I. Giới thiệu về doanh nghiệp và sản phẩm
1. Giới thiệu vắn tắt về doanh nghiệp và lĩnh vực hoạt động
Wal-Mart Stores, Inc. (NYSE: WMT)- hệ thống bán lẻ lớn nhất thế
giới, là một công ty công cổ phần công khai Mỹ, hiện là một trong
những công ty lớn nhất thế giới (theo doanh số) theo công bố của
Fortune 500 năm 2007. Nó được thành lập bởi Sam Walton năm 1962,
công ty được thành lập ngày 31 tháng 10 năm 1969, và niêm yết trên
Sở Giao dịch Chứng khoán New York năm 1972. Đây là đơn vị tư
nhân thuê nhân công lớn nhất thế giới và là đơn vị sử dụng nhân công
công cộng và thương mại lớn thứ 4 thế giới, chỉ xếp sau Quân Giải
phóng Nhân dân của Trung Quốc, Cục Y tế Quốc gia của Vương quốc
Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và ngành Đường sắt Ấn Độ. Wal-Mart
là nhà bán lẻ tạp hóa lớn nhất Hoa Kỳ, với khoảng 20% doanh thu
hàng tiêu dùng và tạp phẩm, Wal-Mart cũng là công ty bán đồ chơi
lớn nhất Hoa Kỳ với khoảng 45% doanh số tiêu thụ đồ chơi.
Wal-Mart họat động ở Mexico với tên Walmex, ở Vương quốc Liên
hiệp Anh và Bắc Ireland với tên ASDA, và ở Nhật Bản với tên The
Seiyu Co., Ltd.. Các công ty con thuộc sở hữu toàn phần của nó nằm ở
Argentina, Brazil, Canada, Puerto Rico, và Anh quốc. Việc đầu tư của
Wal-Mart bên ngoài Bắc Mỹ đã thu được kết quả hỗn hợp. Năm 2006,
Wal-Mart đã bán lại các đơn vị bán lẻ ở Hàn Quốc và Đức do lỗ triền
miên và do một thị trường cạnh tranh cao.
Wal-Mart hiện có hơn 4.000 cửa hàng tại Mỹ và hơn 3.000 cửa hàng
tại 13 quốc gia. Wal-Mart, tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới của Mỹ,
cho biết họ đang cân nhắc việc đặt chân vào khu vực Đông Nam Á.
Các thị trường tiềm năng ở Đông Nam Á mà Wal-Mart có ý định thâm
nhập gồm Việt Nam, Indonesia và Thái Lan.
Mục tiêu của Wal-Mart là tăng doanh thu 10% trên thị trường thế
giới, dự kiến đạt tới 100 tỷ USD trong năm 2008, bất chấp sự sụt giảm
tốc độ phát triển của nền kinh tế toàn cầu.
* Các sản phẩm cung cấp chủ yếu của Walmart, hình thức kinh
doanh:
Các sản phẩm cung cấp chủ yếu của Walmart: đồ dùng gia dụng,
điện tử, quần áo, trang sức, đồ chơi trẻ em, tạp hóa,…
Hình thức kinh doanh: dựa vào khả năng mua khổng lồ và sự phát
triển nhanh chóng những cửa hàng của thương hiệu. Có thể nói một
cách đơn giản là Wal-Mart có thể mua rẻ, và có được những sản phẩm
từ các nhà sản xuất trên kệ của mình với giá rẻ, cho nên có thể bán ra
với giá rẻ hơn bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào. Và bởi vì Wal-Mart là
một nhà phân phối khổng lồ, đến nỗi các thương hiệu sản phẩm không
thể để mình bị loại bỏ khỏi các kệ hàng nhà bán lẻ.
2. Nêu thị trường dự định đưa sản phẩm thâm nhập và lý do ban
đầu chọn thị trường đó:
Thị trường dự định : Việt Nam.
Lý do ban đầu chọn thị trường:
Việt Nam là một thị trường bán lẻ đầy tiềm năng. Thể hiện qua việc
Việt Nam ngày càng trở thành một địa điểm kinh doanh hấp dẫn tại
châu Á với tốc độ tăng trưởng bền vững và nhu cầu tiêu dùng khá ổn
định trong một thời gian dài, và quan trọng nhất là Chính phủ luôn có
các chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài kịp thời. Thị
trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô còn nhỏ song vẫn rất hấp dẫn đối
với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài do áp lực
cạnh tranh chưa lớn, trong khi đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục
cao, chính trị ổn định. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam thuộc
hàng trẻ nhất châu Á và có mức chi tiêu ngày càng tăng, tăng 75% từ
2000-2007.
Việt Nam liên tục được xếp hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh
bán lẻ GRDI. Theo A.T.Kearney (Hãng tư vấn Mỹ), năm 2007, Việt
Nam là nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn thứ 4 thế giới ( chỉ sau Ấn
Độ, Nga và Trung Quốc). Năm 2008, Việt Nam đã vươn lên đứng đầu.
II. Giới thiệu thông tin thị trường:
1. Yếu tố môi trường chung: (phân tích theo mô hình Pest)
a) Các yếu tố thể chế luật pháp
- Sự bình ổn: chính trị ổn định Việt Nam được xem là quốc gia có
thể chế ổn định, ít gây ra các xung đột chính trị, hoạt động ngoại giao
phát triển mạnh, theo xu hướng tích cực.
- Các đạo luật liên quan:
Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh
nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự
lớn mạnh của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa
vụ của các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương- Lê Danh Vĩnh, từ 1/2009, Việt
Nam mở cửa hoàn toàn thị trường phân phối từ. Thị trường bán lẻ
không chỉ là sân chơi chung cho các doanh nghiệp trong và ngoài
nước, mà còn trở thành một dthị trường hấp dẫn cho các tập đoàn đa
quốc gia.
- Chính sách của Nhà Nước:
Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Những nỗ lực đáng kể
của Việt Nam là giảm được 2 ngày trong quá trình hoạt động xuất
nhập khẩu, cắt giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 28%
xuống còn 25%, áp dụng một luật thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế
giá trị gia tăng mới, áp dụng các thủ tục hải quan mới…
Theo cam kết, lộ trình mở cửa ở thị trường dịch vụ phân phối như
sau:
Về hình thức đầu tư: ngay khi Việt Nam gia nhập doanh nghiệp hoạt
động theo hình thức liên doanh, trong đó nhà đầu tư chiếm không quá
49% vốn điều lệ; từ 01/01/2008 không hạn chế tỷ lệ góp vốn của nhà
ĐTNN (nhưng phải lập công ty dưới hình thức góp vốn liên doanh); từ
01/01/2009 được thành lập doanh nghiệp theo hình thức tổ chức kinh
tế 100% vốn của nhà ĐTNN.
Về lập cơ sở bán lẻ: theo quy định tại Phụ lục số 01 Quyết định số
10/2007/QĐ-BTM: "Quyền phân phối của nhà ĐTNN gắn với quyền
được lập cơ sở bán lẻ thứ nhất". Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là
khi nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp phép thực hiện quyền phân
phối sẽ đương nhiên được mở cơ sở bán lẻ ở bất cứ đâu trên địa bàn
địa phương.
Khi lập cơ sở bán lẻ thứ hai được xem xét dựa trên cơ sở kiểm tra
nhu cầu kinh tế - ENT (số lượng các cơ sở bán lẻ cùng mô hình hoạt
động, cùng chủng loại mặt hàng trong phạm vi địa phương; sự ổn định
của thị trường địa phương; mật độ dân cư trên địa bàn dự kiến đặt cơ
sở bán lẻ; sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch của tỉnh, thành
phố).
b) Các yếu tố kinh tế:
Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính
cạnh tranh và năng động,chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn.
- Tình trạng nền kinh tế:
+ Từ năm 2000-2006, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của Việt Nam đạt khoảng 7%, trở thành nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng nhanh thứ hai trên thế giới. Theo các chuyên gia của Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), kinh tế Việt Nam đang biểu lộ sức mạnh trong
các lãnh vực như xây dựng và tiêu thụ nội địa và dự kiến sẽ là một
trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất Á châu trong
năm nay 2009
+ GDP trung bình của người dân Việt Nam đạt 1.024 USD/người
- Triển vọng nền kinh tế: Thu nhập trung bình của người dân ngày
càng tăng, trong đó nhóm người có thu nhập từ 500 - 1.000
USD/tháng tăng nhanh nhanh nhất; tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập của
người dân cũng thuộc loại cao nhất ở Đông Nam Á (khoảng 70% thu
nhập hàng tháng).
c) Các yếu tố văn hóa xã hội
*Yếu tố xã hội:
+ Tuổi thọ trung bình: tăng, khoảng 72 tuổi, tăng 7 tuổi so với năm
1998
+ Tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, ăn uống : ngày càng cải
thiện
+ Thu nhập trung bình, phân phối thu nhập: 6.070.000 đồng, tương
đương 405 USD.
+ Lối sống, học thức,các quan điểm về thẩm mỹ, tâm lý sống
+ Điều kiện sống
*Yếu tố văn hóa:
Văn hóa Việt Nam là một pha trộn đặc biệt giữa nhiều những văn hóa
cổ xưa cùng với văn hóa bản xứ của người Việt, ngoài ảnh hưởng lớn
nhất của Trung Hoa, văn hóa của người Việt còn chịu sự ảnh hưởng
của văn hóa phương tây và có các văn hóa riêng biệt của một bộ phận
dân tộc thiểu số tại Việt Nam.
* Tâm lí tiêu dùng của người Việt:
Từ xa xưa, tâm lý tiêu dùng của người Việt chủ yếu là trọng sự bền
chắc trong giá trị sử dụng, lấy các yếu tố thực chất làm nên cái cốt lõi
bên trong hơn là sự hào nhoáng của hình thức bên ngoài.
Do trình độ phát triển công nghệ của các nước phát triển sớm hơn, từ
thế kỷ 20 trở đi, tâm lý hàng hóa của người Việt cũng thay đổi, đó là
tâm lý sính hàng ngoại, thậm chí có lúc là mê tín hàng ngoại đến mức
gần như độc tôn.
Khảo sát cho thấy, người tiêu dùng trong nước cũng rất quan tâm đến
hàng Việt Nam. Tuy nhiên, trong lúc miệt mài sản xuất để bán hàng
ra nước ngoài với giá rẻ, thì doanh nghiệp Việt Nam để lại khoảng
trống lớn ở thị trường trong nước. Nhập siêu trong 8 tháng đầu năm
hiện lên trên 5 tỷ USD. Tâm lý ưa chuộng hàng ngoại nhập khá phổ
biến, nhất là những người có thu nhập trung bình trở lên.
Một điều có thể cảm nhận là dường như người tiêu dùng Việt Nam
có một sức chống đỡ khá yếu ớt trước những tấn công bằng chính sách
giá và khuyến mại của các doanh nghiệp. Sự trung thành với nhãn hiệu
của họ có vẻ không bền. Điều này có thể có nhiều lý giải:
Họ nhận thức về vai trò của nhãn hiệu không đầy đủ: với một số, đó
chỉ là một cái tên hoặc một yếu tố trang trí bên ngoài sản phẩm, không
nói lên hay hứa hẹn gì nhiều.
Với một thị trưởng có thể coi là rất trẻ (50% dưới 25 tuổi), các nhãn
hiệu mới, lạ có sức hấp dẫn lớn, kích thích trí tò mò, tâm lý thử cho
biết. Dường như thị trưởng người tiêu dùng Việt Nam, sau bao nhiêu
năm sống trong thiếu thốn vẫn chưa qua cơn khát được khám phát lựa
chọn dùng thử.
*Thái độ đối với nhãn hiệu “ngoại”:
Phân tích thái độ và hành vi của khách hàng trước những nhãn hiệu
mà họ cảm nhận là ngoại, nhận thấy có hai xu hướng: Thứ nhất, người
tiêu dùng có xu hướng gán một hình ảnh sang trọng, uy tín cho các sản
phẩm được cho là có nhãn hiệu ngoại. Họ thường tin rằng hàng có
nhãn hiệu ngoại chất lượng tốt hơn, sang hơn, do đó dùng sản phẩm
nhãn hiệu ngoại thể thể hiện sự sang trọng, sành điệu. Thứ hai, nếu
khả năng cho phép, họ thích lựa chọn các nhãn hiệu ngoại, nhất là
trong các tình huống chi tiêu trước đám đông.
d) Yếu tố công nghệ:
+ Đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp vào công tác R&D:
Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu vừa được Diễn đàn
Kinh tế thế giới (WEF) công bố, chỉ số chi tiêu của chính phủ cho các
sản phẩm công nghệ hiện đại của Việt Nam đạt 4,5 điểm, xếp hạng 11,
trên cả Trung Quốc, Hàn Quốc và Anh.
+ Tốc độ, chu kỳ của công nghệ, tỷ lệ công nghệ:
Việt Nam dù xuất phát chậm xong tiến rất nhanh và đang vượt nhiều
nước trong khu vực. Năm 2002, Việt Nam đứng thứ 74/75 nước về
trình độ CNTT, tuy nhiên, chỉ trong vòng 1 năm, trình độ CNTT của
ta vươn lên hàng 68/102 quốc gia.
+ Ảnh hưởng của công nghệ thông tin, internet đến hoạt động kinh
doanh.
Tuy nhiên, khả năng ứng dụng công nghệ vẫn còn hạn chế (2/3 doanh
nghiệp bán lẻ chưa sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý),
thương mại điện tử, kỹ năng bán lẻ và xây dựng thương hiệu gần như
vẫn đang ở giai đoạn sơ khai, trong khi nhiều nước ở khu vực đã phát
triển rất mạnh.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên, hiện nay khi nghiên cứu thị trường, các
doanh nghiệp phải đưa yếu tố toàn cầu hóa trở thành một yếu tố vĩ mô
tác động đến ngành.
e) Yếu tố hội nhập
2. Yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể:
- Mức độ phù hợp sản phẩm:
- Quy mô tiềm năng thị trường: Theo báo cáo mới nhất của Công ty
nghiên cứu thị trường Nielsen, Việt Nam đứng thứ 9 về chỉ số tự tin
của người tiêu dùng toàn cầu và là một trong những thị trường bán lẻ
đầy hứa hẹn.
Về tổng quát: Thời gian gần đây, tốc độ phát triển nhanh của thi
trường bán lẻ trong nước đã rất hấp dẫn các tập đoàn phân phối đa
quốc gia. Theo thống kê của Hiệp hội bán lẻ Việt Nam, tổng mức bán
lẻ của toàn xã hội giai đoạn 1995-2002 tăng trưởng 8 - 10%/năm. Đặc
biệt, từ năm 2003-2007, con số này tăng lên 18-22%/năm. Riêng năm
2007, tổng mức bán lẻ đạt 740.000 tỷ đồng, tăng trên 23% so với năm
ngoái. Năm 2008, vượt qua Ấn Độ, Việt Nam trở thành thị trường đầu
tư bán lẻ hấp dẫn nhất trong số 30 nước đang nổi lên.
Về mạng lưới bán lẻ: Hiện Việt Nam có khoảng 140 siêu thị và đại
siêu thị, 20 trung tâm thương mại và gần 1 triệu m2 mặt bằng kinh
doanh bán lẻ đang được đầu tư phát triển
Tổng Thư ký Hiệp hội Bán lẻ Việt Nam phân tích, kênh bán lẻ hiện
đại mới chiếm từ 18-20% trong tổng cơ cấu của thị trường bán lẻ Việt
Nam. So với mức 33% tại Philippines, 51% tại Trung Quốc và 90% tại
Singapore thì thị trường Việt Nam vẫn còn rất nhiều khoảng trống và
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Về sức mua:Tần suất đi mua sắm tại các cửa hàng, siêu thị cũng ngày
càng tăng: Nếu năm 2007, có 11% khách hàng được hỏi cho biết coi
siêu thị là kênh mua sắm chủ yếu thì năm 2008, con số này là 21%.
Nếu năm 2005-2007, tần suất đi mua sắm tại siêu thị trung bình của
người dân là 2 lần/tháng, thì năm 2008, con số này là 3 lần/tháng.
- Mức độ cạnh tranh:
+ Khả nảng thương lượng của nhà cung cấp:
Nhờ có khả năng mua khổng lồ và sự phát triển nhanh chóng những
cửa hàng của thương hiệu mình, Wal-Mart có thể mua rẻ, khống chế
các nhà sản xuất, cung ứng. Và bởi vì Wal-Mart là một nhà phân phối
khổng lồ, đến nỗi các thương hiệu sản phẩm không thể để mình bị loại
bỏ khỏi các kệ hàng nhà bán lẻ. Kết quả là, một nhà sản xuất của một
thương hiệu nổi tiếng có thể phải chịu sự nhượng bộ về giá cả cho dù
ảnh hưởng đến lợi nhuận chỉ để được có mặt trong chuỗi cửa hàng
Wal-Mart.
Hiểu một cách đơn giản, Wal-Mart có thể mua hàng giá rẻ, đủ sức đặt
sản xuất hàng cho riêng mình với giá rẻ và bán hàng thấp hơn mọi đối
thủ. Và cũng vì đó là kênh phân phối khổng lồ, ngay cả những hãng
sản xuất nổi tiếng cũng đành chịu bán hàng cho Wal-Mart với giá rẻ,
lời ít hơn để hàng của họ được nằm trên kệ Wal-Mart dù như thế cũng
chưa chắc tốt. Nói tóm lại, khả năng thương lượng của Walmart với
các nhà cung ứng, sản xuất để có được mức giá cả thấp nhất là rất cao!
+ Khả nảng thương lượng của KH:
Nhờ có được những sản phẩm từ các nhà sản xuất trên kệ của mình
với giá rẻ, cho nên sản phẩm Walmart có thể đến với tay người tiêu
dùng với giá rẻ hơn bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào. Đó chính là lợi thế
để Walmart giữ chân khách hàng trước các đối thủ cạnh tranh khác.
+ Các đối thủ cạnh tranh hiện tại:
Về phía các doanh nghiệp nước ngoài, hiện nay, “miếng bánh” thị
phần bán lẻ Việt Nam đang được các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới
chiếm ưu thế như BigC( Pháp) với 10 siêu thị ở Việt Nam, Parkson
(Malaysia) với10 trung tâm thương mại, Lotte (Hàn Quốc),…Cụ thể
hơn, hiện ở Việt Nam có 15 tập đoàn phân phối lớn có mặt từ 10 năm
trước dưới các mô hình khác nhau tại các thành phố, trung tâm kinh tế
lớn, và họ đã kinh doanh thành đạt như Tesco (Anh), Metro Cash
(Đức, có 8 trung tâm phân phối trên cả nước) và nhiều tập đoàn bán lẻ
hàng đầu châu Á như Plaza (Nhật Bản), Dary Farm (Hồng Kông),
Diamond Plaza (Hàn Quốc), Parkson (Malaysia), South Asia
Ivestment (Singapore)...
Về phía các doanh nghiệp trong nước có Co.opMart (Sai Gon
Co.op)với 28 siêu thị bao gồm 16 Co.opMart ở thành phố Hồ Chí
Minh và 12 Co.opMart tại các tỉnh lân cận, hình thành chuỗi siêu thị
mang thương hiệu Co.opMart. Công ty Cà phê Trung Nguyên đã mở
gần 100 cửa hàng G7 Mart thành chuỗi các cửa hàng trong hệ thống
phân phối của mình. Tập đoàn Phú Thái – Hà Nội tập hợp được 6
thành viên, với 13 trung tâm phân phối và 8 trung tâm kho vận và
đang phân phối 3.000 sản phẩm trên phạm vi cả nước. Công ty Sữa
Việt Nam (Vinamilk) mở 2.000 đại lý tiêu thụ trong cả nước, doanh
thu bán lẻ tăng từ 15% đến 30%, với 200 mặt hàng từ sữa và còn vươn
ra xuất khẩu. Ngoài ra còn phải kể đếnTrung tâm Mua sắm Sài Gòn Nguyễn Kim là trung tâm đầu tiên chuyên phân phối sỉ và lẻ các sản
phẩm điện máy, điện lạnh, điện gia dụng, kỹ thuật số và điện thoại di
động ở thành phố Hồ Chí Minh và được nhìn nhận là trung tâm điện
máy đầu tiên được thành lập, với qui mô lớn và tính chuyên nghiệp
cao.
Và hiện nay, trước thị trường bán lẻ đầy tiềm năng củaViệt Nam, các
doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đang ra sức mở rộng
qui mô hoạt động. Tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Hàn Quốc là Lotte
Mart thông báo sẽ đầu tư 5 tỉ USD để xây dựng 30 siêu thị (thay cho
15 siêu thị như kế hoạch ban đầu) ở các thành phố lớn của Việt Nam
trong 10 năm tới; riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, sẽ có 15 siêu thị
bán lẻ và bán buôn. Đối với các doanh nghiệp trong nước, động thái
này cũng đã tác động thúc đẩy một số doanh nhân trong nước vươn
lên, chủ động tạo ra mặt hàng mới, chất lượng cao, đổi mới phương
thức phục vụ, giữ vững thị phần. Chẳng hạn, Saigon Coop đang tập
trung đầu tư để mở rộng hệ thống siêu thị ra các tỉnh. Để nâng trình độ
quản lý, Saigon Coop vừa đầu tư 1,5 triệu USD cho hệ thống quản lý
bằng công nghệ thông tin. Ông Đào Ngọc Tâm, Phó phòng kinh doanh
Tổng công ty thương mại Sài Gòn (Satra) cho biết công ty dành đến
1.200 tỉ đồng để đầu tư cho hệ thống phân phối với phương châm "lấy
bán buôn chi phối bán lẻ", đồng thời liên kết với các tỉnh để mở rộng
hệ thống một cách vững chắc…
+ Các đối thủ tiềm năng:
Việt Nam là thị trường bán lẻ đầy tiềm năng và ngày càng thu hút các
doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư.
+ Các sản phẩm- dịch vụ thay thế: hệ thống các cửa hàng tạp hóa
nhỏ lẻ trên cả nước thói quen tiêu dùng khó thay đổi của người Việt
Nam
III. Phân tích SWOT :
Từ việc tìm hiểu thị trường đến xâm nhập thị trường là một quá trính
phức tạp đòi hỏi có sự hiểu rõ và nghiên cứu nghiêm túc. Để có được
một chiến lược tổng thể phù hợp chúng ta sẽ tiến hành phân tích
SWOT.
1.Strengths :
a) Quy mô :
Walmart hiện là công ty lớn nhất thế giới với doanh thu 1 tỉ USD một
ngày, 42 triệu USD một giờ, từng giờ của từng ngày trong năm.
Walmart thực chất không chỉ là công ty lớn nhất thế giới - nó là công
ty lớn nhất trong lịch sử thế giới.
Quy mô lớn về vốn , nguồn lực là một trong những lợi thế hàng đầu
của Walmart khi xâm nhập vào thị trường mới. Lợi ích của việc được
bán hàng tại Walmart là gì? Chỉ cần bán được hàng một lần cho
Walmart, một công ty Việt Nam có thể tiếp cận được toàn bộ thị
trường Mỹ.
b) Thương hiệu danh tiếng :
Đây là điều không phải bàn cãi. Người ta vẫn dành những như “người
khổng lồ” hay “đế chế giá rẻ” cho Walmart để nói đến quyền lực và
danh tiếng của nó. Walmart trở nên quen thuộc đến nỗi câu trả lời chắc
chắn cho câu hỏi “Mua hàng rẻ ở đâu?” sẽ là “Walmart chứ ở đâu
nữa”.
Thương hiệu danh tiếng lâu năm sẽ là thuận lợi trong việc giới thiệu
và thu hút sự chú ý của người tiêu dùng.
c) Mô hình kinh doanh rõ ràng :
- Giá rẻ ( Every day low prices ): Đây có thể gọi là tôn chỉ của
Walmart.Walmart đã đem đến cách nhìn mới về giá rẻ.Giá rẻ nhưng
chất lượng không hề tồi.Tại sao giá của Walamrt lại rẻ như vậy? Có 2
lý do chính đó là chi phí được cắt giảm tối đa và thương thuyết được
giá có lợi từ phía nhà cung ứng.
- Phục vụ chu đáo : Quá trình thành danh của Walmart trước sau gắn
liền hai chữ “Nhã nhặn”. Dưới sự quản lý của đích thân Giám đốc điều
hành Walton , bất cứ một khách hàng nào của Walmart đều được nhân
viên tiếp tân, nhân viên bán hàng, nhân viên thu ngân chủ động chào
đón và phục vụ với thái độ tươi cười, nhiệt tình, lễ phép. Mọi người
vào cửa hàng đều có cảm giác ấm áp như ở nhà. Đó cũng là lý do cho
việc đồng phục của nhân viên Walmart đều in dòng chứ khiến khách
hàng luôn cảm thấy yên tâm là “How may I help you?”. Ngoài ra tất
cả cửa hàng Walmart ở Mỹ và Canada đều có “greeter”- người đón
chào khách hàng ở cửa ra vào. Những nhân viên Walmart tại cửa ra
vào luôn nói lời cảm ơn các khách hàng đã ghé thăm, giúp đỡ họ lấy
giỏ hàng và cuối cùng là câu nói “tạm biệt, xin cảm ơn quý khách” khi
mọi người rời cửa hàng
- Coi trọng nhân viên : Tất cả các siêu thị của Walmart luôn quy định
thứ bảy hàng tuần tổ chức lễ phát thưởng và mỗi lần các giám đốc siêu
thị đều đích thân phát thưởng cho những nhân viên làm việc xuất sắc
được bình chọn bởi chính các nhân viên trong siêu thị. Trong dịp này,
giám đốc mỗi siêu thị luôn tỏ lòng cảm ơn sự hợp tác và cố gắng của
mọi người. Bên cạnh đó , Walmart coi nhân viên là một trong những
nhân tố chính cho sự phát triển của công ty nên họ rất chú trọng đến
việc huấn luyện kỹ năng cho nhân viên.Walmart được tạp chí Training
bình chọn “Top 100 công ty huấn luyện nhân viên tốt nhất” trong hai
năm liền.
Để đông đảo nhân viên yên tâm làm việc lâu dài, Walmart cho các
nhân viên trở thành cổ đông. Do các siêu thị kinh doanh phát đạt, tỷ lệ
lợi tức đầu tư của cổ đông rất cao, trong thời gian từ năm 1977 đến
năm 1978, tỷ lệ lợi tức bình quân hàng năm lên tới 50%, nhân viên
chính thức là cổ đông, mỗi năm cũng được lợi tức bằng 6,4% tổng tiền
lương.
Tại Việt Nam khi mà thị trường bán lẻ vẫn chưa được khai thác hết và
thái độ phục vụ yếu kém của nhân viên là chuyện thường xuyên xảy ra
thì mô hình kinh doanh của Walmart được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều
thành công….
d) Tốc độ bành trướng nhanh chóng :
Đầu thập niên 1990, Walmart bắt đầu thử nghiệm bán hàng tạp hoá
– thực phẩm bên cạnh các loại hàng hoá phổ thông theo một hình thức
mà Walmart gọi là “đại siêu thị” (supercenter). Đến cuối năm 1990
Walmart chỉ có 9 siêu thị. Mười năm sau, đến cuối năm 2000,
Walmart có 888 siêu thị – trung bình mỗi tháng Walmart khai trương
7 siêu thị mới, liên tục 120 tháng liền. Walmart hiện thời có khoảng
4.000 siêu thị và cửa hàng trong nước Mỹ (bao gồm 10 ở Alaska và 9
ở Hawaii); tức là cứ mỗi hạt trên đất nước này lại có nhiều hơn 1 cửa
hàng Walmart. Hàng tuần, hơn 100 triệu người Mỹ mua sắm ở
Walmart – chiếm1/3 dân số. Mỗi năm 93% hộ gia đình Mỹ mua sắm ở
Walmart ít nhất một lần. Và không chỉ nước Mỹ, Walmart là nhà bán
lẻ lớn nhất ở cả Mexico lẫn Canada, và nhà bán tạp phẩm lớn thứ nhì ở
Anh. Khắp thế giới, nhiều người mua sắm ở Walmart đến mức năm
nay sẽ có 7,2 tỉ người ghé vào một cửa hàng Walmart nào đó.
e) Tầm ảnh hưởng lớn :
Trong một ngày điển hình của thời sự báo chí thôi, cái tên Walmart
được nhấn mạnh trong hơn 100 tin bài trên khắp nước Mỹ. Mỗi tháng,
nội bản thông báo doanh số của Walmart cũng đủ thành đề tài tường
thuật liên tục suốt 24 giờ liền. Còn nhiều hơn nữa nếu như Walmart
làm ăn trồi sụt, bởi vì hiệu quả kinh doanh của Walmart được xem là
một chỉ số trọng yếu của các xu thế kinh tế Mỹ nói chung. Hiếm có
ngày nào mà tờ Wall Street Journal lại không có một tin bài gì đó nhắc
đến Walmart; phần lớn mọi ngày cái tên công ty này luôn được nêu ra
nhiều lần.
Walmart có thể mua rẻ, và có được những sản phẩm từ các nhà sản
xuất trên kệ của mình với giá rẻ, cho nên có thể bán ra với giá rẻ hơn
bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào. Tầm ảnh hưởng lớn của Walmart sẽ
thuận lợi cho việc tìm các nhà cung ứng tốt, thích hợp với mức giá
hợp lý. Khả năng bành trướng kỷ lục của Walmart sẽ gia tăng nhanh
chóng ảnh hưởng của nó lên thị trường nhắm tới - ở đây là Việt Nam
và tăng khả năng cạnh tranh với đối thủ.
f) Kinh nghiệm thâm nhập thị trường :
Sau những lần “bành trướng” không ngừng nghỉ khắp châu Âu,
Brazil, Mexico, Nam Phi, Úc...ở châu Á là Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc và Ấn Độ, Walmart đã tích lũy được nhiều những kinh
nghiệm thâm nhập thị trường quý báu.
g) Ứng dụng công nghệ điện tử :
Walmart là một trong nhà tiên phong đưa ngành công nghiệp bán lẻ
đi vào điện tử hoá bằng cách áp dụng RFID (công nghệ nhận dạng
theo tần số radio), được thiết kế dựa trên các con chip có thể đọc từ xa
thông qua kết nối Internet không dây. Thông qua việc gắn một chip
loại nhỏ trong mỗi sản phẩm hoặc container chở hàng, RFID có thể
giúp khách hàng mua lẻ và nhà cung cấp theo dõi được sản phẩm,
container chở hàng cho dù chúng ở bất cứ nơi nào qua một thiết bị đọc
các tín hiệu. RFID giúp các nhà sản xuất và phân phối kiểm soát số
lượng hàng bày bán, tình trạng thất thoát cùng chi phí lưu kho.
Tất nhiên không thể không kể đến website : www.walmartstore.com
nơi khách hàng không chỉ có thể mua được hàng hóa mà còn có thể
khiếu nại hay tìm hiểu các thông tin về Walmart.
2. Weaknesses :
a) Bài học từ Nhật Bản và Hàn Quốc :
- Thiếu sự chú tâm vào yếu tố văn hóa và tâm lý của người tiêu
dùng :
Tại Hàn Quốc : Người Hàn Quốc thích mua thức ăn tươi sống
nhưng Walmart chỉ tập trung vào đồ hộp và thức ăn sẵn.
Tại Nhật Bản : Người Nhật thích mua sắm trong những cửa hàng
sạch sẽ , ngăn nắp , sáng sủa chứ không phải một nơi ảm đạm , quá
nhiều hàng hóa xếp chồng chất như nhà kho cũ kỹ ở Walmart.
- Mô hình quản lý :
Hầu hết các công ty Mỹ đang thành công tại Nhật Bản như
McDonald’s đều giao cho các lãnh đạo cấp cao lâu năm người Nhật
quản lý các chi nhánh, cho phép họ có “quyền tự trị” ở mức độ nhất
định. Nhưng Walmart làm điều ngược lại, giao quyền quản lý cho một
nhóm lãnh đạo người nước ngoài. Văn hóa phương Đông khác nhiều
văn hóa phương Tây và người nước ngoài sẽ ít am hiểu thị hiếu người
tiêu dùng của nước sở tại. Mà “các chi nhánh trên thế giới của
Walmart đều được quản lý theo kiểu tập trung, dưới sự chỉ huy của trụ
sở chính tại Mỹ”, chính kiểu quản lý này đã khiến Walmart xa rời
người tiêu dùng Nhật Bản.
Từ bài học của Hàn Quốc và Nhật Bản , khi tiến hành xâm nhập thị
trường Việt Nam, Walmart cần tiến hành nghiên cứu thông tin thị
trường kỹ càng , đặc biệt là yếu tố văn hóa. Về mô hình quản lý, có thể
tiến cử người Việt Nam nắm giữ chức vụ quản lý nhất là trong bộ
phận marketing để tiến hành tìm hiểu kỹ hơn thị trường Việt Nam.
b) “Hiệu ứng Walmart”
Khi Walmart bước vào một tỉnh thành, một địa hạt, hay toàn bộ một
ngành công nghiệp, tác động luôn đầy kịch tính. Và tác động ấy luôn
là một hỗn hợp giữa tốt và xấu: tốt cho người tiêu dùng và người mua
sắm, nhưng xấu cho những cửa hàng sẵn có. Tốt cho hiệu quả của các
nhà máy và sản xuất, nhưng nguy hiểm cho các hãng cung cấp nào đã
nhường quá nhiều quyền kiểm soát cho Walmart. Đó là “hiệu ứng
Walmart”.
Quy mô và quyền lực của Walmart cũng đồng nghĩa là một mình
Walmart thường cầm trịch cho cả nền kinh tế tiêu dùng, không chỉ ở
nước Mỹ mà khắp thế giới. Walmart định ra luật lệ- cho dù bạn ở
ngành may mặc, đồ chơi hay giày dép. Walmart ấn định giá cả và nhịp
độ làm việc. Điều này khiến thị trường nơi Walmart có ý định thâm
nhập - e ngại, dè dặt bởi vì họ nhận thức được rằng với sức mua khổng
lồ và sự bành trướng, Walmart là kẻ chuyên “giết chết” thương hiệu
khác.
c) Thiếu sự quan tâm đến khách hàng có thu nhập cao :
Walmart chỉ chú ý tới giá rẻ và bộ phận tiêu dùng thu nhập trung
bình , bỏ đi nguồn thu lớn từ người có thu nhập cao. Điển hình là việc
ít những sản phẩm cao cấp , không chú trọng tới hình ảnh bên ngoài cũ
kỹ, các siêu thị với ánh sáng ảm đạm , hàng hóa không được xếp gọn
gàng. Vì vậy ta cần xây dựng hình ảnh một Walmart thân thiện , sạch
sẽ , gọn gàng và bổ sung thêm những sản phẩm cao cấp.
d) Không có những sản phẩm tiêu biểu :
Vì có quá nhiều sản phẩm , quá nhiều mặt hàng dẫn đến Walmart
không thể chuyên tâm vào một vài sản phẩm nhất định dẫn đến sản
phẩm nhiều nhưng tính chuyên môn hóa không cao.
Ví dụ: Walmart không thực sự thành công trong việc bán quần áo thời
trang trong cửa hàng. Nó đã cố gắng sao lại thành công của đối thủ
Target, nơi có một hình ảnh thời trang cao cấp, hợp thời hơn.
e) Không có tổ chức công đoàn và sự lên án về tiền lương thấp :
Đối diện với những phê phán về không có tổ chức công đoàn và trả
lương thấp cho công nhân,khi xâm nhập vào thị trường Việt Nam
Walmart sẽ có những chính sách thích hợp.Ở một nước xã hội chủ
nghĩa như Việt Nam, Walmart phải có một tổ chức công đoàn với tư
cách bảo vệ quyền lợi cho người lao động.Đồng thời , Walmart cần
cam kết thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng lao
động trong vấn đề đảm bảo việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, điều
kiện lao động, thỏa ước lao động tập thể...theo luật Lao Động.
3) Opportunity :
- Việt Nam có một nền kinh tế sôi động, đang phát triển nhanh nhất
châu Á. Việt Nam có một dân số có học vấn, đầy nghị lực và trẻ trung
đang ngày càng quan tâm đến các sản phẩm tiêu dùng. Việt Nam có
một nền doanh nghiệp sản xuất đang lớn mạnh cần tìm nơi bán sản
phẩm ra thế giới
- Theo thống kê của Hiệp hội bán lẻ Việt Nam, tổng mức bán lẻ của
toàn xã hội giai đoạn 1995-2002 tăng trưởng 8 - 10%/năm. Đặc biệt,
từ năm 2003-2007, con số này tăng lên 18-22%/năm. Riêng năm 2007,
tổng mức bán lẻ đạt 740.000 tỷ đồng, tăng trên 23% so với năm
ngoái.Hiện Việt Nam có khoảng 140 siêu thị và đại siêu thị, 20 trung
tâm thương mại và gần 1 triệu m2 mặt bằng kinh doanh bán lẻ đang
được đầu tư phát triển.(Nguồn: TTX, 23/1)
- Thị trường bán lẻ Việt Nam đang có nhiều lợi thế, khi người tiêu
dùng tại đây thuộc hàng trẻ nhất ở châu Á với 79 triệu người, ở tuổi
dưới 65 và mức tiêu thụ đã tăng 75% trong giai đoạn từ năm 2000 2007. Trong năm 2007, người Việt Nam đã chi gần 45 tỷ USD cho
mua sắm và tiêu dùng. Trong khi đó 5 nhà bán lẻ hàng đầu ở Việt
Nam hiện chỉ có dưới 3% thị phần.
- Nhu cầu tiêu dùng Việt Nam ngày càng cao và đa dạng, người tiêu
dùng Việt Nam tiếp cận với cách bán hàng qua Internet, TV shopping,
qua di động ngày càng nhiều hơn; sản phẩm tung ra thị trường đảm
bảo vấn đề môi trường như bao bì an toàn, xanh, sạch và thân thiện,
nói không với túi nilong…Trong tương lai, thị trường bán lẻ của Việt
Nam sẽ sẵn sàng mở cửa cho hội nhập và cạnh tranh bình đẳng đa
dạng.
- Số lượng cửa hàng,siêu thị trong nước chưa nhiều : Từ 368 cửa hiệu
bán lẻ năm 2007, sang năm 2008, con số này tại Hà Nội và TP.HCM
đã lên đến 425, tăng trưởng 16%. Số cửa hiệu thuộc kênh phân phối
hiện đại này tính đến tháng 3/2009, chiếm khoảng 26% trong tổng cơ
cấu của thị trường bán lẻ tại hai thành phố lớn. Nếu mở rộng ra thị
trường bán lẻ toàn quốc, nó mới chỉ chiếm tỷ trọng từ 10-12%. “Nếu
so sánh số lượng 400 cửa hiệu tại Hà Nội và TP.HCM với khoảng 16
triệu người sinh sống tại hai thành phố, con số này còn quá thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu mua sắm của người dân”
- Ít đối thủ cạnh tranh mạnh vì hiện nay chỉ có : Big C,Coopmart ,
Metro,Fivimart…Còn lại hầu hết các nhà phân phối bán lẻ đều ở quy
mô nhỏ, yếu về năng lực, hạn chế về mặt hàng phục vụ, nguồn nhân
lực chưa được đào tạo cơ bản.
- Tiềm năng tiêu thụ của thị trường thì lớn như vậy, nhưng hệ thống
phân phối của Việt Nam còn thiếu tính chuyên nghiệp do nguồn nhân
lực chưa được đào tạo, hạ tầng chưa đạt tiêu chuẩn, sản phẩm chưa
được bảo quản đúng tiêu chuẩn,bên cạnh đó Việt Nam là thị trường
mới vận hành ở mức sơ khai, quan hệ giữa các DN còn lỏng lẻo, thiếu
hệ thống cung cấp thông tin đồng bộ, kịp thời, phương thức mua bán
còn lạc hậu,là điều kiện tốt để một tập đoàn bán lẻ lớn như Wal-mart
thâm nhập.
- Các phương thức thanh toán tiện dụng bằng thẻ tín dụng đã xuất
hiện, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam có những bước tiến mạnh
mẽ, vững chắc.
Bên cạnh đó:
- Nguồn lao động của Việt Nam khá dồi dào
- Chế độ chính trị ổn định
- Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh
nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự
lớn mạnh của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa
vụ của các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
4)Threat :
- Phải tiếp cận và nghiên cứu về văn hóa,hệ thống pháp lý, phong tục
tập quán cũng như thói quen tiêu dùng khó thay đổi của người Việt, để
từ đó có định hướng đúng trong việc chọn sản phẩm cung ứng cho thị
trường, cũng như kế hoạch marketing phù hợp với tâm lý người Việt
Nam.
- Tại Việt Nam, hàng tiêu dùng hiện vẫn đến tay người mua chủ yếu
qua các kênh truyền thống, như chợ, cửa hàng và các hộ kinh doanh cá
thể... Cách phân phối này đã tạo ra nhiều khe hở cho hàng gian, hàng
giả phát triển cũng như các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm…
Hơn 10 năm nay, cũng đã có những doanh nghiệp trong nước xây
dựng được chuỗi phân phối bán lẻ hiện đại, nhưng vẫn chưa thể “với
tay” tới khu vực nông thôn. Trong khi đó, theo khảo sát của Trung tâm
Nghiên cứu kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), thị trường
nông thôn là nơi sinh sống của 70% dân số nước ta và chiếm từ 1425% tổng thị trường bán lẻ.
- Thủ tục hành chính phức tạp, quan liêu.
- Cơ sở hạ tầng để phát triển ngành bán lẻ còn yếu kém
Giá thuê mặt bằng quá cao và thủ tục rườm rà: Khiến cho nhiều
doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ khó có thể thuê được mặt bằng như
mình mong muốn.Theo thống kê tính đến cuối tháng 7/2008, tại
Tp.HCM, giá thuê mặt bằng bán lẻ trong khu trung tâm đạt mức trung
bình 65USD/m2/tháng, với những vị trí đẹp giá trung bình đạt đến
85USD/m2/tháng và mức giá thuê cao nhất tại khu vực này lên tới 250
USD/m2/tháng; giá thuê mặt bằng khu vực ngoài trung tâm rẻ hơn đôi
chút đang ở mức trung bình 40USD/m2/tháng. Do đó khó tìm được
những vị trí thuận lợi vì hiện giá thuê mặt bằng tại các thành phố lớn
như Hà Nội, TP.HCM, bên cạnh đó giao thông và cơ sở hạ tầng ở Việt
Nam chưa tốt, đặc biệt là khó tìm được bãi đỗ xe thuận lợi
- Một vài điều khoản, phụ lục của Việt Nam về hạng mục hàng hóa
hay quyền phân phối hạn chế khả năng mở rộng , bành trường của nhà
ĐTNN.Ví dụ: theo quy định tại Phụ lục số 01 Quyết định số
10/2007/QĐ-BTM: "Quyền phân phố của nhà ĐTNN gắn với quyền
được lập cơ sở bán lẻ thứ nhất". Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là
khi nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp phép thực hiện quyền phân
phối sẽ đương nhiên được mở cơ sở bán lẻ ở bất cứ đâu trên địa bàn
địa phương.
IV. Chiến lược thâm nhập thị trường
Từ những hiểu biết về thực trạng và tiềm năng thị trường Việt Nam
cũng như năng lực của công ty, chúng ta có thể đưa ra chiến lược thâm
nhập thị trường sơ bộ. Nhưng do đặc trưng là một nhà bán lẻ, cung cấp
một lượng lớn sản phẩm nên chiến lược của W-M không phải dành
cho một sản phẩm cụ thể mà là chiến lược tiếp cận thị trường cho hệ
thống bán lẻ và dịch vụ của mình nên nó có những điểm khác biệt so
với chiến lược của một doanh nghiệp sản xuất thông thường.
1.Chiến lược sản phẩm
a. Sản phẩm, đặc tính và lợi thế cạnh tranh
Wal-mart mang đến Việt Nam không đơn thuần là một siêu thị
thông thường mà là một địa điểm đáng tin cậy có thể đáp ứng tốt nhất
nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng . Khách hàng có thể tìm thấy cả
những sản phẩm nhập khẩu cũng như những sản phẩm sản xuất trong
nước không chỉ với chất lượng cao mà còn với giá cả thấp nhất. Bên
cạnh đó là sự thỏa mãn đến từ thái độ phục vụ và các dịch vụ tiện
ích.Trong khi hệ thống siêu thị hiện có ở Việt Nam vẫn có hạn chế về
giá và mức độ chuyên nghiệp trong khâu phục vụ và chăm sóc khách
hàng.Quá trình thành danh của Walmart trước sau gắn liền hai chữ
“Nhã nhặn”. Nghệ thuật kinh doanh “hoà khí sinh giàu” không những
vận dụng về mặt đối đãi với khách hàng mà còn được Walmart vận
dụng ngay với các nhân viên của tập đoàn siêu thị khổng lồ này. Vì
thế mỗi khi mua vào mỗi loại hàng, Waltmart đều hết sức chú ý tới
chất lượng và kiểu dáng và không tiếc bỏ ra những khoản đầu tư lớn,
sử dụng máy tính để kiểm nghiệm hàng hoá và lưu chuyển xuất nhập
hàng, từ đó bảo đảm uy tín của siêu thị và lưu thông sản phẩm hàng
hoá.
b. Các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược sản phẩm
- Thu nhập và mức sống:
Trong những năm gần đây GDP bình quân đầu người của Việt Nam
liên tục tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng
trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng
trên 8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người ước tính đạt khoảng 1.047
USD/người (xem bảng)
(Nguồn:TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 219 THÁNG 1 NĂM
2009 )
Theo số liệu của Nielsen Vietnam Omnibus 2002-2009, mức bình
quân mỗi tháng công bố thu nhập của mỗi hộ bây giờ là 300 USD và
thu nhập của mỗi hộ trên mức 4 triệu đồng, tăng 20% trong năm 2002
lên hơn 80% trong năm 2008, cho thấy một con số gia tăng khổng lồ
trong thu nhập sau khi nộp thuế. Sự gia tăng trong GDP bình quân đầu
người và thu nhập sẽ làm cho khả năng và nhu cầu tiêu dùng ngày
càng tăng lên và chấp nhận giá hơn. Ngoài yếu tố lạm phát, vật giá gia
tăng, số liệu điều tra qua các năm cho thấy mức chi tiêu bình quân đầu
người tăng mạnh qua các năm đối với mức chi tiêu bình quân trên 1
triệu đồng/người/tháng (nhóm chi tiêu cao nhất) và giảm đều ở các
nhóm còn lại. Nhóm chi tiêu cao nhất này đã tăng từ 18,4% năm 2004
lên 62,2% năm 2008, tăng hơn 3 lần. Riêng hai nhóm người tiêu dùng
có mức chi tiêu bình quân từ 500 ngàn đồng/người/tháng trở lên trong
năm 2008 chiếm đến 93,3%. Số liệu này cho thấy mức sống của người
tiêu dùng đã cải thiện đáng kể qua các năm (xem bảng).
(Nguồn:Tạp chí phát triển kinh tế số 219 tháng 1 năm 2009)
Mặc cho những thử thách trong năm 2008 từ việc lạm phát tăng giá
thực phẩm và xu hướng đi xuống của thị trường chứng khoán, người
tiêu dùng Việt Nam đã trở nên sôi nổi hơn và tích cực thấy rõ. Họ là
những người đứng thứ 9 về mức độ lạc quan toàn cầu và thứ 5 trong
khu vực. Với thu nhập và mức chi tiêu tăng có thể thấy cầu tiêu dùng
của người Việt Nam không ngừng tăng lên, tỷ lệ tiêu dùng trên thu
nhập của người dân cũng thuộc loại cao nhất ở Đông Nam Á (khoảng
70% thu nhập hàng tháng), cũng có nghĩa là khách hàng sẵn sàng chi
trả nhiều hơn để thỏa mãn nhu cầu. Như vậy với tư cách là một nhà
bán lẻ W-M sẽ phải cố gắng khai thác hết nhu cầu này bằng việc cung
cấp sản phẩm, dịch vụ phong phú và mang đến cho khách hàng nhiều
giá trị tăng thêm.
- Văn hóa và tâm lý
Với một thị trưởng có thể coi là rất trẻ (50% dưới 25 tuổi), các nhãn
hiệu mới, lạ có sức hấp dẫn lớn, kích thích trí tò mò, tâm lý thử cho
biết. Dường như thị trưởng người tiêu dùng Việt Nam, sau bao nhiêu
năm sống trong thiếu thốn vẫn chưa qua cơn khát được khám phá lựa
chọn dùng thử. Phân tích thái độ và hành vi của khách hàng trước
những nhãn hiệu mà họ cảm nhận là ngoại, nhận thấy có hai xu
hướng: Thứ nhất, người tiêu dùng có xu hướng gán một hình ảnh sang
trọng, uy tín cho các sản phẩm được cho là có nhãn hiệu ngoại. Họ
thường tin rằng hàng có nhãn hiệu ngoại chất lượng tốt hơn, sang hơn,
do đó dùng sản phẩm nhãn hiệu ngoại thể thể hiện sự sang trọng, sành
điệu. Thứ hai, nếu khả năng cho phép, họ thích lựa chọn các nhãn hiệu
ngoại, nhất là trong các tình huống chi tiêu trước đám đông. Với lợi
thế là nhà bán lẻ nước ngoài có những sản phẩm tự sản xuất mang
thương hiệu của mình Wal-mart có thể mang đến cho thị trường Việt
Nam một số lượng lớn và phong phú các sản phẩm đạt têu chuẩn chất
lượng quốc tế với giá cả phù hợp.
Có thể nói chiến lược sản phẩm đối với ngành bán lẻ là thích nghi.
Bởi bên cạnh những chuẩn chung trong hệ thống Wal-Mart trên toàn
thế giới thì việc cung ứng sản phẩm và dịch vụ phải gắn liền với thói
quen cũng như văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam.Riêng đối với
mặt hàng thực phẩm, người Việt thường có thói quen dùng các loại
thực phẩm tươi sống và ngại dùng các loại thực phẩm đông lạnh, rau
củ quả cũng là một loại thực phẩm chủ yếu. Vì vậy thay vì dành quá
nhiều diện tích cho quầy đông lạnh, bơ, pho-mát thì có thể bố trí nhiều
diện tích hơn cho quẩy thực phẩm tươi sống, rau quả. Hay bổ sung
những mặt hàng mang tính “dân tộc” như các loại mắm, đặc sản của
các vùng…
- Pháp lý
Theo pháp luật Việt Nam danh mục hàng hóa loại trừ vĩnh viễn đó là
những mặt hàng mà nhà ĐTNN sẽ không bao giờ được quyền tham
gia phân phối trên lãnh thổ Việt Nam như: lúa, gạo, đường, thuốc lá và
xì gà, dầu thô và dầu qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ, sách - báo -
- Xem thêm -