BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
CHẾ TÀI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO
PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
ĐỖ THỊ BÌNH
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHẾ TÀI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
THEO PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
ĐỖ THỊ BÌNH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ : 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Mở Hà Nội.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2019
Ngƣời cam đoan
Đỗ Thị Bình
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn tới Ban
Giám hiệu, toàn thể quý thầy cô Khoa Sau đại học Trường Đại học Mở Hà
Nội - những người đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình
em học tập, nghiên cứu và viết luận văn tại Trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Anh - người đã tận tình hướng dẫn em thực hiện
công trình nghiên cứu này.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp những người đã luôn ở bên động viên, chia sẻ và giúp đỡ em trong suốt thời
gian vừa qua.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2019
Tác giả
Đỗ Thị Bình
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
LTM
Luật Thương mại
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI
VỀ CHẾ TÀI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ................................................................ 6
1.1. Khái quát về chế tài trong thương mại ................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại ............................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của chế tài trong thương mại.......................................................... 9
1.1.3. Các loại chế tài trong thương mại ................................................................ 11
1.2. Khái quát về chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại ............................... 18
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại ..... 18
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại ......... 21
1.3. Khái quát pháp luật thương mại về chế tài bồi thường thiệt hại ........................ 25
1.3.1. Sự phát triển của pháp luật thương mại về chế tài bồi thường thiệt hại....... 25
1.3.2. Khái quát nội dung pháp luật thương mại về chế tài bồi thường thiệt hại ... 28
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................. 29
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VỀ
CHẾ TÀI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI .................................................................... 30
2.1. Quy định của pháp luật thương mại về chế tài bồi thường thiệt hại................... 30
2.1.1. Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong pháp luật thương mại .... 30
2.1.2. Mức thiệt hại phải bồi thường ...................................................................... 35
2.1.3. Nghĩa vụ chứng minh và hạn chế tổn thất của bên yêu cầu bồi thường
thiệt hại ................................................................................................................... 40
2.1.4. Mối quan hệ khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại với các chế tài khác
trong thương mại .................................................................................................... 42
2.1.5. Các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại ............................... 44
2.2. Một số vụ việc thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về chế tài bồi
thường thiệt hại .......................................................................................................... 48
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................. 54
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VỀ CHẾ TÀI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ............ 56
3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về chế tài bồi thường
thiệt hại trong thương mại.......................................................................................... 56
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thương mại về chế tài bồi thường
thiệt hại ...................................................................................................................... 59
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thương mại về
chế tài bồi thường thiệt hại ........................................................................................ 67
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................................. 70
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 73
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc
chung của xã hội, của cộng đồng và không thể vì lợi ích riêng của cá nhân mình mà
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Khi một chủ thể vi
phạm nghĩa vụ pháp lý của mình mà gây tổn hại cho chủ thể khác thì chính chủ thể
đó phải chịu sự bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu
quả bất lợi bằng việc “bù đắp tổn thất” cho chủ thể khác được hiểu là bồi thường
thiệt hại. Như vậy, chế tài bồi thường thiệt hại là một chế tài mang tính tài sản, việc
bồi thường thiệt hại chính là bồi thường những tổn thất thực tế bị mất mát do hành
vi vi phạm của một bên gây ra cho bên kia. Việc bồi thường thể hiện một triết lý sâu
sắc rằng không ai được lợi từ việc vi phạm hợp đồng, không ai được nhiều hơn số
thực tế bị thiệt hại và cũng theo lẽ đó chủ thể vi phạm chỉ phải bồi thường những
thiệt hại do chính mình gây ra mà thôi. Việc bồi thường kịp thời có vai trò quan
trọng, vì nó bù đắp lại những mất mát về vật chất cho bên bị vi phạm, để bên bị vi
phạm sớm ổn định, không bị xáo trộn về thời gian, công việc và các dự định cho
công việc ở hiện tại hoặc tương lai. Chế tài bồi thường thiệt hại trong LTM năm
2005 đã và đang phát huy tốt vai trò, chức năng của mình bởi bồi thường thiệt hại
còn có tác dụng như là một thông điệp mang tính răn đe tất cả những chủ thể khác
khiến họ phải kiềm chế, tự giữ mình không vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm
hợp đồng trong thương mại nói riêng. Đây cũng là một biện pháp giáo dục các tổ
chức và các cá nhân có ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống cộng đồng, làm cho mọi người tin tưởng vào công lý. Tuy
nhiên trên thực tế, việc vi phạm hợp đồng trong hoạt động kinh doanh vẫn diễn ra
thường xuyên, các đối tác lấy nhiều lý do khi vi phạm hợp đồng để tránh bồi thường
thiệt hại như: Có hành vi vi phạm hợp đồng nhưng chưa “gây thiệt hại thực tế”, bên
bán xin giao chậm hàng hóa… Trong khi pháp luật thương mại quy định mức bồi
thường phải dựa trên thiệt hại thực tế, có nghĩa là thiệt hại tới đâu thì mới được
quyền yêu cầu bồi thường đến đó, LTM không cho phép các bên thỏa thuận trước
1
về mức bồi thường thiệt hại, theo đó về nguyên tắc những thỏa thuận này sẽ bị Toà
án tuyên vô hiệu khi xảy ra tranh chấp.
Bởi các lý do trên, nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi bị xâm hại, khôi phục lại những giá trị vật chất đã bị mất, làm cho yếu
tố vật chất trở lại vị trí ban đầu mà họ đáng lẽ được hưởng. Nhận thấy việc nghiên
cứu chế tài bồi thường thiệt hại theo LTM Việt Nam hiện nay là vấn đề cần thiết
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những lý do trên tác giả chọn
đề tài “Chế tài bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam” làm
luận văn Thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, trách nhiệm bồi thường thiệt hại đặt ra đối với bên vi
phạm đã nhận được nhiều quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trước tiên phải kể đến
cuốn sách chuyên khảo: Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo
LTM Việt Nam của tác giả Lê Văn Tranh do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm
2018. Về các đề tài nghiên cứu có liên quan, gần đây nhất phải kể đến luận án tiến
sĩ luật học của Bùi Thị Thanh Hằng (2018) về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng, của trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài này cũng đã được triển khai nhiều ở
bậc thạc sĩ tại các cơ sở đào tạo luật khác nhau. Cụ thể như luận văn thạc sĩ tại
trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền về “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại”.
Luận văn của tác giả Ngô Mạnh Hùng về pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang. Luận văn của tác giả Hoàng Thị Lan Phương về trách nhiệm tài sản
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại - những vấn đề lý luận và thực
tiễn. Ngoài ra các cơ sở đào tạo luật khác cũng đã triển khai các đề tài luận văn có
liên quan, cụ thể như luận văn thạc sĩ của tác giả Ngô Văn Hiệp tại trường Đại học
Quốc gia Hà Nội về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh doanh,
thương mại. Luận văn thạc sĩ của tác giả Khúc Thị Trang Nhung “Những vấn đề về
miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam” tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị
2
Thu Thủy về chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam tại Học viện Khoa học xã hội - Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Ngoài ra có thể kể đến các công trình nghiên
cứu khoa học được đăng trên các tạp chí khoa học uy tín có liên quan đến Đề tài
luận văn như sau: “Hoàn thiện quy định về chế tài bồi thường thiệt hại theo Luật
Thương mại 2005” của tác giả Trần Thị Nhật Anh đăng trên tạp chí Tòa án nhân
dân số 05/2016, tr.14-17; “Bàn về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng theo BLDS năm 2015” của tác giả Trịnh Tuấn Anh đăng trên tạp
chí Kiểm sát số 19/2016. Hay “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc
tế qua LTM Việt Nam, công ước CISG và bộ nguyên tắc của Unidroit” của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Chinh đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22/2009. “Chế
tài phạt vi phạm hợp đồng theo LTM năm 2005” của tác giả Nguyễn Việt Khoa
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15/2011. “Nghĩa vụ hạn chế tổn thất và
vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật thương mại” của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 06/2018.
Tuy nhiên phần lớn các công trình nghiên cứu về chế tài này trong mối quan
hệ với các chế tài khác như buộc thực hiện đúng hợp đồng, tạm ngừng thực hiện
hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. Ngoài ra, chưa có công
trình nào tiếp cận chế tài bồi thường thiệt hại dưới góc độ là một dạng trách nhiệm
tài sản do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại. Nói cách khác, chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập tới bồi thường thiệt hại với bản chất chung của
chúng, đó là bản chất của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương
mại. Hơn nữa, hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu riêng hệ thống lí luận, thực
tiễn về chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích mà tác giả hướng tới khi thực hiện luận văn là làm rõ những vấn đề
lí luận chung nhất về chế tài bồi thường thiệt hại trong LTM Việt Nam, nội dung cơ
bản của pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định
pháp luật về vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải giải quyết gồm:
3
Một là, tìm hiểu những vấn đề lí luận về chế tài bồi thường thiệt hại theo
LTM Việt Nam nhằm làm rõ bản chất pháp lý, ý nghĩa của chế tài này. Ngoài ra,
quá trình nghiên cứu của luận văn cần làm rõ nguồn pháp luật về chế tài bồi thường
thiệt hại, quá trình hình thành và phát triển của các quy định đó ở Việt Nam;
Hai là, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài bồi thường
thiệt hại trong LTM Việt Nam. Trong quá trình phân tích, luận văn so sánh một số
quy định hiện hành của luật thực định với quy định được nêu trong các văn bản
trước kia, và với pháp luật nước ngoài. Đồng thời, luận văn kết hợp giữa nghiên cứu
pháp luật với phân tích các bản án để đánh giá ưu điểm, hạn chế của các quy định
pháp luật và nguyên nhân của các ưu điểm, hạn chế đó.
Ba là, từ việc nghiên cứu trên đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
chế tài bồi thường thiệt hại trong LTM Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lí luận chung và các nội dung
cơ bản của pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong LTM Việt Nam và thực
tiễn thi hành.
Đây là đề tài nghiên cứu nhằm đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục
những bất cập còn tồn tại trong các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong LTM Việt Nam. Vì thế, tác giả tập trung chủ yếu nghiên cứu các quy định của
LTM năm 2005.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng
như quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung,
về pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hoạt động thương mại nói riêng.
Trên nền tảng phương pháp luận ấy, khi nghiên cứu từng vấn đề cụ thể, tác giả có
sử dụng các phương pháp như: logic, phân tích, tổng hợp, so sánh… trong các
chương của Luận văn.
4
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật thương mại về chế tài bồi
thường thiệt hại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thương mại Việt Nam về chế tài bồi thường
thiệt hại.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
thương mại về chế tài bồi thường thiệt hại.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI VỀ
CHẾ TÀI BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
1.1. Khái quát về chế tài trong thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại
Chế tài theo quan niệm chung là “Cách thức áp đặt đối với một người, mà
tại đó một quyền được thi hành hoặc được thỏa mãn bởi tòa án khi ai đó bị thiệt hại
hay tổn thương mà xã hội thừa nhận đó là một hành vi sai trái”. Hiểu một cách đơn
giản, pháp luật điều tiết các quan hệ xã hội bằng cách đặt ra các quyền và nghĩa vụ
cho các chủ thể khi tham gia các quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn như trong
quan hệ mua bán hàng hóa, bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hóa và quyền sở
hữu hàng hóa cho bên mua, nhưng ngược lại, có quyền yêu cầu bên mua trả giá cho
bên bán; còn bên mua có quyền yêu cầu bên bán chuyển giao hàng hóa và quyền sở
hữu hàng hóa cho mình và ngược lại, có nghĩa vụ nhận hàng hóa và thanh toán tiền
mua. Rõ ràng quyền yêu cầu của một bên chỉ có thể được thỏa mãn nếu bên kia thực
hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ hay
thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì mục đích quan hệ
của bên kia không đạt được, điều này sẽ gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Vì vậy,
pháp luật can thiệp mạnh vào các quan hệ xã hội và đảm bảo công bằng bằng cách
thiết lập phương thức áp đặt hậu quả bất lợi cho người không thực hiện nghĩa vụ và
phần nào đó giúp khôi phục lại quan hệ xã hội bị phá vỡ bởi sự vi phạm hoặc khôi
phục lại tình trạng lẽ ra phải có của người có quyền yêu cầu.
Nhìn nhận từ cấu trúc bên trong của hệ thống pháp luật, cụ thể là từ thành
phần nhỏ nhất của hệ thống pháp luật, các luật gia Việt Nam hiện nay giải thích:
Chế tài là một trong ba bộ phận cấu thành một quy phạm pháp luật. Chế tài là bộ
phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm với những
quy tắc xử xự chung được ghi trong phần quy định và giả định của quy phạm pháp
luật. Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh,
chế tài được phân chia thành nhiều loại: chế tài hình sự, chế tài dân sự, chế tài hành
chính… Việc áp dụng chế tài phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi ích mà pháp
6
luật cần bảo vệ; căn cứ vào tính chất của hành vi vi phạm pháp luật, mức độ thiệt
hại và những vấn đề khác có liên quan. Chế tài gồm có các hình thức: chế tài trừng
trị (trong lĩnh vực hình sự), chế tài khôi phục trạng thái pháp lý ban đầu (trong lĩnh
vực dân sự, kinh tế), chế tài bảo vệ và chế tài bảo đảm (trong lĩnh vực hành chính,
dân sự).
Ngoài ra, ở góc độ ngôn ngữ cũng có nhiều định nghĩa về thuật ngữ “Chế
tài”, chẳng hạn như: “Chế tài là những biện pháp cưỡng chế nhà nước có thể áp
dụng nhằm bảo đảm việc thực hiện các quy định của pháp luật”; “Chế tài là hậu
quả pháp lý của việc không thực hiện những điều quy định của quy phạm pháp
luật hoặc chế tài là biện pháp tác động nghiêm khắc của nhà nước đối với việc vi
phạm” [12, tr.31]. Hay trong giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của Trường
Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra định nghĩa “Chế tài là một phần của quy phạm
pháp luật chỉ ra các biện pháp mang tính chất trừng phạt mà các chủ thể có thẩm
quyền áp dụng quy phạm có thể áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật,
không thực hiện đúng mệnh lệnh đã được nêu trong phần quy định của quy phạm
pháp luật. Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm cho các
quy định của pháp luật được thực hiện nghiêm minh”
Tóm lại, qua các định nghĩa về chế tài nêu trên chúng ta thấy, chế tài là hậu
quả pháp lý bất lợi mà người có hành vi vi phạm phải gánh chịu. Nó biểu hiện thái
độ của Nhà nước và của người bị vi phạm đối với người vi phạm và là điều kiện
đảm bảo cần thiết cho việc tuân thủ pháp luật, tuân thủ hợp đồng.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về chế tài trong thương mại với tính
chất là một chế tài được áp dụng trong quan hệ thương mại. Cụ thể:
Quan niệm thứ nhất cho rằng: Chế tài thương mại là hậu quả pháp lý bất lợi
được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật thương mại khi họ
không thực hiện hay thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa
vụ phát sinh từ các hành vi thương mại. Theo quan niệm này chế tài thương mại bao
gồm cả các chế tài áp dụng cho các hành vi vi phạm chế độ quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực thương mại, xâm phạm trật tự quản lý trong hoạt động thương mại của Nhà
nước [9]. Theo quan niệm này, chế tài thương mại lại trùm lấn sang cả lĩnh vực
hành chính và hình sự. Trong khoa học pháp lý, mỗi lĩnh vực pháp luật có những
7
hình thức chế tài riêng của nó, tên của những chế tài này được gọi theo lĩnh vực
pháp luật mà ngành luật đó điều chỉnh, ví dụ như chế tài hình sự, chế tài dân sự, chế
tài hành chính…. Điều 320 của LTM năm 2005 quy định các hành vi vi phạm pháp
luật thương mại gồm:
- Vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh doanh của
thương nhân; thành lập và hoạt động của Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương
nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài;
- Vi phạm quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng
hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập; chuyển
khẩu, quá cảnh;
- Vi phạm chế độ thuế, hóa đơn chứng từ, sổ và báo cáo kế toán;
- Vi phạm quy định về giá hàng hóa, dịch vụ;
- Vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu;
- Buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả hoặc nguyên liệu,
vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép;
- Vi phạm các quy định liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ kinh
doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
- Gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
- Vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng;
- Vi phạm các quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa, dịch vụ
kinh doanh trong nước và xuất, nhập khẩu;
- Vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa;
- Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, các vi phạm này hầu hết là các vi phạm hành chính hoặc hình sự
mà chế tài đối với chúng có thể được quy định tại các văn bản pháp luật về hành
chính hay hình sự, chứ không được quy định tại đạo luật thương mại hay dân sự.
Theo quan điểm thứ hai, chế tài trong thương mại là hậu quả pháp lý bất lợi
áp dụng đối với chủ thể vi phạm nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng. Quan điểm
này thể hiện rõ trong Chương VII của LTM năm 2005. Nghĩa vụ thỏa thuận trong
8
hợp đồng hay nói cách khác chính là nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại đã
được các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Trong luận văn này, tác giả đồng tình với quan điểm xác định chế tài trong
thương mại là hậu quả pháp lý bất lợi đối với bên vi phạm khi có hành vi vi phạm
hợp đồng thương mại gây tổn thất cho bên bị vi phạm.
1.1.2. Đặc điểm của chế tài trong thương mại
Chế tài trong thương mại là một loại trách nhiệm dân sự và mang tính vật
chất. Chế tài trong thương mại bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng mà bên bị
vi phạm có quyền được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng trong quan hệ hợp
đồng. Đó chính là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị
vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại.
Theo nguyên tắc, nếu một bên vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý bất lợi tương ứng với hành vi vi phạm đó gây ra. Các đặc điểm của chế tài
trong thương mại sau đây sẽ cho thấy điều này:
Thứ nhất, chế tài chỉ áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng
Điều kiện chung để áp dụng các biện pháp chế tài trong thương mại là phải
có hành vi vi phạm hợp đồng. Khi một bên vi phạm hợp đồng tức là đã vi phạm các
thỏa thuận mà mình đã cam kết trong hợp đồng, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể khác được pháp luật bảo vệ. Chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương
mại chỉ được đặt ra khi có hành vi vi phạm hợp đồng của một bên, đó là những xử
sự trái với những gì đã cam kết trong hợp đồng dẫn tới việc gây nên hoặc đe dọa
gây nên tổn thất cho người khác và chính điều đó đã xâm phạm tới những quan hệ
được pháp luật thương mại bảo vệ. Do đó bên vi phạm phải gánh chịu một chế tài
tương thích với việc vi phạm hợp đồng. Theo đó, vi phạm hợp đồng có thể là việc
không thực hiện hợp đồng, thực hiện không đầy đủ hợp đồng, thực hiện không đúng
nghĩa vụ theo sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng… Trên thực tế, các
văn bản quy phạm pháp luật có nhiều vấn đề quy định gắn liền với hợp đồng và các
bên phải dựa trên một khung pháp lý nhất định để thực hiện các quy định của LTM
năm 2005. Việc thực hiện các quy định của Luật cũng chính là thực hiện các nội
dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành đó là LTM năm
9
2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Chế tài trong thương mại không
áp dụng đối với những nghĩa vụ phát sinh ngoài hợp đồng.
Thứ hai, chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại là các bên có quyền và
nghĩa vụ liên quan
Các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan có thể là cả hai đều có tư cách
thương nhân hoặc một trong hai bên có tư cách thương nhân hoặc các bên hoạt
động có liên quan đến thương mại. Dù trong quan hệ này được xác lập kể cả trong
trường hợp có ít nhất một bên là thương nhân thì việc áp dụng chế tài hoặc không
áp dụng chế tài, dù các bên đã có thỏa thuận từ trước hoặc các chế tài luật định thì
đều là quyền của các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng. Việc áp dụng các chế
tài này có thể cho phép chúng ta phân biệt được phần nào các chế tài trong thương
mại với các chế tài trong lĩnh vực khác như chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế
tài kỷ luật… Đối với ba loại là chế tài hình sự, chế tài hành chính và chế tài kỷ
luật thì chủ thể bắt buộc phải là Nhà nước hoặc người quản lý, người đại diện hợp
pháp cho tổ chức.
Thứ ba, về cơ sở pháp lý, LTM năm 2005 dành riêng một chương để quy
định rõ về các biện pháp chế tài
Theo đó, LTM năm 2005 có quy định về chế tài trong thương mại tại
Chương VII, điều này cho thấy tính trật tự và tính hệ thống trong quy phạm pháp
luật về chế tài trong thương mại. Trong khi đó, BLDS năm 2015 quy định về chế tài
trong phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự. Qua việc thống kê các quy định của
BLDS năm 2015 về chế tài hoặc có bản chất của chế tài thì chúng đều nằm rải rác ở
các phần riêng lẻ.
Thứ tư, việc áp dụng chế tài là quyền của các bên trong quan hệ hợp đồng
thương mại
Việc áp dụng chế tài theo quy định của LTM năm 2005 là quyền của các bên
nếu nó không vi phạm các điều cấm theo quy định của pháp luật hoặc trái đạo đức
xã hội. Vì vậy, các bên có thể thỏa thuận đồng thời áp dụng nhiều loại chế tài trong
thương mại khác nhau đối với một hành vi vi phạm hợp đồng hoặc có thể không áp
10
dụng biện pháp chế tài. Tuy nhiên trong trường hợp áp dụng chế tài thì các bên
cũng phải lưu ý rằng không thể áp dụng đồng thời hai hoặc nhiều chế tài có mục
đích và tính chất hoặc hậu quả trái ngược nhau, phủ định nhau.
Thứ năm, chế tài trong thương mại khi được áp dụng sẽ là các biện pháp tác
động bất lợi về tài sản của chủ thể có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành
vi vi phạm hợp đồng
Chế tài được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng và buộc bên vi phạm
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Các chế tài tài sản được áp dụng
đối với bên vi phạm dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều dẫn đến việc bên vi
phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Đó có thể là những nghĩa vụ
tài sản tương đương với nghĩa vụ theo hợp đồng như bồi thường thiệt hại thực tế.
Đó cũng có thể là những nghĩa vụ tài sản bổ sung so với nghĩa vụ theo hợp đồng
như tiền phạt, lãi suất chậm thanh toán, khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ… Yếu tố tài sản
thể hiện ở cách thức bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, cụ thể là:
(1) Bên vi phạm phải dùng tiền (tài sản) thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện
nghĩa vụ nộp phạt, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do đã không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ cam kết trong hợp đồng. Việc nộp tiền phạt hay bồi
thường thiệt hại được thực hiện theo sự thảo thuận của các bên trong hợp đồng hoặc
theo quy định của pháp luật; (2) Bên vi phạm buộc phải có những chi phí hợp lý cần
thiết để thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi bên bị vi phạm áp dụng chế tài buộc thực
hiện hợp đồng, chẳng hạn như chi phí sửa chữa sai sót, loại trừ khuyết tật của hàng
hóa…; (3) Việc áp dụng các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ hay hủy bỏ hợp
đồng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích vật chất của các bên. Tuy nhiên, theo
pháp luật thực định Việt Nam, có những chế tài không mang tính tài sản như tạm
ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng.
1.1.3. Các loại chế tài trong thương mại
Khi tham gia quan hệ hợp đồng thương mại, các bên đều nhằm đạt được
những lợi ích nhất định. Hành vi vi phạm hợp đồng của một bên có thể xâm hại đến
lợi ích của bên bị vi phạm. Để đảm bảo lợi ích của bên bị vi phạm, LTM đã quy
định các loại chế tài để bên bị vi phạm có thể áp dụng đối với bên vi phạm khi có
11
hành vi vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp bên vi phạm không tự giác thực hiện,
bên bị vi phạm có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình. Theo đó, các loại chế tài trong thương mại phổ biến gồm:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
- Phạt vi phạm;
- Buộc bồi thường thiệt hại;
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng;
- Hủy bỏ hợp đồng.
1.1.3.1. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng thương mại là để phục vụ cho
hoạt động kinh doanh. Khi một bên trong hợp đồng không thực hiện, thực hiện
không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng thì bên này buộc phải thực hiện
đúng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện. Nếu không họ sẽ
phải trả tiền đền bù, bồi thường thiệt hại hay áp dụng các chế tài khác. Chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng để các bên đạt
được lợi ích mà họ mong muốn từ việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Chế tài buộc
thực hiện hợp đồng được áp dụng nhằm đảm bảo cho hợp đồng tiếp tục được thực
hiện ngay cả khi hợp đồng đã bị vi phạm, nghĩa là các bên sẽ phải cố gắng thực hiện
được mục đích của hợp đồng thương mại đã ký kết. Mục đích của việc ký kết hợp
đồng thương mại xuất phát từ mục tiêu kinh doanh chứ không phải nhằm đạt được
những lợi ích từ việc nộp phạt hay bồi thường thiệt hại từ các bên tham gia ký kết.
Nhiều trường hợp, khoản tiền phạt hay bồi thường thiệt hại không thể thay thế được
lợi ích có được từ việc thực hiện hợp đồng ký kết giữa các bên. Tư duy pháp lý này
gần giống với tư duy pháp lý ở các nước theo hệ thống dân luật, luôn đề cao thỏa
thuận trong hợp đồng và sẽ có giá trị bắt buộc đối với các bên. Nếu trường hợp một
bên không thực hiện đúng hợp đồng thì về nguyên tắc, bên còn lại có quyền yêu cầu
thực hiện đúng hợp đồng. Do đó, ở các nước theo hệ thống dân luật, buộc thực hiện
đúng hợp đồng là chế tài được áp dụng phổ biến. Bên vi phạm luôn có thể bị yêu
12
cầu thực hiện đúng hợp đồng (chỉ trừ một vài trường hợp ngoại lệ) nếu bên bị vi
phạm mong muốn điều đó. Chính vì thế, chế tài bồi thường thiệt hại chỉ đứng hàng
thứ hai, khi việc buộc thực hiện đúng hợp đồng trở nên bất khả thi hoặc khi bản
thân người vi phạm không còn quan tâm đến việc được thực hiện đúng hợp đồng
nữa. Pháp luật một số nước điển hình của dòng họ Civil Law (dòng họ pháp luật
châu Âu lục địa) đã thể hiện rõ quan điểm này. Có thể thấy quan điểm của các nước
theo dòng họ pháp luật châu Âu lục địa là khá đồng nhất và đặt thứ tự ưu tiên hàng
đầu cho việc thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên, dòng họ pháp luật Anh - Mỹ
(Common Law) lại xuất phát từ quan điểm ngược lại khi cho rằng mấu chốt của vấn
đề là trong trường hợp có hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm luôn có thể yêu
cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại bằng tiền. Chính vì thế, buộc thực hiện hợp
đồng hầu như không được tòa án áp dụng, tòa án chỉ công nhận tính hợp pháp của
yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng trong trường hợp việc bồi thường bằng tiền mặt
không đáp ứng đủ quyền lợi của bên bị vi phạm.
Theo pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ, người phải thực hiện nghĩa vụ có quyền tự
do định liệu có thực hiện nghĩa vụ hay không. Theo đó, nếu xuất hiện những cơ hội
hấp dẫn hơn với các bên thứ ba thì người này có thể không thực hiện nghĩa vụ và
đền bù thiệt hại đối với bên bị vi phạm. Còn đối với các hợp đồng liên quan đến vật
đặc định như các loại sách báo cũ, tranh ảnh cũ, đồ cổ không có vật thay thế, đối với
các hợp đồng mua bán đất, hợp đồng thuê mua doanh nghiệp, bên bị vi phạm mới
có quyền buộc bên vi phạm thực hiện theo đúng hợp đồng. Đây là những trường
hợp ngoại lệ mà việc dùng tiền để đền bù thiệt hại cho người bị vi phạm tỏ ra không
hợp lý. Các tòa án Hoa Kỳ rất hạn chế cho phép áp dụng chế tài này. Còn ở Anh,
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng chỉ áp dụng đối với vật quý hiếm mà không
thể mua được ở nơi khác.
Pháp luật Việt Nam theo quan điểm của các nước ở châu Âu lục địa, theo đó
tại Khoản 1 Điều 297 LTM năm 2005 quy định “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là
việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các
biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải gánh chịu chi phí
phát sinh”. Tuy nhiên, khác với luật Đức, LTM Việt Nam quy định trong thời gian
13
- Xem thêm -