Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chiến lược thâm nhập của các tập đoàn nước ngoài vào thị trường bán lẻ việt nam....

Tài liệu Chiến lược thâm nhập của các tập đoàn nước ngoài vào thị trường bán lẻ việt nam.cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp

.DOC
81
138
53

Mô tả:

1.Tính cấp thiết của đề tài: Đầu thế kỷ 20 người dân Sài thành bỗng nhiên thấy xuất hiện một loạt cửa hàng mang tên “cửa hàng tiện ích Masan Mart” ở khắp các quận nội thành. Cửa hàng tiện ích này bày bán hơn 1.000 mặt hàng đầy đủ các chủng loại như một cửa hàng tạp hóa lớn nhưng ở đó lại có những cô bán hàng xinh tươi mặc đồng phục, nhiệt tình một cách bất ngờ với khách hàng còn giá cả ở đó lại không “tạp hóa” chút nào. Người dân Sài thành còn chưa kịp quen với sự xuất hiện của những cửa hàng này thì 7 tháng sau những cửa hàng đó lại lặng lẽ biến mất. Đó là câu chuyện về sự thất bại khi thâm nhập thị trường Việt Nam của tập đoàn Seven-Eleven Nhật Bản với hàng loạt cửa hàng tiện ích mang tên Masan Mart. Masan Mart thất bại ở Việt Nam không phải vì hàng hóa chất lượng kém, nhân viên bán hàng không nhiệt tình mà nguyên nhân chính nằm ở chỗ các nhà điều hành đã không hiểu rõ tâm lý tiêu dùng của người Việt Nam vào thời kỳ đó còn chưa biết đến các mô hình bán lẻ hiện đại và vẫn giữ thói quen mua hàng ở các cửa hàng đại lý truyền thống. Sự thất bại của Seven-Eleven là bài học quý giá cho các tập đoàn nước ngoài muốn gia nhập vào thị trường bán lẻ Việt Nam sau này. Ngày 1/1/2009, Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ theo đó mọi hạn chế về tỷ lệ vốn góp và hình thức hoạt động kinh doanh bán lẻ của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Với bối cảnh như vậy thì làn sóng thâm nhập của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào thị trường trong nước lại nổi cao hơn bao giờ hết. Liệu những câu chuyện như Masan Mart sẽ là phổ biến hay những câu chuyện ngược lại sẽ được nhắc đến nhiều hơn? Liệu các doanh nghiệp trong nước sẽ hành động như thế nào trước làn sóng ngoại nhập đó? Để trả lời những câu hỏi này tác giả chọn đề tài “Chiến lược thâm nhập của các tập đoàn nước ngoài vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam” làm đề tài khóa luận. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những phân tích về thị trường bán lẻ Việt Nam trong thời gian 19992010 nội dung bài khóa luận sẽ làm rõ những vấn đề sau:  Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến thị trường bán lẻ và các phương thức thâm nhập thị trường thế giới. 0  Đánh giá tổng quan thị trường bán lẻ Việt Nam và phân tích sự lựa chọn phương thức thâm nhập của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam.  Nêu ra cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trước sự thâm nhập của các tập đoàn nước ngoài từ đó đưa ra giải pháp cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu thực tiễn lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường Việt Nam của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài do quy mô bài khóa luận và trình độ người viết có hạn không thể nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn đó là chiến lược thâm nhập của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài vào thị trường Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện chủ yếu dựa trên các phân tích, đánh giá định lượng và định tính thông qua một số phương pháp nghiên cứu nhu: phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp-phân tích, biểu đồ để làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận nhằm giải quyết những nhiệm vụ đã đề ra. 5.Kết cấu của bài khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, khóa luận được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thị trường bán lẻ và phương thức thâm nhập thị trường. Chương 2: Lựa chọn phương thức thâm nhập của các tập đoàn nước ngoài vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Chương 3: Cơ hội , thách thức và giải pháp phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VÀ PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG I.THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ. I.1 Khái niệm và đặc điểm của bán lẻ và thị trường bán lẻ: I.1.1 Khái niệm và đặc điểm của bán lẻ: Bán lẻ là một hoạt động ra đời từ rất lâu của con người do đó có khá nhiều định nghĩa khác nhau được đưa ra cho đến nay. Sau đây là một số định nghĩa được thừa nhận và sử dụng rộng rãi :  Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ tài liệu số TN.GNS/W/120 của vòng đàm phán Uruguay của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và danh mục sản phẩm trung tâm tạm thời của Liên hợp quốc ( CPC) : Dịch vụ bán lẻ là hoạt động bán các hàng hóa cho người tiêu dùng hoặc các hộ tiêu dùng từ một địa điểm cố định hay một địa điểm khác và các dịch vụ liên quan.  Theo Khoản 8, Điều 3 Nghị định 23/2007/ NĐ – Chính phủ ngày 12 tháng 2 năm 2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Bán lẻ là hoạt động bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.  Trong cuốn “Quản trị Marketing” , Phillip Kotler đưa ra định nghĩa về bán lẻ như sau: Bán lẻ bao gồm các hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng vào mục đích cá nhân, không mang tính thương mại. Như vậy hoạt động bán lẻ có thể hiểu là hoạt động kinh doanh bằng cách mua với số lượng lớn từ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc nhà bán sỉ rồi chia nhỏ và bán cho người tiêu dùng nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc gia đình. Nhà bán lẻ là người sản xuất, người bán sỉ hay người bán lẻ có rất nhiều hình thức để tiến hành hoạt động bán lẻ như bán hàng trực tiếp, qua điện thoại , qua máy bán hàng tự động hay bán hàng trực tuyến. 2 Từ những định nghĩa trên ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của bán lẻ như sau:  Hàng hóa được mua với mục đích tiêu dùng , không mang tính thương mại do đó hàng hóa đã được trao đổi không còn cơ hội để quay lại thị trường. Đồng thời người mua hàng cũng là người tiêu dùng cuối cùng. Đây chính là đặc điểm cơ bản nhất của bán lẻ.  Khách hàng chủ động và độc lập trong quyết định mua hàng. Thông thường đối với hoạt động bán lẻ, người bán hàng không có quá trình thăm dò nhu cầu trước khi tiếp xúc với người tiêu dùng. Khách hàng có khả năng tài chính, có động cơ mua hàng cụ thể và có quyết định tương đối độc lập.  Hàng hóa đa dạng và phong phú: Phần lớn các nơi bán lẻ cung cấp nhiều loại hàng hóa khác nhau, vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, vừa tăng cường hiệu quả kinh doanh trong từng kỳ. Trong các cửa hàng chuyên doanh, tùy theo từng chủng loại sản phẩm, nhà sản xuất còn đa dạng hóa thành nhiều mặt hàng có kích cỡ, chất lượng, màu sắc, kiểu dáng… khác nhau để khách hàng có nhiều sự lựa chọn của khách hàng. I.1.2 Khái niệm và đặc điểm của thị trường bán lẻ Trước khi làm rõ khái niệm về thị trường bán lẻ, tôi xin được đưa ra khái niệm về thị trường. Trong kinh tế chính trị học “ thị trường là lĩnh vực lưu thông, ở đó hàng hóa thực hiện được giá trị của mình tạo ra trong lĩnh vực sản xuất”. Định nghĩa này muốn khẳng định một điều là giá trị của hàng hóa chỉ có thể thực hiện được thông qua hoạt động trao đổi, hoạt động trao đổi ấy được diễn ra trong quá trình lưu thông – một trong những khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong Marketing khái niệm về thị trường cũng dựa trên nền tảng là sự trao đổi. Theo Philip Kotler : “ Thị trường là tập hợp tất cả những người mua thực sự hay những người mua tiềm tàng đối với một sản phẩm”. 3 Tóm lại, thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ mà các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau, để xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ và số lượng giao dịch. Thị trường là một thuật ngữ ra đời gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hóa và có nhiều quan niệm khác nhau về thị trường. Nhìn chung, nói đến thị trường trước hết là nói về địa điểm, và rộng hơn nữa là không gian mua bán trao đổi, là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế, nói đến sự trao đổi mua bán các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất. Dựa vào định nghĩa về thị trường và đặc điểm cơ bản nhất của lĩnh vực bán lẻ đó là hàng hóa được mua với mục đích tiêu dùng , không mang tính thương mại có thể rút ra “ Thị trường hàng hóa bán lẻ là thị trường mà người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và khối lượng hàng hóa ,dịch vụ tiêu dùng và không còn cơ hội quay trở lại thị trường” Theo quan điểm của GS.TS Hoàng Đức Thân trong cuốn “ Tổ chức và kinh doanh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ ở Việt Nam” thì “ Thị trường hàng hóa bán lẻ bao hàm toàn bộ các hoạt động nhằm bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để tiêu dùng cá nhân” Từ định nghĩa về thị trường bán lẻ ta thấy thị trường bán lẻ có một số đặc điểm như sau:  Sau khi hàng hóa được mua bán, trao đổi ở thị trường bán lẻ thì hàng hóa không còn cơ hội quay lại thị trường vì hàng hóa bán ra ở thị trường bán lẻ là nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng.  Thị trường bán lẻ có rất nhiều hình thức và cạnh tranh rất mạnh mẽ. Thị trường bán lẻ hàng hóa đươc nhiều thành phần kinh tế trong mỗi quốc gia cùng tham gia hoạt động, tiến hành kinh doanh theo nhiều quy mô lớn nhỏ khác nhau, cách thức bán hàng đa dạng và linh hoạt. Vì vậy cạnh tranh trong thị trường bán lẻ diễn ra rất gay gắt giữa những người bán hàng, các cửa hàng, các công ty hay các tập đoàn, 4  Thị trường hàng hóa bán lẻ là nơi cung cấp số lượng lớn hàng hóa và phong phú về chủng loại cũng như nhãn hiệu. Thị trường bán lẻ là nơi diễn ra các hoạt động phục vụ mục đích tiêu dùng cuối cùng của người mua hàng do đó để thỏa mãn được nhu cầu rất đa dạng và rất lớn của người tiêu dùng đòi hỏi một số lượng rất lớn hàng hóa và phong phú về mặt chủng loại. Khác với các công ty sản xuất chỉ kinh doanh một vài chủng loại của một vài nhóm sản phẩm, các công ty bán lẻ lại kinh doanh tập hợp các mặt hàng khác nhau của rất nhiều nhãn hiệu hàng hóa khác nhau để khách hàng có thể thoải mái lựa chọn tùy theo sở thích của mỗi người. I.2 Cấu trúc thị trường bán lẻ Từ cách hiểu về thị trường bán lẻ là nơi mà người mua và người bán tác động lẫn nhau, trao đổi với nhau ta có thể phân loại thị trường bán lẻ thành hai nhóm chính đó là thị trường hữu hình và thị trường vô hình. Trong thị trường hữu hình, người mua và người bán gặp gỡ , trao đổi trực tiếp với nhau ở các địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ hữu hình như các chợ, đại lý, siêu thị, trung tâm thương mại.. Trong thị trường vô hình, người mua và người bán không trực tiếp gặp gỡ nhau mà thông qua các tiến bộ của công nghệ thông tin như internet, điện thoại… và địa điểm cung cấp hàng hóa dịch vụ cũng là những địa điểm vô hình như các trang web mua bán trên mạng điển hình như ebay.com, amazon.com, enbac.com… Hình thức mua bán qua mạng trên thế giới đã phát triển từ rất lâu nhưng ở Việt Nam chỉ mới nổi lên trong những năm gần đây với tốc độ phát triển rất nhanh chóng và đã hình thành thị trường bán lẻ vô hình rất sôi động, phong phú với đầy đủ các loại mặt hàng. Ưu điểm nổi bật của thị trường này đó chính là tốc độ giao dịch lớn và chi phí mua hàng thấp. Nhược điểm của thị trường này đó là thiếu độ tin cậy do người mua và người bán không trực tiếp gặp gỡ nhau và rủi ro do bảo mật thông tin còn rất lớn. Thị trường bán lẻ vô hình hiện nay đang thu hút sự chú ý mạnh mẽ của các nhà bán lẻ tuy nhiên thị trường bán lẻ hữu hình vẫn đóng vai trò lớn khó lòng thay thế. Do đó, trong khuôn khổ bài khóa luận tôi xin đi sâu vào tìm hiểu cấu trúc của thị trường bán lẻ hữu hình. 5 Bộ phận chính của thị trường bán lẻ hữu hình là các tổ chức bán lẻ có quy mô như trung tâm mua sắm, đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng bách hoá, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, chợ truyền thống, chợ chuyên doanh... Bên cạnh đó còn một bộ phận rất nhỏ đó là hình thức bán rong, nó không gắn với một địa điểm cố định hoặc một cửa hàng nhất định. Thương mại bán rong bao gồm những người bán hàng tại nhà; những người đến tận các hộ gia đình để giới thiệu và bán hàng; những người bán hàng ở các chợ cuối tuần, chợ tết; bán hàng ở đường phố và các xe bán hàng chủ yếu là hàng thực phẩm và các hàng tươi sống, cũng có thể là các xe bán nhiều mặt hàng ở những nơi mà mạng lưới bán lẻ thưa thớt . Sau đây tôi sẽ đi sâu vào các tổ chức bán lẻ chính trong thị trường bán lẻ hữu hình.  Chợ truyền thống: Chợ truyền thống ra đời từ rất sớm trong lịch sử loài người, khi mà con người đã sản xuất được hàng hóa nhiều hơn nhu cầu của họ, nên phải mang nó đi trao đổi với người khác để lấy một loại hàng hóa nào đó. Hàng hóa trong chợ rất đa dạng, từ những loại sản phẩm dùng trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người đến các chủng loại sản phẩm khác. Mỗi chợ thường bao gồm nhiều dãy gian hàng khác nhau. Mỗi gian hàng có thể bày bán một loại hàng khác nhau hoặc tất cả các gian hàng trong chợ cùng bán một thể loại hàng giống nhau.  Cửa hàng tiện lợi: là loại hình bán lẻ cung cấp sự tiện lợi cho khách hàng; quy mô nhỏ; hàng hóa và dịch vụ kinh doanh chủ yếu là những thứ thiết yếu nhất với cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của con người; thời gian kinh doanh dài,...  Cửa hàng chuyên doanh : bán mặt hàng đặc trưng cho ngành hàng, hoặc định hướng vào nhóm nhu cầu với phạm vi lựa chọn lớn hơn, phẩm cấp và giá cả khác nhau với các dịch vụ bổ sung. Có thể chia cửa hàng chuyên doanh thành các loại: + Cửa hàng chuyên ngành chuyên bán một mặt hàng hoặc một nhóm hàng hóa, như cửa hàng giày thể thao, đồ golf, cửa hàng đồ chơi,... + Cửa hàng đại lý độc quyền chuyên bán hoặc được uỷ quyền bán một nhãn hiệu hàng hóa chủ yếu nào đó.  Chuỗi cửa hàng bán lẻ: là loại hình tổ chức bán lẻ triển khai nhiều cửa hàng theo chuỗi. Cửa hàng chuỗi là một trong một loạt cửa hàng giống nhau (thương 6 hiệu, trang thiết bị, kiến trúc, công nghệ và hàng hóa). Chuỗi cửa hàng bán lẻ là hệ thống cửa hàng bán lẻ được tiêu chuẩn hóa và vận doanh có tính chất thống nhất, các chức năng quản lý chiến lược, chuẩn bị nguồn hàng, cung ứng hàng hóa, quyết định chính sách bán hàng - giá cả,... được tập trung vào doanh nghiệp điều hành, các cửa hàng chủ yếu chỉ thực hiện nhiệm vụ bán hàng. Dựa vào việc thu mua hàng loạt với khối lượng lớn và phân phối tập trung, áp dụng tiêu chuẩn chung, phát triển nhanh thương hiệu với quy mô phân phối mở rộng, có sức mạnh đàm phán với các nhà cung ứng hàng hóa,... nên có thể giảm được chi phí lưu thông, tăng cường năng lực cạnh tranh của tất cả các thành viên trong chuỗi. Cấu tạo của một chuỗi cửa hàng gồm 3 thành phần chính: Doanh nghiệp mẹ, trung tâm phân phối và các cửa hàng thành viên.Tùy theo phương thức liên kết, các chuỗi cửa hàng được phân lọai theo chuỗi cửa hàng thông thường; chuỗi cửa hàng nhượng quyền; chuỗi cửa hàng tự nguyện.  Siêu thị là một đơn vị bán lẻ, có diện tích bán hàng từ 400 m2 trở lên, bán các loại lương thực, thực phẩm, kể cả hàng tươi sống (hoa quả, rau, thịt,...) cũng như các hàng hóa khác phục vụ nhu cầu hàng ngày và tiêu dùng ngắn ngày của khách hàng ở các khu dân cư; hàng hóa được trưng bày trên giá, bán hàng theo phương thức tự phục vụ hoặc tự phục vụ là chủ yếu, tách biệt cửa ra và cửa vào, thực hiện thanh toán tập trung. Căn cứ vào cơ cấu chủng loại hàng hóa kinh doanh, có các siêu thị tổng hợp và siêu thị thực phẩm.  Đại siêu thị: là loại hình bán lẻ thỏa mãn mọi nhu cầu mua sắm một lần của khách hàng, bao gồm các siêu thị và những cửa hàng tổng hợp và chuyên doanh, có kho hàng, bãi đỗ xe lớn; việc vận chuyển, xếp dỡ hàng hóa được tối ưu hóa. Đây là loại hình bán lẻ có sức cạnh tranh mạnh về giá cả dựa vào tính kinh tế nhờ quy mô và hiện đại hóa. Địa điểm kinh doanh thường ở khu vực ngoại vi hoặc ở các khu trung tâm thương mại của thành phố.  Trung tâm mua sắm: là cơ sở bán lẻ tập trung do chủ đầu tư xây dựng theo quy hoạch, trong đó có bố trí nhiều loại hình bán lẻ hàng hóa, dịch vụ ăn uống, giải trí, làm đẹp, ngân hàng, du lịch ..., có siêu thị hoặc cửa hàng bách hóa, chợ chuyên doanh,... làm hạt nhân, đáp ứng nhu cầu mua sắm, vui chơi, giải trí, thể thao,... của khách hàng. Khác với khu - đường phố tập trung nhiều cửa hàng, cửa hiệu buôn 7 bán được hình thành do lịch sử để lại, trung tâm mua sắm xây dựng theo quy hoạch được vận hành quản lý chuyên nghiệp của chủ đầu tư hoặc người quản lý chuyên nghiệp (cung ứng các dịch vụ về cơ sở hạ tầng, sắp xếp nơi bán hàng, trưng bày hàng hóa, xúc tiến và khuyếch trương, khuyến mại, thông tin, lao động, sử dụng chung các thiết bị, kiểm soát chất lượng hàng hóa, an ninh,... cho khách hàng và các nhà bán lẻ ), thường có diện tích trông giữ xe chung rất rộng, đường giao thông nội bộ thuận tiện và hợp lý, có thiết kế dạng phố buôn bán (mall) làm trung tâm bán lẻ, tập trung đồng bộ nhiều loại hình cửa hàng và dịch vụ, trong đó hầu hết các cửa hàng là thành viên của các chuỗi kinh doanh. Căn cứ vào các tiêu chí như: vị trí quy hoạch, phạm vi thị trường, quy mô diện tích (bao gồm diện tích xây dựng và diện tích dành cho bán lẻ) và khách hàng, mà phân loại trung tâm mua sắm thành một số loại hình cụ thể, như trung tâm mua sắm ở khu trung tâm thương mại của thành phố; trung tâm mua sắm ở khu dân cư; trung tâm mua sắm của vùng. I.3 Vai trò của thị trường hàng hóa bán lẻ trong nền kinh tế quốc dân. Thị trường là khâu tất yếu của quá trình tái sản xuất hàng hóa, ở đâu có hàng hóa thì ở đó có thị trường. Vai trò của thị trường bán lẻ được thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất: Thị trường hàng hóa bán lẻ là cầu nối quan trọng giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong khi người tiêu dùng có nhu cầu về nhiều loại hàng hóa với khối lượng nhỏ thì người sản xuất để đảm bảo lợi nhuận phải sản xuất một hoặc một số lượng hàng hóa với khối lượng lớn. Khi xã hội càng phát triển, thu nhập của dân cư tăng lên, nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú. Trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất phải sản xuất với khối lượng lớn để đạt hiệu quả sản xuất theo tính kinh tế của quy mô. Sản xuất với khối lượng một số chủng loại sản phẩm mâu thuẫn với nhua cầu số lượng nhỏ, chủng loại đa dạng của người tiêu dùng. Thị trường bán lẻ giúp giải quyết tốt sự khác biệt giữa sản xuất quy mô lớn và tiêu dùng đa dạng khối lượng nhỏ bằng cách mua hàng hóa của nhiều nhà sản xuất khác nhau, bán lại cho nhiều người tiêu dùng tại cùng một địa điểm. 8 Thị trường bán lẻ giúp giải quyết sự khác biệt và không trùng lặp về không gian và thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong nền kinh tế, có sự khác biệt giữa không gian sản xuất và tiêu dùng do nhiều người sản xuất tại nhiều địa điểm khác nhau, nhiều người tiêu dùng ở nhiều nơi khác nhau. Thị trường bán lẻ giải quyết vấn đề khác biệt về mặt không gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Về mặt thời gian, vì sản xuất thường không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nên phải dự trữ hàng hóa, hơn nữa nhiều hàng hóa sản xuất mang tính thời vụ còn tiêu dùng xảy ra quanh năm hoặc ngược lại, thị trường bán lẻ tạo ra sự phù hợp giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động lưu trữ Thứ hai: Thị trường nói chung là sống còn đối với sản xuất và kinh doanh , mục đích của sản xuất hàng hóa là để bán, để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Nói riêng đối với thị trường bán lẻ thì nó quyết định sự tồn tại của người sản xuất cũng như các nhà bán lẻ. Thị trường cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết để tiến hành hoạt động sản xuất và phân phối về nhu cầu thị trường, thị trường cần cái gì, số lượng bao nhiêu. Từ đó nhà sản xuất và nhà bán lẻ cung cấp cho thị trường những hàng hóa mà thị trường cần và các doanh nghiệp sẽ nhận lại được từ thị trường số tiền tương ứng với giá trị hàng hóa dịch vụ mà doanh nghiệp đã cung cấp. Bởi thế mà vai trò của thị trường bán lẻ đối với nhà sản xuất cũng như nhà bán lẻ là cực kỳ quan trọng, thị trường còn là còn sản xuất và phân phối, mất thị trường thì mọi hoạt động sản xuất cũng như kinh doanh đều ngưng trệ. Thứ ba: Thị trường bán lẻ phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc giữa các vùng các miền tạo thành thể thống nhất toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhờ có sản xuất và kinh doanh hàng hóa nói chung và kinh doanh hàng hóa bán lẻ nói riêng mà hàng hóa có thể có mặt trên bất kỳ thị trường nào, ở bất cứ nơi đâu. Thứ tư: Với thị trường hàng hóa bán lẻ là nơi cuối cùng định ra giá cả, số lượng hàng hóa được giao dịch để phục vụ mục đích tiêu dùng cho xã hội. Do đó nhà nước có thể căn cứ vào những thông tin mà thị trường bán lẻ cung cấp để điều tiết, hướng dẫn sản xuất và kinh doanh. Thứ năm: Thị trường hàng hóa bán lẻ phản ánh tình hình sản xuất, kinh doanh mức sống của dân cư trong xã hội. Thị trường hàng hóa bán lẻ được xem như “ 9 chiếc phong vũ biểu” của mức tiêu thụ trong xã hội. Dựa vào mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ ta có thể thấy được tình hình sản xuất kinh doanh hay mức sống của dân cư trong xã hội. Thứ sáu: Thị trường hàng hóa bán lẻ giữ vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Bởi thị trường bán lẻ đảm bảo một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất là khâu tiêu thụ. Có thể nói, thị trường bán lẻ đang ngày càng củng cố vai trò là động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển và đem lại lợi ích to lớn cho người tiêu dùng. Thứ bảy: Thị trường bán lẻ dẫn dắt người sản xuất định hướng vào nhu cầu thị trường, thúc đẩy phương thức kinh doanh theo nhu cầu của nền kinh tế thị trường, trên cơ sở đó mà tăng cường thương mại hàng hóa và phát triển thị trường cho các nghành kinh tế và sản phẩm có lợi thế, cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao hiệu quả và sứ cạnh tranh của nền kinh tế đất nước. Thứ tám: Thị trường hàng hóa bán lẻ là nơi quan trọng để đánh giá kinh nghiệm chứng minh tính đúng đắn của chủ trương chính sách kinh tế của nhà nước, cá nhà sản xuất kinh doanh. II. CÁC PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ. 2.1. Các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế. Khi một doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường quốc tế thì doanh nghiệp đó phải chọn được hình thức thâm nhập phù hợp với mỗi thị trường khác nhau. Quyết định lựa chọn hình thức thâm nhập có thể nói là quyết định quan trọng nhất khi doanh nghiệp tiến hành mở rộng thị trường quốc tế . Chiến lược thâm nhập thị trường có ảnh hưởng lớn, khó thay đổi được và thường mang tính chất dài hạn đối với các tập đoàn đa quốc gia. Trong cuốn “ Chiến lược thâm nhập thị trường quốc tế” của Franklin R.Root thì phương thức thâm nhập thị trường quốc tế được định nghĩa là sự sắp xếp sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật, quản lý hoặc các nguồn nhân lực khác để thâm nhập vào một thị trường nước ngoài 10 Hiện nay, có thể kể ra khá nhiều phương thức thâm nhập thị trường bao gồm các phương thức truyền thống như xuất khẩu,hợp đồng sử dụng bản quyền, liên doanh, hợp đồng chìa khóa trao tay, nhượng quyền thương mại, chi nhánh sở hữu toàn bộ, liên minh chiến lược; hay những phương thức mới như sử dụng mạng interner, chi nhánh quốc tế, nhà phân phối quốc tế và mua tài sản nước ngoài. Mỗi phương thức có những đặc điểm và các ưu nhược điểm khác nhau đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ để có sự lựa chọn tốt nhất khi tiến hành mở rộng ra thị trường quốc tế. Trong cuốn “ Kinh doanh quốc tế” Charles W.L. Hill đã đưa ra khái niệm về sáu phương thức thâm nhập được áp dụng phổ biến bao gồm: xuất khẩu, hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng sử dụng bản quyền, nhượng quyền thương mại, liên doanh và chi nhánh sở hữu toàn bộ. 2.1.1.Xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác. Xuất khẩu được xem là phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp. Theo phương thức này thì doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương thức đó là xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất khẩu gián tiếp. Phương thức xuất khẩu trực tiếp là doanh nghiệp bán hàng trực tiếp cho khách hàng ở thị trường nước ngoài. Phương thức này thường áp dụng đối với các công ty có kinh nghiệm quốc tế , sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Phương thức này sẽ đem lại lợi nhuận cao nếu nắm bắt đươc nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng , nhưng ngược lại nếu doanh nghiệp không nắm bắt kịp thông tin về thị trường thế giới và đối thủ cạnh tranh thì rủi ro trong phương thức này không phải là ít. Phương thức xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa và dịch vụ của công ty ra nước ngoài thông qua trung gian. Các trung gian xuất khẩu có thể là đại lý, công ty kinh doanh xuất khẩu, đại lý vận tải. Phương thức này thường áp dụng cho các công ty chưa có nhiều kinh nghiệm về thị trường, khách hàng , chưa thông thạo các nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu. Ưu điểm: 11 Thứ nhất, ưu điểm đầu tiên khi áp dụng phương thức thâm nhập này đó là doanh nghiệp có thể giảm thiểu các chi phí cho việc tiến hành kinh doanh, sản xuất ở nước ngoài do doanh nghiệp không phải chịu những chi phí xuất khẩu trung gian và đối với phương thức xuất khẩu trực tiếp thì lợi nhuận không bị chia sẻ như phương thức xuất khẩu gián tiếp và một số phương thức khác Thứ hai, một ưu điểm khác của phương thức này là doanh nghiệp xuất khẩu có thể đạt được đường cong kinh nghiệm và tính kinh tế địa phương. Bằng cách tập trung sản xuất sản phẩm ở một địa điểm sau đó xuất khẩu sản phẩm đó sang thị trường khác, doanh nghiệp có thể đạt được tính kinh tế của quy mô do sản xuất với quy mô lớn. Nhược điểm: Thứ nhất, phương thức xuất khẩu sẽ không phù hợp nếu hàng hóa và dịch vụ đó xuất khẩu sang những thị trường có chi phí sản xuất hàng hóa, dịch vụ đó thấp hơn. Thứ hai, nhược điểm khác của phương thức này đó là nếu chi phí vận chuyển cao thì phương thức xuất khẩu sẽ không có tính kinh tế , đặc biệt là đối với những hàng hóa cồng kềnh. Thêm vào đó phương thức nhập khẩu sẽ không đạt được hiệu quả kinh tế do sự hạn chế của hàng rào thuế quan. Thứ ba, nhược điểm khác đó là đối với các doanh nghiệp mới bắt đầu tiến hành xuất khẩu thường ủy thác cho các đại lý thực hiện công việc marketing ở thị trường nước ngoài. Tuy nhiên các đại lý này lại thường phân phối cả những sản phẩm của đối thủ cạnh tranh dẫn đến làm giảm đi lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. 2.1.2. Dự án chìa khóa trao tay Dự án chìa khóa trao tay là một dự án trong đó một công ty sẽ thiết kế, xây dựng và vận hành thử nghiệm một công trình cho khách hàng nước ngoài, sau đó sẽ trao công trình này cho khách hàng của mình khi nó sẵn sang đi vào hoạt động, đổi lại họ sẽ nhận được một khoản phí. Phương thức này được xem như là một hình thức xuất khẩu công nghệ sang các nước khác. Các công ty thực hiện dự án chìa 12 khóa trao tay chủ yếu là các công ty trong ngành hóa chất, dược phẩm, hóa dầu… nằm trong những ngành công nghiệp sử dụng công nghệ phức tạp và giá thành cao. Ưu điểm: Thứ nhất, công nghệ được xem là một tài sản có giá trị của công ty do đó phương thức thâm nhập này được xem là một hình thức thu lợi nhuận cao từ những tài sản công nghệ. Thứ hai, phương thức này đặc biệt rất hữu ích tại những đất nước mà đầu tư trực tiếp bị giới hạn bởi các quy tắc của chính phủ để bảo hộ các doanh nghiệp trong nước nên không cho phép các doanh nghiệp nước ngoài đặt chi nhánh tại nước sở tại. Thứ ba, phương thức này được xem là ít rủi ro tại những đất nước có nền chính trị và môi trường kinh tế không ổn định bởi một số phương thức khác như liên doanh hay thành lập chi nhánh sở hữu toàn bộ đòi hỏi sự đầu tư trong dài hạn buộc các doanh nghiệp phải thích ứng với nền chính trị biến động và nhiều rủi ro kinh tế khác. Nhược điểm: Tuy nhiên, phương thức này cũng tồn tại ba nhược điểm chính. Thứ nhất là doanh nghiệp không thu được lợi ích dài hạn từ các dự án chìa khóa trao tay ở nước ngoài. Thứ hai, doanh nghiệp thực hiện dự án chìa khóa trao tay vô tình tạo ra đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài và đó chính là các khách hàng nhận dự án. Thứ ba, công nghệ của các doanh nghiệp là một nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh. Khi bán công nghệ đó thông qua các dự án chìa khóa trao tay thì đồng thời doanh nghiệp cũng đang bán đi lợi thế cạnh tranh của mình cho đối thủ cạnh tranh tiềm năng . 2.1.3. Cấp giấy phép Cấp giấy phép là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài, trong đó công ty bán giấy phép sẽ trao cho bên mua giấy phép quyền sử dụng các tài sản vô hình mà họ đang sở hữu trong một thời gian xác định. Để đổi lại, bên mua giấy phép phải trả tiền bản quyền cho bên bán giấy phép. Số tiền này thường được tính trên cơ sở doanh thu bán hàng và trả theo kỳ vụ hoặc trả một lần. Các tài sản vô hình có thể bao gồm bản quyền sáng chế, phát minh, công thức, thiết kế, phương pháp, chương trình, nhãn mác, sản phẩm và tên gọi sản phẩm đã được đăng ký. 13 Ưu điểm: Thứ nhất, công ty sử dụng hợp đồng sử dụng giấy phép để hỗ trợ cho việc mở rộng hoạt động của mình ra thị trường quốc tế. Hầu hết các hợp đồng sử dụng giấy phép đều đòi hỏi bên mua phải đóng góp thiết bị và đầu tư tài chính, thông qua việc xây dựng các cơ sở sản xuất đăc biệt hoặc sử dụng tiềm lực dư thừa đang có. Việc tiếp cận nhanh chóng các nguồn lực này là một ưu thế to lớn đối với bên bán giấy phép. Thứ hai, ưu điểm khác của phương thức này là ít rủi ro hơn so với các phương thức khác do doanh nghiệp không trực tiếp phải đầu tư vào thị trường nước ngoài. Chẳng hạn như đối với những thị trường có rủi ro cao do tình hình chính trị xã hội không ổn định hoăc có những thị trường không thể nghiên cứu một cách chính xác thì sử dụng phương thức này sẽ giúp doanh nghiệp tránh khỏi những rủi ro lớn nếu phải thiết lập các chi nhánh, cơ sở tại đất nước đó. Phương thức này cũng là một cách để các doanh nghiệp tiến hành thâm nhập những thị trường có nhiều rào cản về đầu tư trực tiếp. Thứ ba, phương thức này giúp doanh nghiệp hạn chế được hiện tượng hàng hóa giả mạo xuất hiện trên thị trường nước ngoài bằng cách bán giấy phép để các nhà sản xuất nước ngoài sản xuất sản phẩm đó với mức giá cạnh tranh hơn so với hàng nhập. Chính các công ty mua giấy phép cũng sẽ có trách nhiệm chống lại hàng giả đối với các sản phẩm mà họ mua giấy phép. Nhược điểm: Thứ nhất, phương thức này có thể hạn chế các hoạt động của công ty trong tương lai. Chẳng hạn như công ty mua giấy phép độc quyền nhưng khả năng sản xuất có hạn , không đáp ứng đủ nhu cầu ở thị trường nước ngoài. Khi đó, doanh nghiệp không thể trực tiếp bán sản phẩm của mình ở nước ngoài cũng như không thể bán giấy phép của mình cho công ty khác được. Như vậy, khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài của công ty sẽ bị hạn chế đi rất nhiều. 14 Thứ hai, doanh nghiệp sử dụng phương thức này sẽ không có được sự kiểm soát chặt chẽ đối với quá trình sản xuất, marketing, chiến lược kinh doanh mà sự kiểm soát đó là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp đạt được đường cong kinh nghiệm và tính kinh tế địa phương. Thứ ba, một hạn chế khác của hình thức này đó những rủi ro khi đưa những kiến thức công nghệ sang cho những công ty nước ngoài. Trình độ công nghệ được xem là nền tảng tạo nên lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp đa quốc gia và tất cả các doanh nghiệp này đều muốn kiểm soát được công nghệ đó sử dụng như thế nào. Phương thức này có thể khiến doanh nghiệp mất đi sự quyển soát đó một cách nhanh chóng. 2.1.4. Nhượng quyền thương mại Nhượng quyền thương mại được xem là một phương thức đặc biệt của hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng bản quyền, trong đó bên nhượng quyền không chỉ bán những tài sản vô hình (trong trường hợp nhượng quyền thương mại thường là nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh) mà bên nhận quyền còn phải tiến hành tổ chức hoạt động kinh doanh theo cách thức mà bên nhượng quyền quy định trong hợp đồng. Tương tự như phương thức hợp đồng sử dụng bản quyền, bên nhượng quyền cũng sẽ nhận được một khoản phí, thường tính theo phần trăm dựa trên doanh thu của bên nhận quyền. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong quá trình kinh doanh. Phương thức này thường được sử dụng với những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong khi phương thức hợp đồng sử dụng bản quyền lại sử dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp sản xuất. Ưu điểm: Thứ nhất, nhượng quyền thương mại là hình thức có thể kết hợp tối đa những lợi thế so sánh của cả hai bên để nâng cao tính cạnh tranh cho sản phảm hàng hóa hay dịch vụ và như vậy tạo khả năng thành công lớn hơn khi thực hiện. Cả hai bên có thể khai thác những lợi thế của nhau để phục vụ cho kết quả kinh doanh kể cả những lợi thế vô hình như uy tín của bên nhượng quyền, vị trí cửa hàng của bên nhận quyền. 15 Thứ hai, nhượng quyền thương mại là phương thức có thể nói là tối ưu hóa về chi phí. Doanh nghiệp sử dụng phương thức này có thể giảm thiểu được hàng loạt các yếu tố chi phí như chi phí xây dựng văn phòng, nhà máy, chi phí chuyên chở, chi phí cho nhân viên..mà vẫn có thể cùng một lúc thâm nhập vào nhiều thị trường, mở rộng quy mô của doanh nghiệp. Thứ ba, phương thức này có thể hạn chế khá nhiều những rủi ro kinh doanh của nước lựa chọn do doanh nghiệp không phải kinh doanh trực tiếp trên thị trường nước lựa chọn. Mặt khác, đây có thể nói là phương thức thâm nhập tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô một cách nhanh chóng, bên cạnh đó nhờ tính kinh tế của quy mô mà có thể giảm chi phí và giá thành của sản phẩm hơn nữa, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nhược điểm: Thứ nhất, nhược điểm lớn nhất của phương thức này đó là vấn đề kiểm soát chất lượng. Một trong những điều khoản của hợp đồng nhượng quyền đó là thương hiệu của doanh nghiệp mang thông điệp về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đến người tiêu dùng. Nếu bên nhận quyền không chú trọng đến chất lượng sản phẩm mà khoảng cách địa lý lại hạn chế bên nhượng quyền kiểm soát một cách chặt chẽ thì sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhượng quyền. Số lượng bên nhận quyền càng lớn thì sự kiểm soát chất lượng sản phẩm sẽ càng trở nên khó khăn hơn, hạn chế hơn và kết quả là có thể khiến cho danh tiếng về chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng mạnh hơn. Thứ hai, phương thức này còn có thể hạn chế khả năng phân phối lợi nhuận từ một nước sang các nước khác để cạnh tranh với đối thủ ở các nước khác. Liên doanh Phương thức này đòi hỏi phải thành lập một doanh nghiệp đồng sở hữu bởi hai hoặc nhiều hơn nữa các doanh nghiệp độc lập với nhau. Đây là phương thức được các doanh nghiệp dùng khá nhiều để thâm nhập thị trường nước ngoài. Hình thức liên doanh điển hình nhất là hai doanh nghiệp liên doanh với tỷ lệ góp vốn là 50/50 . Nếu doanh nghiệp muốn tăng cường kiểm soát hơn nữa thì có thể liên doanh với hình thức nắm đa số vốn. Thông thường thì doanh nghiệp tham gia liên doanh sẽ cung cấp công nghệ, nhãn mác sản phẩm, uy tín của mình. Đối tác địa phương cung cấp hệ thống phân phối, kinh nghiệm và sự hiểu biết về thị trường nội địa. 16 Ưu điểm: Phương thức này có một số ưu điểm sau đây. Thứ nhất là các doanh nghiệp sẽ tận dụng được kiến thức của đối tác địa phương về điều kiện cạnh tranh, văn hóa, ngôn ngữ, nền kinh tế và chính trị của nước đó. Thứ hai đó là doanh nghiệp sử dụng hình thức này được chia sẻ những chi phí và rủi ro để thâm nhập vào thị trường nước ngoài , tạo ra một cộng đồng trách nhiệm trong quá trình điều hành hoạt động của công ty với đối tác ở nước sở tại. Thứ ba của phương thức đó là khi tham gia vào liên doanh, công ty sẽ dần dần học hỏi được kinh nghiệm, nắm bắt được nhu cầu thị trường, phát hiện ra các đối thủ cạnh tranh, thiết lập quan hệ trực tiếp với khách hàng ở thị trường nước ngoài, tạo tiền đề cho việc thành lập chi nhánh sở hữu toàn bộ của mình tại nước ngoài. Một ưu điểm khác của phương thức này là ở một số nước thì liên doanh được xem là phương thức duy nhất để thâm nhập vào thị trường nước đó. Nhược điểm Bên cạnh những ưu điểm thì các phương thức này cũng tồn tại một số nhược điểm. Thứ nhất, tiến hành liên doanh đồng nghĩa với việc phải chia sẻ lợi nhuận với đối tác nước ngoài. Thứ hai, những khác biệt trong văn hóa kinh doanh và quản lý giữa các doanh nghiệp thành viên sẽ dẫn đến bất đồng như khó đi tới sự đồng thuận để tạo thành một chiến lược kinh doanh chung cho toàn công ty, mục tiêu kinh doanh của các bên có thể trái ngược nhau, từ đó gây ra những rắc rối trong phối hợp và kiểm soát hoạt động của liên doanh. Nhược điểm này thường xảy ra trong những trường hợp liên doanh 50/50 vốn nên để khắc phục được doanh nghiệp nên nắm phần vốn lớn hơn để giành quyền giải soát. Thứ ba, khi tham gia liên doanh thì doanh nghiệp phải trao một phần kiểm soát về quản lý, tài sản, công nghệ… cho doanh nghiệp đối tác của mình. Khi kiến thức của doanh nghiệp đối tác tăng lên đủ để tự mình kinh doanh và họ không muốn phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài nữa mà muốn tự mình kinh doanh dẫn đến liên doanh sẽ dẫn tới đổ vỡ. Nguy cơ tương tự cũng hoàn toàn có thể xảy ra đối với doanh nghiệp trong nước đó là các doanh nghiệp nước ngoài muốn chấm dứt liên doanh để thành lập chi nhánh sở hữu toàn bộ cho chính mình. 17 2.1.5. Chi nhánh sở hữu toàn bộ Đây được xem là một phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua đầu tư, trong đó doanh nghiệp thiết lập một chi nhánh ở nước sở tại do công ty sở hữu 100% vốn, có tư cách pháp nhân đầy đủ, được quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách độc lập và nắm quyền kiểm soát hoàn toàn đối với mọi hoạt động của chi nhánh. Chi nhánh sở hữu toàn bộ có thể được thiết lập bằng nhiều cách tùy vào năng lực, chiến lược kinh doanh và điều kiện thị trường cụ thể. Chẳng hạn nếu công ty mẹ muốn có một chi nhánh sản xuất ra các sản phẩm công nghệ cao, hiện đại thì họ thường phải xây dựng các cơ sở hoàn toàn mới bởi vì các hoạt động có liên quan đến trình độ công nghệ đòi hỏi sự bí mật. Thứ nhất, công ty có thể xây dựng mới hoàn toàn từ nhà xưởng đến các thiết bị, thành lập một doanh nghiệp mới hoàn toàn theo hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khó khăn lớn nhất của việc thiết lập mới hoàn toàn một chi nhánh đó là vấn đề xây dựng, thuê và đào tạo nhân công. Điều này khiến cho thời gian doanh nghiệp sẽ mất nhiều thời gian hơn để thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Thứ hai, doanh nghiệp có thể mua lại một công ty trên thị trường nước sở tại, tiếp quản cơ sở và hoạt động sẵn có của nó hoặc mua nốt phần vốn góp còn lại của những đối tác khác trong liên doanh để chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Mua lại công ty nước ngoài có một số lợi thế như cho phép công ty thâm nhập nhanh, sử dụng những kênh phân phối hiện tại và có thể sử dụng tên nhãn mác đã được thiết lập cùng với uy tín của công ty cũ. Trong một số trường hợp thì hệ thống quản lý hiện tại vẫn hoạt động hiệu quả thì doanh nghiệp có thể tận dụng để thể thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Phương thức mua lại rất thích hợp cho những ngành công nghiệp có tính cạnh tranh cao và những ngành có ít cơ hội thâm nhập hoặc rào cản gia nhập lớn. Ưu điểm Thứ nhất, phương thức thâm nhập thị trường quốc tế bằng chi nhánh sở hữu toàn bộ giúp các nhà quản lý có thể kiểm soát hoàn toàn đối với hoạt động, công 18 nghệ và lợi thế của công ty, giảm thiểu khả năng tiếp cận của đối thủ cạnh tranh đối với các lợi thế cạnh tranh của mình. Doanh nghiệp được toàn quyền quyết định các hoạt động của mình, không có sự tham gia của đối tác khác. Thứ hai, sử dụng phương thức này thì doanh nghiệp có thể thu về toàn bộ lợi nhuận mà không phải san sẻ với một đối tác khác như các phương thức liên doanh. Thứ ba, việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động ở các thị trường khác nhau còn giúp cho công ty nâng cao khả năng phối hợp toàn cầu, thực hiện lợi thế quy mô, lợi thế vị trí và hỗ trợ cạnh tranh giữa các thị trường. Phương thức này đặc biệt có lợi đối với các công ty theo đuổi chiến lược toàn cầu. ( đọc lại lý thuyết về chiến lược toàn cầu của công ty) Nhược điểm: Thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua phương thức thành lập chi nhánh sở hữu toàn bộ là phương thức mất nhiều chi phí nhất và phải đối mặt với rủi ro cao nhất do doanh nghiệp phải chịu toàn bộ chi phí và rủi ro vì không được chia sẻ với doanh nghiệp nào khác cả. Đây là phương thức mà các công ty, tập đoàn có khả năng và tiềm lực tài chính mạnh mới có thể sử dụng được và không được xem là một phương thức tốt đối với các công ty vừa và nhỏ. Để giảm bớt rủi ro khi áp dụng phương thức này thì doanh nghiệp nên tiến hành tìm hiểu, điều tra, phân tích kỹ thị trường mục tiêu trước khi ra quyết định. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xác định phương thức thâm nhập thị trường Việc lựa chọn các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế có tầm ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động sau này của công ty.Để lựa chọn được phương thức phù hợp với thị trường mục tiêu và với tình hình của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp cần phải xem xét, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường đó. Nghiên cứu vấn đề này đã có khá nhiều học giả đưa ra nhiều học thuyết khác nhau như : 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan