% chỉ số tương ứng của người Mỹ. Các chỉ số chủ yếu cho thấy chất lượng của cuộc sống như: tình trạng sức khoẻ, tuổi thọ của người Nga tiếp tục giảm sút. Nhân dân mất niềm tin vào nhà nước. * Về uy tín quốc tế: Uy thế của Nga trên trường quốc tế đã giảm sút mạnh so với Liên Xô trước đây. Sự suy giảm vị thế của Nga không chỉ gắn liền với cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng cả về bề rộng lẫn chiều sâu, mà còn với thực tế rất bất lợi sau khi trật tự thế giới hai cực tan rã, Liên bang Nga trở thành quốc gia không có kẻ thù công khai và trực tiếp, nhưng cũng không có đồng minh lẫn đối tác tin cậy, những nước có thể giúp đỡ Nga trong trường hợp xảy ra nguy cơ đe dọa những lợi ích sống còn của Nga. Ảnh hưởng của Nga bị suy giảm ngay cả đối với các nước SNG và các nước cộng sản cũ. Những nước ở Châu Âu thì đang có xu hướng gia nhập EU và NATO. Những nước ở Châu Á, cụ thể là Trung Á, đang rơi vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc hoặc của Mỹ. Với tình hình kinh tế còn eo hẹp, Nga không đủ khả năng để giành ưu thế so với Mỹ nên buộc phải nhượng bộ và hoà hoãn nhiều vấn đề. Nga hoàn toàn không phải là đối thủ ngang bằng với Mỹ. Trong quan hệ chính trị quốc tế, nước Nga rơi vào nguy cơ bị cô lập, bị gạt ra ngoài lề các công việc của châu Âu và thế giới, không lọt vào danh sách các trung tâm sức mạnh chủ yếu của trật tự thế giới thế kỷ XXI. Nước Nga hầu như đứng tách biệt khỏi xu thế khu vực hoá và quốc tế hoá. Như vậy, bức tranh toàn cảnh về đất nước Nga mang đậm một gam màu xám: chính trường nước Nga rối như mớ bòng bong, kinh tế suy thoái nghiêm trọng, tài sản quốc gia bị đục khoét mục ruỗng, các băng đảng mafia mọc lên như nấm sau cơn mưa. Nước Nga không có một trung tâm quyền lực tuyệt đối và như thế cuộc đấu tranh giành quyền lực sẽ diễn ra vô cùng khốc liệt. Có thể nói, thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX là thập kỷ khó khăn nhất của nước Nga. Nhưng ở thời điểm bước sang thế kỷ mới, ở nước Nga đã diễn ra một sự kiện chính trị quan trọng, cuộc bầu cử tổng thống đã kết thúc với sự thắng lợi của một nhân vật đang đi vào lịch sử nước Nga, đó là Tổng thống V.Putin. Ông được coi như là ngôi sao mới xuất hiện trên bầu trời chính trị Nga. 16 1.3. Vài nét về con người V.Putin V.Putin tên đầy đủ là Vladimir Vladimirovich Putin. Ông sinh ngày 7 tháng 10 năm 1952 ở Lêningrad (nay là Saint-Peterburg), trong một gia đình bình dân. Mẹ ông, bà Maria là công nhân trong nhà máy và cha ông, ông Vladimir làm việc trong lực lượng hải quân, tại hạm đội tàu ngầm. Sau này ông chuyển sang lực lượng bộ binh trong Thế chiến thứ hai. V.Putin có hai người anh ra đời giữa thập niên 1930, nhưng đều đã chết từ nhỏ, một người trước chiến tranh và một người trong thời gian phong toả Lêningrad. Theo nhận xét của những người thân quen với gia đình Putin thì họ đều là những người nhân hậu. Gia đình không bao giờ to tiếng với nhau, và đặc biệt họ giáo dục con trai rất nghiêm khắc, dạy con trai luôn biết hướng về Tổ quốc. Vì thế, đối với V.Putin, khi chỉ là nhân viên của Cục tình báo Liên bang (KGB) và sau này khi đã là Tổng thống, thì nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ nước Nga, nhân dân Nga và khôi phục vị thế cường quốc cho nước Nga,... Điều này không phải người lãnh đạo nào của nước Nga cũng để ý đến. V.Putin có vợ và hai người con gái. Phu nhân V.Putin, bà Ludmila Alecxandrovna Putina (tên thời con gái Shkrebneva), sinh ngày 6 tháng 1 năm 1958. Bà là người khiêm tốn và cởi mở. Con gái lớn của V.Putin là Ekaterina, sinh năm 1985, còn cô út là Maria, sinh năm 1986. Từ thời đi học, V.Putin đã tỏ rõ khả năng thiên về các môn khoa học xã hội. Ông đặc biệt ham thích các tin chính trị, những sự kiện đang xảy ra trên thế giới. V.Putin đã lấy đề tài “Nguyên tắc tối huệ quốc trên bình diện quốc tế” làm luận văn tốt nghiệp đại học của mình. Trong thời gian học đại học ở Lêningrad, V.Putin đã làm quen với ông Anatoli Sobchak, khi ấy là trợ giảng, về sau là Phó giáo sư khoa Luật Kinh tế. Đây chính là người đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của V.Putin sau này. Trong suốt thời gian từ tháng 5 năm 1990 đến tháng 6 năm 1996, V.Putin đã hoàn thành nghĩa vụ của một người trợ lý, cán sự, thư ký và đại diện cho Chủ tịch Hội đồng Lêningrad, ông A.Sobchak. V.Putin là chiến hữu duy nhất, luôn bên cạnh A.Sobchak. Bề ngoài V.Putin chỉ giữ vai phụ nhưng lại thực hiện những chuẩn mực của vai chính. V.Putin đã trở thành một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất ở Saint-Peterburg. Thời gian bên cạnh A.Sobchak này đã giúp V.Putin rất nhiều trên con đường chính trị của ông sau này và cũng có thể, chính nhiệm vụ cố vấn về các vấn đề quốc tế đã giúp ông trong việc định hình chính sách đối ngoại cho Liên bang Nga. 17 Sự xuất hiện của V.Putin trên chính trường nước Nga thời điểm này được coi là một trong những sự kiện quan trọng khép lại thế kỷ XX và mở ra thế kỷ XXI. Phản ứng của người dân Nga trước sự xuất hiện của V.Putin rất khác nhau. Không quan tâm bởi lẽ cũng sẽ giống như những người tiền nhiệm trước, ông không mang đến được nhiều sự thay đổi cho nước Nga. Là sự hoài nghi về thời gian tồn tại của chính quyền mới và tác động của những chính sách mới. Nhưng cũng có không ít người tin tưởng vào sự trẻ tuổi và bản lĩnh của cựu điệp viên tình báo thời Liên bang Xô viết. Tính đến thời điểm hiện nay, V.Putin đã đi hết hai nhiệm kỳ Tổng thống của mình. Nhìn lại tình hình nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XX, chúng ta mới có thể cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt của nước Nga hiện nay. Và sự thay đổi đó của nước Nga có được đó chính là nhờ sự linh hoạt, khéo léo và đầy tính thực dụng của Tổng thống V.Putin được thể hiện qua chính sách đối ngoại của ông. V.Putin được coi như là một vị thuyền trưởng đã dẫn dắt con thuyền nước Nga vượt qua nhiều sóng gió. Trong cuộc họp báo cuối cùng trên cương vị Tổng thống ngày 14 tháng 2 năm 2008, V.Putin đã nói: “Tất cả các mục tiêu đặt ra đều đã đạt được và các nhiệm vụ đã được hoàn thành”. Năm 2007, tăng trưởng kinh tế Nga đạt 8,1% và sức mua sắm đứng thứ 7 trong các nền kinh tế thế giới. Nước Nga đã xây dựng được cơ sở cho một nền kinh tế thị trường mới và đang nhanh chóng trở thành một trong những “ông lớn” của nền kinh tế thế giới. Về uy tín quốc tế, Nga đã không còn là vị khách của Châu Âu mà đang dần lấy lại được vị thế cường quốc của mình, được Mỹ và Châu Âu tôn trọng. Có một điểm khác biệt rất lớn giữa V.Putin và những người tiền nhiệm, đó là V.Putin là “tín đồ” trung thành của chủ nghĩa Đại Nga và chính sách đối ngoại cường quốc. V.Putin có một niềm tin mãnh liệt vào sự hồi phục của nước Nga. Niềm tin đó được xây dựng dựa trên nền tảng giáo dục của gia đình từ khi còn nhỏ và trong thời gian còn là điệp viên tình báo của KGB. V.Putin còn là một con người hết lòng vì nhân dân và đất nước Nga. Ông luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, luôn quan tâm tới sự ổn định, phồn thịnh và dân chủ ở Nga. Đúng như lời nhận xét của cựu Tổng thống Nga B.Elsin, V.Putin đã “quy tụ quanh mình những người quyết tâm làm sống lại trong thế kỷ XXI một nước Nga lớn [34, tr. 505]”. Chính niềm tin và sự quyết tâm đó đem lại thành công cho V.Putin và cho nước Nga. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan