Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia và bài học với v...

Tài liệu Chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia và bài học với việt nam

.DOC
36
188
115

Mô tả:

CHÍNH SÁCH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM Nguyễn Việt Nga, Nguyễn Đắc Long, Phạm Diệu Linh, Phạm Nguyễn Huyền Linh Trường đại học Kinh Tế Quốc Dân Môn học :Kinh Tế Quốc Tế Người hướng dẫn: PGS.TS.Nguyễn Thường Lạng TÓM TẮT: Hệ thống hoá lý luận chung về chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới. Nghiên cứu quá trình CGCN của các TNCs và tác động của nó đối với nền kinh tế Việt Nam, đồng thời rút ra bài học và đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả chính sách chuyển giao công nghệ của các TNCs để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Từ khoá: công ty xuyên quốc gia, chuyển giao công nghệ, đầu tư, kinh tế, Việt Nam. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học-công nghệ, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (Transnational Coporations - TNCs) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội trên phạm vi quốc tế. TNCs là lực lượng chủ chốt trong lĩnh vực chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển như VIệt Nam. Sự tăng lên nhanh chóng của các công nghệ được chuyển giao từ TNCs trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng là một xu hướng tất yếu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế; đồng thời, cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước nhiều thách thức. Với các câu hỏi đặt ra như: Chính sách chuyển giao công nghệ của TNCs diễn ra như thế nào, tác động ra sao tới Việt Nam ? Vì sao TNCs chọn Việt Nam là nơi để chuyển giao công nghệ ? Chúng ta cần có giải pháp gì để hạn chế những tác động tiêu cực và khai thác có hiệu quả tác động tích cực từ hoạt động chuyển giao công nghệ này? Làm rõ được những nội dung này thực sự là vấn đề quan trọng và cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do khiến nhóm chọn đề tài: “Chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia và bài học với Việt Nam” làm đề tài thảo luận. 2. Tình hình nghiên cứu Một số công trình nghiên cứu về TNCs và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam gồm có:. - Các công ty xuyên quốc gia – Khái niệm, đặc trưng và những biểu hiện mới do Nguyễn Thiết Sơn chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2003. -Các chiến lược chiếm lĩnh và mở rộng thị trường của TNCs trên thế giớiBáo cáo tổng hợp của Viện thông tin khoa học xã hội, 2012. -Động cơ thâm nhập thị trường Việt Nam của TNCs thông qua hình thức M&A - tạp chí những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới số 9/2011. -Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động xúc tiến chuyển giao công nghệ ở Việt Nam -Nguyễn Vân Anh, luận án tiến sĩ trường đại học Bách Khoa Hà Nội 2012 Những công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng đối với nhóm trong quá trình nghiên cứu đề tài. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu *Mục đích nghiên cứu : Góp phần làm rõ chính sách chuyển giao công nghệ của TNCs và tác động của chúng đến nền kinh tế Việt Nam; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực từ hoạt động này đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. *Nhiệm vụ nghiên cứu : Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của bài thảo luận là : - Hệ thống hóa lý luận về TNCs và chính sách chuyển giao công nghệ của TNCs. - Nghiên cứu quá chuyển giao công nghệ của TNCs và tác động của chúng đối với nền kinh tế Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực từ hoạt động chuyển giao này đối với nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu : - các chính sách chuyển giao công nghệ của TNCs ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu : - Nghiên cứu chính sách chuyển giao công nghệ của TNCs đến nền kinh tế Việt Nam chủ yếu trong giai đoạn năm 1987 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời, kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, logíc kết hợp với lịch sử để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài. 6. Dự kiến đóng góp mới của bài thảo luận - Hệ thống hoá lý luận về TNCs và chính sách chuyển giao công nghệ của chúng. 3 - Góp phần phân tích và làm rõ chính sách chuyển giao công nghệ của TNCs và tác động của chúng đến nền kinh tế Việt Nam. - Đưa ra một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả sự chuyển giao này để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương Chương 1: những vấn đề chung và thục tiễn chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia. Chương 2: Quá trình chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia vào VN và một số vấn đề đặt ra. Chương 3: Một số giải pháp khai thác có hiệu quả chính sách chuyển giao công nghệ của các TNCs nhằm thúc đẩy nền kinh tế VN phát triển trong thời gian tới. 4 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ THỰC TIỄN CHÍNH SÁCH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA 1.1.Tổng quan về các công ty xuyên quốc gia. 1.1.1.Bản chất của công ty xuyên quốc gia 1.1.1.1.Định nghĩa và khái niệm Trong các tài liệu về các công ty xuyên quốc gia, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng như “công ty quốc tế” (International Enterprise/Firm), “công ty đa quốc gia” (Multinational Corporation – MNC hay Multinational Enterprise – MNE), “công ty xuyên quốc gia” (Transnational Corporation – TNC) và “công ty toàn cầu” (Global Firm). Về bản chất, các thuật ngữ về công ty xuyên quốc gia không có sự khác biệt đáng kể. Chúng đều có đặc điểm chung là quy mô lớn, sở hữu đa quốc gia và kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều nước. Sự khác biệt chủ yếu chỉ là ở tên gọi, phản ánh những đặc điểm cụ thể về công ty xuyên quốc gia qua các thời kỳ, giai đoạn phát triển hoặc theo thói quen sử dụng từ ngữ của các nhà nghiên cứu. Đến năm 2003, Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: TNCs là các công ty liên doanh hoặc độc lập bao gồm các công ty mẹ và các chi nhánh nước ngoài của chúng. Công ty mẹ là công ty thực hiện quyền kiểm soát toàn bộ tài sản của các thực thể kinh tế khác ở nước ngoài thuộc quyền quản lý của chúng thông qua hình thức sở hữu vốn tư bản cổ phần. Có tỷ lệ góp vốn cổ phần là 10% so với cổ phần gốc hoặc cao hơn, hay mức cổ phần khống chế đối với các công ty liên doanh, hoặc tương ứng đối với các công ty độc lập, thường được xem là ngưỡng để giành quyền kiểm soát tài sản của các công ty khác. Cũng theo định nghĩa này, có những loại công ty con sau đây: -Công ty phụ thuộc hay còn gọi là công ty con (Subsidiary Enterprises): là công ty TNHH (trách nhiệm hữu hạn) ở nước chủ nhà (Host Country – nước có công ty con của TNCs hoạt động), trong đó chủ đầu tư (thuộc công ty mẹ) sở hữu hơn 50% tài sản của công ty. Họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên trong bộ máy tổ chức và quản lý điều hành của công ty. -Công ty liên kết (Associate Enterprisies): là công ty TNHH ở nước chủ nhà, trong đó chủ đầu tư sở hữu ít nhất là 10% nhưng không lớn hơn một nửa quyền biểu quyết của các cổ đông, quyền hạn ít hơn công ty phụ thuộc. 5 -Công ty chi nhánh (Branch Enterprises): là công ty hoạt động ở nước ngoài với 100% tài sản thuộc sở hữu của công ty mẹ. 1.1.1.2.Nguồn gốc hình thành của các công ty xuyên quốc gia. Sự ra đời của TNCs trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn TBCN (Tư bản chủ nghĩa). Các công ty xuyên quốc gia là hình thức phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, và là kết quả trực tiếp của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản dưới sự tác động của các qui luật thị trường : là sự vận động mở rộng của quan hệ sản xuất TBCN thông qua các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh giản đơn đến kết cấu tổ chức sản xuất kinh doanh quốc tế. Các TNCs ra đời và phát triển đã đem lại cho CNTB một hình thức tổ chức sản xuất mới, phản ánh sự thích ứng giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất TBCN ở tầm vĩ mô. Chúng là kết quả của quá trình cạnh tranh, tập trung tư bản và sản xuất không ngừng trong suốt quá trình tồn tại của CNTB, trong đó Tây Âu chính là nơi sớm ra đời phương thức sản xuất CNTB với các chế độ xí nghiệp TBCN – phôi thai của các TNCs hiện nay. Tích tụ và tập trung sản xuất tất yếu dấn đến sự hình thành các TNCs. Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sé dẫn đến 2 xu hướng. Một là, các nhà tư bản với trình độ kỹ thuật cao và lực lượng kinh tế mạnh sẽ thôn tính các nhà tư bản nhỏ bị thua lỗ phá sản, làm cho quy mô sản xuất và quy mô tư bản ngày càng mở rộng. Hai là, cuộc cạnh tranh gay gắt sẽ nảy sinh xu hướng các đối thủ cạnh tranh phải liên hiệp với nhau, góp vốn để sản xuất kinh doanh chung. Sự phát triển của hệ thống tín dụng cùng với nhu cầu mở rộng qui mô sản xuất đã tạo cơ sở cho sự chuyển hóa dần những xí nghiệp TBCN thành những công ty cổ phần TBCN, là một hình thức tập trung tư bản dưới CNTB. Tín dụng trở thành công cụ tập trung vốn của các nhà tư bản thông qua phát hành cổ phiếu. Chế độ tín dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển của các lực lượng sản xuất và sự hình thành thị trường thế giới. Lênin cho rằng, việc CNTB mới-chủ nghĩa đế quốc trong đó độc quyền giữ vị trí thống trị thay thế CNTB cũ, là đặc trưng cơ bản nhất của giai đoạn phát triển hiện đại của CNTB, thể hiện bản chất kinh tế của CNTB mà trong đó quan hệ sản xuất TBCN vận động dưới hình thức tổ chức độc quyền. Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty mẹ đứng đầu và các công ty con phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật vào công ty mẹ và rất nhiều các công ty con vừa và nhỏ hoạt động độc lập hoặc phụ thuộc. Ở các nước TBCN phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp, Italia, Canada, số xí nghiệp vừa và 6 nhỏ chiếm 70-80% tổng số các xí nghiệp. Về mặt tổ chức sản xuất, đây là hình thức mang tính hiệu quả cao vì giảm được chi phí sản xuất, tận dụng được nguyên liệu, phát huy tính sáng tạo…, do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận. Từ thập kỷ 1960 trở lại đây, TNCs đã phát triển nhanh chóng dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ bùng nổ. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng đẩy mạnh dẫn đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hiệp nông-công nghiệp, nông-thương nghiệp (ở Mỹ những năm 1980, liên hiệp nông-công nghiệp chiếm trên 30% sản lượng nông sản). Cùng với quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp, mối liên hệ giữa công-nông nghiệp ngày càng tăng, đẩy mạnh xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc nội (hiện nay chỉ còn khoảng 2-10% ở các nước tư bản phát triển cao). Quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học và công nghệ. Sự liên kết giữa các xí nghiệp lớn dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, trong đó lĩnh vực du lịch, ngân hang được các tổ chức độc quyền quan tâm và bành trướng quyền lực. Tình hình đó dẫn đến sự tập trung tư bản, tập trung sản xuất kinh doanh hết sức to lớn. Tóm lại, tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến việc hình thành các TNCs, bởi đó chính là quá trình tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả năng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thực hiện việc đầu tư vào các nước dưới nhiều hình thức và thu được lợi nhuận cao. 1.1.1.3.Các loại hình công ty xuyên quốc gia (TNCs) Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các TNCs, tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu thì các phân loại phổ biến nhất hiện nay là phân loại theo trình độ phát triển, là sự thay đổi về hình thức sở hữu tư bản của các TNCs -Cartel: loại hình liên kết giữa các công ty độc quyền trong cùng một ngành, có thể cùng nhau ký hiệp định lập ra thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hang hóa và số lượng bán ra nhằm mục tiêu hạn chế cạnh tranh, phân chia lợi ích cụ thế. Ví dụ: OPEC (tổ chức các nước xuất khấu dầu lửa) là một loại Cartel có quy mô quốc tế, các thành viên OPEC thường thỏa thuận với nhau về số lượng dầu cung cấp và giá bán trên thế giới. Các công ty này về mặt pháp lý là những công ty độc lập trong sản xuất cũng như thương mại. -Syndicate: cũng là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, các bên cùng ký hiệp định liên quan đến việc mua nguyên vật liệu vs giá thấp, bán 7 sản phẩm vs giá cao Các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất nhưng không còn độc lập về thương mại. Một điều chú ý là rất nhiều Syndicate là do Cartel phát triển lên. -Trust: loại hình mà các xí nghiệp sản xuất cùng một mặt hàng hoặc ở các ngành kế cận nhau có quan hệ chặt chẽ, hợp nhất lại thành một tổ chức. Các xí nghiệp sau khi đã hợp nhất không còn độc lập về mọi mặt sản xuất, thương mại và luật pháp. Có 2 loại Trust cơ bản là công ty cổ phần đặc biệt (kiểm soát công ty qua việc nắm giữ cố phiếu) và công ty hợp nhất các xí nghiệp thông qua M&A (ví dụ như công ty Generator Motor Mỹ, là một trong 15 TNCs hùng mạnh nhất thế giới năm 1987 ) -Concern: là một trong những hình thức phổ biến của TNCs hiện đại. Mối liên kết giữa các xí nghiệp trong Concern chủ yếu là liên kết ngang giữa ít nhất 2 công ty lớn kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân trong một ngành sản xuất hoặc giữa các ngành có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế và kỹ thuật. Đắc điểm nổi bật của TNCs thuộc Concern là sự thống nhất giữa tu bản sở hữu và quyền kiểm soát. Hình thức kiểm soát được xác lập từ công ty mẹ với các công ty con, cháu bằng chế độ điều hành trong hội đồng quản trị. Công ty mẹ chiếm một số cổ phiếu khống chế trong các công ty nhánh. Hội đồng quản trị đứng đầu các Concern, bao gồm những người có sở hữu cổ phiếu lớn nhất, tiếp theo là Hội đồng các giám đốc quản lý trực thuộc ban quản trị, có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo sản xuất và kinh doanh. Daimler Chrysler AG (DC) của Đức và Mỹ là một Concern khá điển hình. DC gồm nhiều công ty thành viên sản xuất các loại động cơ hết sức đa dạng. -Conglomerate : là hình thức liên kết công ty theo chiều dọc, công ty lớn thâm nhập vào công ty, xí nghiệp của các ngành sản xuất khác không có sự ràng buộc về kỹ thuật sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu là liên hệ về tài chính. Conglomerate cơ bản bành trướng và thâu tóm trên thị trường chứng khoán. Công ty mẹ thực hiện việc mua cổ phiếu của các công ty đang hoạt động tốt ở tất cả các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao và thâu tóm dần. Vì thế, cơ cấu ngành kinh doanh trong Conglomerate luôn biến đổi theo hướng đa dạng, hỗn hợp và cơ cấu quản lý, điều hành phải linh hoạt. Ví dụ, ABS-CBN corporation là một conglomerate lớn mạnh ở Philippin, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình,sản xuất chương trinh, viễn thong, website,…,với doanh thu năm 2011 đạt trên 700 triệu USD. Việc phân loại các TNCs theo các hình thức trên từ Cartel đến Conglomerate phản ánh sự giảm dần tính chất sở hữu tư nhân và sự tăng lên tính chất tập thể trong sở hữu tư bản. Các công ty tư bản độc quyền vốn đã tồn tại dưới hình thức những loại hình cơ bản này ở phạm vi quốc gia, nhưng do quá trình hoạt 8 động phát triển, chúng buộc phải vượt ra khỏi biên giới quốc gia và hoạt động trên phạm vi quốc tế. 1.1.1.4. Những đặc trưng nổi bật của TNCs - Đa dạng hoá (Diversification). Để thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường mục tiêu nước ngoài, TNCs không có cách lựa chọn tích cực nào khác là phải đa dạng hoá sản phẩm, và do đó mỗi nhóm sản phẩm của công ty phải theo hướng “cá biệt hoá” (Differentiation). - Tiêu chuẩn hoá (Standardization). TNCs xác định những nhu cầu, thị hiếu giống nhau của thị trường nước ngoài khác nhau trên phạm vi địa lý rộng để hướng vào những sản phẩm tiêu chuẩn hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đồng nhất của số khách hàng đông nhất trên nhiều thị trường, nhất là thị trường toàn cầu. - Quốc tế hoá (Internationalization). Đây là đặc trưng nổi bật của TNCs trong quá trình nỗ lực để mở rộng hoạt động kinh doanh ra hàng loạt quốc gia trên toàn khu vực có nhiều lợi thế nhất. Đặc trưng này còn gọi là đa quốc gia hoá hay khu vực hoá (như toàn bộ khu vực châu á- Thái bình dương hay trên toàn bộ châu Âu…). - Toàn cầu hoá (Globalisation). Đây cũng là đặc trưng nổi bật hiện nay của nhiều công ty, điển hình như Coca – Cola, IBM, P&G, Toyota… Đặc trưng này cũng là mục tiêu cao nhất mà TNCs hướng tới, theo đó người lãnh đạo TNCs rất chú trọng nguyên tắc: “xem xét toàn bộ thị trường thế giới như một đơn vị kinh tế thống nhất”, Chủ tịch Hội đồng quản trị hãng IBM Jacques Maisonrouge đã nói như vậy. Có thể nói, bốn đặc trưng điển hình trên phản ánh rõ sức mạnh kinh tế và vị thế của TNCs trong quá trình phát triển, gắn liền với sự vận động của thị trường thế giới nói chung và thương mại thế giới nói riêng. 1.1.1.5. Vai trò của Công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới Với mạng lưới phân phối rộng, tiềm lực tài chính, khoa học công nghệ mạnh…TNCs đã có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và các nền kinh tế nói riêng. Vai trò đó được thể hiện qua các hoạt động thúc đẩy thương mại, đầu tư, tang tích luỹ vốn của nước chủ nhà, tạo công ăn việc làm, phát triển nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ... trên phạm vi thế giới. 1.2. Chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia 9 1.2.1 Một số vấn đề về công nghệ và chuyển giao công nghệ 1.2.1.1 Công nghệ Công nghệ là hệ thống quy trình chế biến vật chất và thông tin để chuyển các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra. Công nghệ có 4 phần cơ bản liên hệ mật thiết với nhau, bao gồm: kỹ thuật, tổ chức, thông tin và con người. Đặc trưng nổi bật của công nghệ là giá trị kiến thức “phần mềm” chiếm tỷ trọng cao trong cao trong tổng giá trị của công nghệ. Công nghệ không thể thực hiện theo kênh mua bán hàng hóa thông thường mà phải thực hiện theo kiểu chuyển giao. Công nghệ có trong tất cả các lĩnh vực như công nghệ sản xuất – chế tạo, công nghệ lắp ráp, công nghệ chế biến, công nghệ thu hoạch, công nghệ đào tạo, công nghệ quản lý, công nghệ thông tin… Thị trường công nghệ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi công nghệ. Việc mua bán công nghệ thông qua con đường đầu tư nước ngoài là một trong những kênh phổ biến. 1.2.1.2 Chuyển giao công nghệ Chuyển giao công nghệ được xem là một lĩnh vực hoạt động nhằm đưa những công nghệ từ nơi có nhu cầu giao công nghệ đến nơi có nhu cầu nhận công nghệ, từ nơi có trình độ công nghệ cao hơn đến nơi có trình độ công nghệ thấp hơn một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia. Các hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra thường gắn với sự xuất hiện khoảng cách công nghệ giữa nước chuyển giao và nước nhận chuyển giao. Chuyển giao công nghệ có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như cấp giấy phép, chuyển giao chọn gói hoặc từng phần, chuyển giao theo kiểu “chìa khóa trao tay”, chi nhánh nước ngoài sở hữu hoàn toàn, chi nhanh nước ngoài sở hữu tối thiểu, liên doanh, nhượng quyền, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, hợp đồng quản lý, hợp đồng thầu phụ quốc tế. 1.2.2 Chính sách chuyển giao công nghệ của TNCs TNCs thực hiện chuyển giao công nghệ trên toàn thế giới hầu hết tất cả các lĩnh vực của khoa học công nghệ và quản lý. TNCs từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức,…thường đi đầu trong hoạt động chuyển giao công nghệ và các nước công nghiệp phát triển cũng là những nước đi đầu trong 10 việc tiếp nhận các công nghệ chuyển giao này. Mặc dù nhu cầu về công nghệ chuyển giao của các nước đang phát triển khá lớn song nhóm các nước đang phát triển trên thực tế vẫn chưa phải là nhóm nước có mức hấp dẫn cao về công nghệ từ TNCs. Hơn nữa, hầu hết các hoạt động chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện trong nội bộ các công ty, chi nhánh của TNCs. TNCs phát triển đa dạng các hạng mục công nghệ và cơ cấu sản phẩm công nghệ cũng rất đa dạng như tiến bộ công nghệ thể hiện ở các phát minh, sáng chế, công nghệ thiết kế và xây dựng, công nghệ kiểm tra chất lượng sản phẩm, công nghệ quản lý, công nghệ marketing, công nghệ đào tạo và các công nghệ khác. Tiến bộ công nghệ là những sáng chế để sản xuất và cung ứng các sản phẩm và dịch vụ mới. Các sản phẩm này thường có sự khác biệt cơ bản so với các sản phẩm cùng loại trước đó về tính năng kỹ thuật và những công dụng. Chẳng hạn, trên lĩnh vực máy tính điện tử cá nhân, các loại vi mạch thế hệ mới hoặc các phần mềm mới đa công dụng được đưa ra đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhà sản xuất hoặc người tiêu dùng thay thế cho hệ thống điện tử dựa trên đèn điện tử. Công nghệ thiết kế và xây dựng cũng được chú trọng như công nghệ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng như sân bay, bến cảng, đường giao thông hoặc công nghệ xây dựng các cơ sở công nghiệp dân dụng, trung tâm thương mại.. TNCs là những tác nhân đi đầu trong những lĩnh vực công nghiệp này. Công nghệ kiểm tra chất lượng (gắn với hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm như các sản phẩm công nghiệp, nông sản, dịch vụ,…) sản phẩm đạt đến độ tinh xảo thường do TNCs cung cấp. Công nghệ quản lý là một trong những yếu tố tạo nên giá trị cốt lõi của TNCs và quyết định đến khả năng cạnh tranh của TNCs. Công nghệ quản lý bao gồm các hoạt động hoạch định chiến lược kinh doanh và tổ chức thực hiện, điều hành doanh nghieeoj và quản trị tài chính, marketing, quản trị nhân sự, quản trị tác nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài… Công nghệ marketing liên quan đến việc nâng cao giá trị gia tăng ngoại sinh cho doanh nghiệp trong khối khác hàng, các hoạt động thiết kế và sản xuất sản phẩm mới, định giá sản phẩm, tổ chức mạng lưới phân phối, quảng bá và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ. TNCs có công nghệ marketing đạt đến trình độ tinh xảo. Những chi phí đầu tư cho hoạt động này rất lớn đặc biệt là việc đầu tư cho việc quản bá các sản phẩm mới hoặc quản bá để tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ. 11 Các loại công nghệ khác như công nghệ đào tạo như đào tạo các nhà quản trị kinh doanh cao cấp, công nghệ đào tạo công nhân, công nghệ lắp ráp xe máy, ô tô, thiết bị công nghiệp…cũng được TNCs phát triển để kéo dài vòng đời công nghệ, thu lợi nhuận và chiếm lĩnh thị trường.Trong số các hạng mục được chuyển giao, các chi nhánh của TNCs ở các nước đang phát triển nhận được khoản 95% các hạng mục công nghệ từ các công ty mẹ của chúng. 1.2.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học với Việt Nam 1.2.3.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới 1. Ấn Độ Chính sách mở cửa tự do hóa nền kinh tế năm 1991 của Ấn Độ đã tạo ra những điều khoản rộng rãi hơn về chuyển giao công nghệ ở Ấn Độ. Trước hết, nó ảnh hưởng đến chính sách nhập khẩu công nghệ, mở cửa cho đầu tư nước ngoài và chấp nhận cạnh tranh, xóa bỏ một loạt thủ tục cấp giấy phép và kiểm soát, điều chính cơ cấu xuất- nhập khẩu, tranh thủ nguồn tài trợ bên ngoài để thực hiện các dự án hiện đại hóa kỹ thuật, ưu tiên trong chuyển giao công nghệ. Một số vấn đề liên quan tới chuyển giao công nghệ được Chính phủ Ấn Độ quy định: - Mở cửa ngành công nghiệp Ấn Độ cho đầu tư nước ngoài và chấp nhận cạnh tranh. - Tiếp tục đẩy mạnh mở cửa kinh tế thông qua xóa bỏ một loạt thủ tục cấp giấy phép và kiểm soát, mở rộng và tự do hóa hệ thông cấp giấy phép bổ sung nhằm thúc đẩy xuất khẩu, xóa bỏ chế độ trợ cấp xuất khẩu nhằm khuyến khích cải tiến chất lượng, giảm giá thành để tăng cường xuất khẩu. - Điều chỉnh lại cơ cấu xuất khẩu: Chính sách thương mại mới khuyến khích cả việc xuất khẩu các mặt hàng tiêu dùng như: thuốc lá, chè, cà phê, đay, bông… Theo đó, khuyến khích tối đa cho các mặt hàng xuất khẩu có đầu vào nhập khẩu, quy định những mặt hàng nhập khẩu phải gắn với xuất khẩu. - Về Tài chính, Chính phủ cố gắng cải thiện cán cân thanh toán và hạn chế thâm hụt thương mại, tranh thủ các nguồn viện trợ nước ngoài quan trọng. - Về khoa học và công nghệ: Ấn Độ tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ từ bên ngoài để thực hiện các dự án nhằm hiện đại hóa kỹ thuật trong một số lĩnh vực và các chương trình hợp tác khoa học và công nghệ. 12 - Về nhập khẩu công nghệ qua nghiên cứu và phát triển, Chính phủ Ấn Độ yêu cầu các nhà nhập khẩu công nghệ phải qua nghiên cứu và phát triển để thích nghi, thử nghiệm và nghiên cứu phát triển cho phù hợp với Ấn Độ. 2 Trung Quốc Từ khi thực hiện cải cách mở cửa đến nay (1978), nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng, liên tục với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định (GDP năm 2006: 10.5%; GDP trung bình mỗi năm trên 9,5%), đưa GDP Trung Quốc đứng hàng thứ 2 thế giới. Trung Quốc đã trở thành “một hiện tượng kinh tế đầu thế kỷ XXI”. Sự thành công này có phần đóng góp rất lớn của TNCs trong nền kinh tế; trong đó có trên 400 công ty xuyên quốc gia trong 500 công ty lớn nhất của thế giới. Trung Quốc coi việc hợp tác với TNCs là hạt nhân mục tiêu điểu chỉnh cơ cấu kinh tế. - Trước hết là đổi mới trong tư duy. Trung Quốc đưa ra quan điểm: “đổi mới tư duy – thí điểm – và từng bước mở cửa mạnh mẽ hơn”. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy để phát triển thì điều quan trong nhất là để người dân được tự do suy nghĩ thì chính sách tự do hóa thương mại mới được đẩy mạnh. - Trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc vừa khuyến khích thu hút nguồn vốn vừa và nhỏ, vừa đặt trọng điểm vào thu hút nguồn vốn đầu tư của TNCs. Trên cơ sở chính sách “ Lấy thị trường đổi lấy kỹ thuật”, Chính phủ cho phép TNCs chiếm lĩnh một phần thị trường trong nước thông qua các hình thức thâm nhập: liên doanh, mua bán, sáp nhập,… - Cùng với việc nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xậy dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, các biện pháp thu hút nguồn vốn nước ngoài của Trung Quốc dần chuyển hướng dựa vào chính sách ưu đãi thuế sang dựa vào môi trường đầu tư và thị trường mở. Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thuê đất theo các lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư. 3 Malaixia Sau khi giành được độc lập vào năm 1957, Chính phủ Malaixia được sự giúp đỡ của WB đã xây dựng chiến lược công nghiệp hóa nền kinh tế, nhưng thực tế đã đặt ra nhiều vấn đề mà nền kinh tế khó giải quyết. Trong đó, nổi bật là nhu cầu về vốn, công nghệ tiên tiến, kiến thức quản lý và quy mô thị trường. Vì thế: 13 - Chính phủ Malaixia đã tích cực, chủ động đặt mục tiêu thu hút FDI và đặc biệt coi sự thâm nhập của các TNCs vào nền kinh tế là một công cụ quan trọng, có tính quyết định đến sự thành công của quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước. - Malaixia nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, duy trì sự ổn định về kinh tế xã hội, và có nhiều biện pháp chuyển hướng lớn trong quá trình thu hút đầu tư, từ ngành sản xuất sử dụng nhiều tài nguyên và lao động sang những ngành có trình độ khoa học, kỹ thuật cao đòi hỏi có môi trường đầu tư thuận lợi, thị trường rộng lớn. - Malaixia có sự thích ứng nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của thị trường và xu hướng thâm nhập của TNCs, được thể hiện qua 5 giai đoạn thực hiện CNH: CNH thay thế nhập khẩu (1957-1970); CNH hướng vào xuất khẩu (thập kỷ 70); Chiến lược thay thế nhập khẩu lần II (1980-1985); đẩy mạnh hướng vào xuất khẩu (1986-1995), đến nay là chiến lược CNH phát triển bền vững. 1.2.3.2.Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Về phía nhà nước -Tăng cường cải tiến và xây dựng mới hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, tạo sự đồng bộ và phát triển cho tất cả các vùng. - Xây dựng khung pháp lý để hình thành và phát triển thị trường công nghệ phù hợp với điều kiện nước ta và thông lệ quốc tế - Thiết lập Hội đồng chính sách về chuyển giao công nghệ trong đó có các nhà khoa học đầu ngành, các nhà đại diện cho khối quản lý và khối các doanh nghiệp sản xuất. - Trong hoạt động chuyển giao công nghệ cần phải chú ý: Việc lựa chọn dự án, các cơ quan thực hiện; các chương trình, dự án lồng ghép, các chính sách ưu đãi và đặc biệt coi trọng vấn đề đào tạo bồi dưỡng, nhận thức, tay nghề cho người tiếp nhận. Về phía doanh nghiệp - Khi tiến hành lựa chọn công nghệ, doanh nghiệp phải nhìn nhận vai trò, vị trí của công nghệ đó cũng như đánh giá năng lực của chính doanh nghiệp có công nghệ được chuyển giao; - Khi tiến hành đàm phán về chuyển giao công nghệ, cần nghiên cứu kỹ mong muốn, lợi ích thực sự của doanh nghiệpc ó công nghệ chuyển giao. 14 - Ngay từ khi chuẩn bị tiếp nhận công nghệ, cần tính đến khả năng thích ứng hóa và khả năng tiếp tục chuyển giao công nghệ. - Nội dung chuyển giao công nghệ cần được xác định rõ trong các hợp đồng với đối tác. 15 Chương 2: Quá trình chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia vào VN và một số vấn đề đặt ra 2.1: Điều kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam 2.1.1. Những thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam Việt Nam có môi trường chính trị - xã hội ổn định. Sự ổn định về chính trị là cơ sở tránh bất trắc, rủi ro trong kinh doanh, tạo độ tin cậy, đảm bảo lợi nhuận chắc chắn cho doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam có đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá; là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Có rất nhiều Nghị định, Thông tư của Nhà nước nhằm khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động chuyển giao công nghệ, đặc biệt là các hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài; các biện pháp hỗ trợ tài chính, thuế, cơ sở vật chất ngày càng trở nên hữu hiệu. Các quy định trong quy trình chuyển giao công nghệ được giảm đi rất nhiều, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện ở Việt Nam. Việt Nam có quan hệ hợp tác và đối tác về khoa học và công nghệ với trên 70 quốc gia, tổ chức quốc tế, vùng lãnh thổ; đồng thời là thành viên tích cực của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế. Thông qua hợp tác quốc tế, các quy trình đàm phán thỏa thuận; điều kiện thương mại được thuận lợi hơn, do đó có nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ được diễn ra hơn. Những lợi thế so sánh: Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi, tiềm năng đất đai, khoáng sản, khí hậu, lao động, thị trường …của một nước đang phát triển luôn nằm trong tầm ngắm các nhà đầu tư, đặc biệt là yêu cầu của các công ty xuyên quốc gia nhằm khai thác và mở rộng thị trường. 2.1.2. Những yếu tố cản trở chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại vào Việt Nam * Về khách quan Chúng ta thừa nhận khó khăn chung của doanh nghiệp các nước đang phát triển. Đó là tình trạng thừa nguyên liệu thô nhưng thiếu nguyên liệu chế biến đạt chất lượng theo tiêu chuẩn. Doanh nghiệp cũng không đủ kỹ năng để thẩm định thiết bị công nghệ khi được chuyển giao, nên máy móc nhận về gặp bệnh, hư hỏng hoặc không sử dụng được phải "trùm mền" là chuyện không hiếm. 16 Theo quy luật phân công quốc tế , nước đi trước sẽ chuyển giao thiết bị, năng suất thấp cho nước đi sau. Cứ như vậy, vài năm nữa khi Việt Nam khá lên sẽ chuyển cho những nước nghèo hơn. Vấn đề còn lại là bản thân Việt Nam phải biến công nghệ của họ thành của mình. Ngoài ra, Việt Nam cũng đang vấp phải cạnh tranh gay gắt từ phía các quốc gia đang phát triển khác như Thái Lan, Phillippin, Indonexia, Myanmar…Chỉ riêng 3 tháng đầu năm 2012, số liệu thống kê cho thấy, FDI vào Indonesia đã tăng tới 30%, vọt lên mức kỷ lục 5,6 tỷ USD, bất chấp những chính sách bất lợi cho đầu tư và thương mại gần đây. Và Myanmar cũng đang trở thành một thị trường đầu tư đầy tiềm năng, thậm chí còn được coi là điểm đến kế tiếp cho các cơ hội phát triển trong khu vực. Malaysia, Thái Lan cũng vẫn tiếp tục là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài. Cũng theo thống kê, các doanh nghiệp FDI đầu tư tại VN có tới 87,37% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, đây là một hình thức khép kín và hầu như không có sự chuyển giao công nghệ ra bên ngoài, hoặc chuyển giao công nghệ nhỏ giọt. Chúng ta là nước nhận đầu tư, nhận công nghệ, nên rất khó để có thể tuỳ ý lựa chọn các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là các TNCs- những công ty vô cùng khó tính. Một khó khăn chung nữa cho nhiều doanh nghiệp trong nước, đòi hỏi doanh nghiệp trong nước phải thật sự kiên nhẫn, đó là 1 số TNCs rất khắt khe, khiến cho một số khâu trong thủ tục chuyển công nghệ bị chậm so với các đối tác khác, điển hình là các TNCs đến từ Nhật Bản. Xem xét trên khía cạnh an ninh kinh tế, mặc dù công nghệ nhập không còn là bí quyết nhưng nhiều chủ đầu tư nước ngoài khi đàm phán vẫn ép buộc bên các nước nhận công nghệ phải chấp nhận hợp đồng chuyển giao công nghệ và đi kèm theo đó là phí chuyển giao công nghệ (chiếm 2-5% doanh thu dự án trong thời gian 5-7 năm). Ở Việt Nam, có dự án bên nước ngoài đòi hưởng tới 8% tiền bán sản phẩm trong thời hạn 20 - 30 năm. Trong bối cảnh kinh tế thế giới bất ổn như hiện nay, các doanh nghiệp nội địa với tiềm lực tài chính còn nhiều hạn chế đương nhiên gặp rất nhiều khó khăn để có thể huy động đủ vốn đáp ứng yêu cầu đó từ chủ công nghệ. Cuối cùng, giải mã công nghệ được tiến hành ở các nước đang phát triển có thể định hình theo các bước sau: sao chép công nghệ; hoàn thiện công nghệ; làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ. Quá trình tích lũy công nghệ này không thể bỏ qua con đường chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, đặc biệt là từ TNCs. Đây là một quá trình dài hơi, đòi hỏi có tính đồng bộ cao trong quy trình từ 17 tìm kiếm – giải mã – nhập khẩu – làm chủ và đồng bộ trong sự gắn kết với các chương trình hỗ trợ khác. Phần lớn các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đều đang chập chững ở bước đầu tiên của quá trình này nên việc khai thác công nghệ kém hiệu quả là điều có thể hiểu được. *Về chủ quan Việt Nam đang hoàn thiện dần thể chế kinh tế thị trường; luật lệ hay bị điều chỉnh do nảy sinh xung đột lợi ích giữa các chủ thể kinh tế, mối liên kết giữa các thị trường hàng hoá và dịch vụ còn lỏng và chưa thống nhất. Ngoài ra, cơ cấu kinh tế lẫn cơ chế quản lý kinh tế và bộ máy quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn thiếu sự linh hoạt, không thu hút được các nhà đầu tư quốc tế. Môi trường đầu tư, trong đó cái bị nhắc đến nhiều nhất chính là thủ tục hành chính còn rườm rà. Nhà đầu tư kêu rất nhiều chuyện phải bỏ quá nhiều thời gian để xin một giấy phép dự án. Khi đã có giấy phép rồi thì việc giải phóng mặt bằng còn lâu la hơn nữa. Ngoài ra, có quá có nhiều văn bản pháp luật chồng chéo lại thiếu tính hệ thống. Ngay cả những người làm luật đôi khi còn không nhớ những văn bản mà mình đã đề ra, cái sau chồng lấn cái trước, Nghị định, thông tư đôi khi lại trái với Luật. Xin được trích dẫn lời của ông Paul Jewell, Giám đốc Điều hành EuroCham như sau “Sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô, tỷ lệ lạm phát cao, tham nhũng và các thủ tục hành chính vẫn tiếp diễn. Các nhà đầu tư châu Âu đang tăng cường tìm kiếm các điểm đến đầu tư khác trong ASEAN. Do đó, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để duy trì sức cạnh tranh trong khu vực”. Đầu tư vào Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước, hoặc doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần. Do yếu về trình độ, năng lực công nghệ; kinh nghiệm tổ chức kinh doanh, khả năng hợp tác, liên kết còn nhiều hạn chế; tính cạnh tranh chưa cao… nên doanh nghiệp Việt Nam chưa phải là đối tác ngang tầm có khả năng đem lại lợi nhuận cao cho các công ty xuyên quốc gia. Hơn nữa, không thể không nhắc đến sự yếu kém về công nghiệp phụ trợ của Việt Nam. Theo nghiên cứu , tỉ lệ các linh kiện mà các doanh nghiệp sản xuất Nhật Bản có thể mua được tại Việt Nam chỉ chiếm 22,6 % (năm 2003), thấp hơn rất nhiều so với 47,9 % tại Thái Lan và 45% tại Malaysia. Khoảng 68,6% DN Nhật Bản tham gia điều tra đã trả lời vấn đề lớn nhất trong hoạt động sản xuất của họ tại Việt Nam là khó khăn trong việc mua các nguyên phụ liệu và linh kiện phụ trong nước, mặc dù tỉ lệ này ở Thái Lan và Malaysia lần lượt là 40,1% và 31,6% (JETRO 2005). Thông thường các linh phụ kiện thường chiếm một tỉ trọng lớn trong cơ cấu giá thành sản phẩm. Ví dụ chiếm tới 70% - 90% giá thành trong 18 ngành lắp ráp điện tử. Trường hợp của Việt Nam đa phần giá trị tăng thêm được mang đến nhờ chi phí lao động rẻ và chỉ chiếm khoảng 10%. Sự yếu kém của công nghiệp phụ trợ đã gây nhiều khó khăn cho Việt Nam trong quá trình tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, hay nói cách khác, Việt Nam hiện nay chỉ như một công xưởng lắp ráp chứ chưa tạo ra nhiều giá trị. Chính vi thế, các TNCs lớn trên thế giới còn rất e dè khi tiếp cận thị trường Việt Nam, vì lợi nhuận thu được chưa thể sánh được với một số nước khác trong cùng khu vực. Khoa học – kĩ thuật và hạ tầng cơ sở ở Việt Nam có sự tụt hậu so với thế giới nói chung và khu vực nói riêng mặc dù đã có được sự chú trọng phát triển trong những năm gầy đây. Kinh tế Việt Nam gặp không ít khó khăn bởi việc chuyển giao công nghệ phần lớn được thực hiện gia công, lắp ráp; không có công nghệ nguồn nên năng lực đổi mới thấp. Mặt khác các doanh nghiệp quá khó khăn để tiến hành nghiên cứu và phát triển (R&D). Chỉ có 11% doanh nghiệp cho biết là đã phát triển những loại hình công nghệ mới nhất định. Trong quá trình thực hiện do thiếu thông tin nên cũng ít có sự liên kết với các tổ chức nghiên cứu trong nước và nước ngoài dẫn tới rủi ro, thất bại trong cải tiến công nghệ cao. Do đó chưa khai thác được lợi thế chuyển giao công nghệ từ hội nhập quốc tế mang lại. Hạn chế về công nghệ làm chậm giải quyết hàng tồn kho, cũng như giảm nợ xấu, hai khó khăn lớn nhất với DN trong nước hiện nay. Chúng ta không sử dụng được lợi thế mua máy móc, thiết bị để mua và nhận chuyển giao công nghệ. Chủ đầu tư và nhà khoa học không kết hợp được với nhau, chủ thể mua thiết bị, nhà máy thường không quan tâm đến chuyển giao công nghệ, họ chỉ cần mua được thiết bị với chất lượng và giá cả hợp lý trong khi các nhà khoa học mua công nghệ lại không có điều kiện mua thiết bị như các nhà đầu tư. Ngoài ra, trình tự để mua công nghệ, giá cả khi mua công nghệ không dễ tính định mức nên khó hoặc phê duyệt mất nhiều thời gian, không đáp ứng về tiến độ của dự án cũng là nguyên nhân làm hạn chế việc chuyển giao công nghệ. Về nguồn nhân lực. có thể nói hiện nay nước ta đang thiếu một đội ngũ lao động có trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đầu tư nước ngoài cũng như để cạnh tranh với các nước trong khu vực. Điều đó đã hạn chế việc tiếp thu kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Việt Nam cũng đang thiếu một quy hoạch dài hạn về tiếp nhận đầu tư nước ngoài, đặc biệt là thu hút đầu tư từ các TNCs lớn, cụ thể như khâu quảng bá, giới thiệu về môi trường, tiềm năng đầu tư của Việt Nam với nước ngoài còn nhỏ lẻ. 19 Cụ thể về phía doanh nghiệp, nhìn chung doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đặc biệt là luật chuyển giao công nghệ, nên tạo lập các hợp đồng còn nhiều khe hở, chưa thể khiến phía đối tác thoả mãn, hài lòng, vui vẻ đặt bút kí kết hợp đồng. 2.2. Thực trạng chuyển giao công nghệ tại Việt Nam 2.2.1. Nguồn gốc của các công ty xuyên quốc gia chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam có nguồn gốc từ các nước Châu Á là phổ biến nhất. Trong 10 tháng năm 2013, ước tính Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 4,842 tỷ USD, chiếm hơn 1/4 tổng vốn FDI đầu tư. Hàn Quốc và Singapore lần lượt đứng vị trí thứ 2 với 4,019 tỷ USD và thứ 3 với 3,985 tỷ USD, mỗi nước chiếm hơn 1/5 tổng số vốn đầu tư. Một số dự án đầu tư của các nước Châu Á có thể kể đến như Samsung Electronics Việt Nam tại Thái Nguyên; Nhà máy nhiệt điện đốt than BOT Vĩnh Tân 1 của nhà đầu tư Trung Quốc; LG Electronics Việt Nam của nhà đầu tư Hàn Quốc tại Hải Phòng… Bên cạnh đó, Mỹ cũng là nước có lượng đầu tư vào Việt Nam khá lớn. Tổng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của Mỹ vào Việt Nam đạt 10,5 tỷ USD (5/2013), đứng thứ 7 trong số các quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 658 dự án. Nhiều công ty của Mỹ đang kinh doanh tại Việt Nam, trong đó có những công ty lớn, đầu tư lâu dài, ổn định. Một số công ty, tập đoàn lớn của Mỹ như Tập đoàn Coca Cola, Procter & Gamble, Unocal, Conoco… đầu tư vào Việt Nam thông qua các chi nhánh, công ty con của Mỹ đăng ký tại một số nước khác như British Virgin Island, Singapore, Hồng Kông... Các công ty và tập đoàn này đầu tư khá lớn tại Việt Nam nhưng chưa được tính trong con số thống kê đầu tư của Mỹ tại Việt Nam. Nếu tính cả nguồn vốn đầu tư qua nước thứ 3 thì Mỹ sẽ là nhà đầu tư dẫn đầu tại Việt Nam 2.2.2. Hình thức chuyển giao công nghệ vào Việt Nam 2.2.2.1. Chuyển giao công nghệ thông qua các dự án đầu tư nước ngoài FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài là con đường ngắn nhất và rẻ nhất để tiếp cận đến khoa học công nghệ hiện đại. Từ khi tiến hành mở cửa nền kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mang lại cho Việt Nam không chỉ vốn mà cả công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam từ một nước chỉ có công nghệ cũ kỹ lạc hậu chủ yếu nhận viện trợ đến nay đã du nhập được hầu hết những công nghệ cần thiết phục vụ cho sản xuất cơ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan