Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp...

Tài liệu Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba

.PDF
89
128
119

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ------------------ NGUYỄN HƢƠNG GIANG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƢỜI THỨ BA LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ------------------ NGUYỄN HƢƠNG GIANG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƢỜI THỨ BA LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60380103 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ THỊ MAI HIÊN HÀ NỘI – NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả luận văn Nguyễn Hƣơng Giang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Bộ luật dân sự : BLDS Hôn nhân và gia đình : HN&GĐ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VÀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƢỜI THỨ BA ............................................................. 6 1.1.Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận.............................................. 6 1.1.1.Khái niệm ................................................................................................. 6 1.1.2.Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận .................... 8 1.1.3.Ý nghĩa của việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ........................................................................................................................... 9 1.2.Người thứ ba và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ......................................... 12 1.2.1.Khái niệm người thứ ba ......................................................................... 12 1.2.2.Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong viêc thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ................. 13 1.3. Lược sử quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. .. 15 1.3.1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. .................................................. 15 1.3.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến nay ............................................................... 18 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƢỜI THỨ BA .................... 24 2.1. Các quy định chung về chế độ tài sản của vợ chồng tại Luật HN&GĐ năm 2014 với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. ....... 24 2.1.1. Nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng ................................. 25 2.1.2. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng ............................... 25 2.1.3. Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. .................................................................................................... 26 2.1.4. Giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng. .............. 27 2.1.5. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng .................................. 28 2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo quy định tại Luật HN&GĐ năm 2014 với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ..................................................................................................................... 30 2.2.1. Nội dung của văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ....... 30 2.2.2. Hình thức của thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng ......................... 39 2.2.3. Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 41 2.2.4. Nghĩa vụ cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận cho người thứ ba .................................................................................... 44 2.2.5. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng không rõ ràng hoặc phát sinh những vấn đề chưa được thỏa thuận. .............................................................................................. 47 2.2.6. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu ........................................................... 48 CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƢỜI THỨ BA LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 55 3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. ............................................................................................ 55 3.1.1. Về thời điểm có hiệu lực và chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ........................................................................................................ 57 3.1.2. Vấn đề công khai và cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. ............................................................................................... 59 3.1.3. Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản 61 3.2. Một số kiến nghị về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. ...................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAMKHẢO 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản ánh sự chung sống của hai vợ chồng và con cái. Trong đời sống hôn nhân và gia đình, tài sản là cơ sở đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của vợ chồng và đáp ứng nhu cầu của gia đình, giúp gia đình thực hiện tốt các chức năng duy trì nòi giống, chức năng giáo dục và chức năng kinh tế. Bởi vậy, chế độ tài sản của vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong các chế định cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật về hôn nhân và gia đình.Tài sản của vợ chồng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình của các nước trên thế giới được quy định gắn liền với các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ sở hữu, truyền thống, phong tục, tập quán…Do đó, giữa các nước khác nhau thường có những quy định khác biệt về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, về cơ bản tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai căn cứ: sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và theo các quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định). Tại Việt Nam, chế độ tài sản vợ chồng được ghi nhận tại pháp luật Việt Nam có sự thay đổi trong từng thời kỳ, đặc biệt là chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có một lịch sử hình thành và phát triển tương đối biến động. Luật HN&GĐ năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 19/6/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về chế độ tài sản vợ chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình thời kỳ trước, trong đó lần đầu tiên thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng không chỉ là căn cứ pháp lý để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình mà còn là cơ sở đề giải quyết các tranh chấp về tài sản phát sinh giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng với người thứ ba. Việc bảo vệ quyền và lợi ích của đối tượng 2 người thứ ba trong việc xác lập thực hiện các giao dịch liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là vấn đề được các nhà làm luật quan tâm điều chỉnh. Trong phạm vi Luận văn, tác giả đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba để có được cái nhìn tổng quan, chính xác về vấn đề còn tương đối mới mẻ trong pháp luật Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, đã có một số các công trình nghiên cứu về chế độ này như luận án “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” năm 2005 của tác giả Nguyễn Văn Cừ, khóa luận “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng hôn ước ở Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Linh Nhâm năm 2010; luận văn “Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam”của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung năm 2014; luận văn “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy năm 2015; bài viết “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cừ đăng trên Tạp chí Luật học số 4 năm 2015, bài viết “Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014” của tác giả Phạm Thị Linh Nhâm đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 2016, bài viết “Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quá trình xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng” của tác giả Ngô Thị Anh Vân trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 5 năm 2016, bài viết Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam của tác giả Nguyễn Hồng Hải đăng trên Tạp chí Luật học số 3 năm 1998, bài viết “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam” của tác giả Bùi Minh Hồng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009. 3 Các công trình nghiên cứu trên tập trung đi sâu vào các vấn đề cốt lõi và cơ bản của chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nói riêng như khái niệm, đặc điểm, phân loại chế độ tài sản của vợ chồng, lược sử quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản của vợ chồng, ưu điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong Luật HN&GĐ năm 2014. Việc nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ góc độ bảo đảm quyền lợi của chính vợ chồng khi thiết lập chế độ tài sản theo thỏa thuận, còn các đối tượng khác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận về chế độ tài sản thì chưa được đề cập đến một cách cụ thể. Hiện tại thì vẫn chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba trong giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chính vì vậy, có thể khẳng định luận văn “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba” là công trình đầu tiên nghiên cứu cụ thể về vấn đề này. 3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1.Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các công trình khoa học, các quy định của pháp luật về bảo vệ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba trongviệc xác lập, thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cùng các văn bản hướng dẫn, BLDS 2015 cũng như các văn bản có liên quan, có sự so sánh đối chiếu với các văn bản pháp luật về dân sự, về hôn nhân và gia đình trong giai đoạn trước nhằm tìm hiểu những quy định mang tính lý luận cũng như những vấn đề, kết quả đã thực hiện trong thực tiễn của pháp luật về đề tài. 4 4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn Mục tiêu đề tài hướng tới nhằm làm rõ những quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba trong giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận – chế độ tài sản của vợ chồng mới được ghi nhận trong Luật HN&GĐ năm 2014, đánh giá những quy định này, từ đó hoàn thiện và góp phần làm ổn định các quan hệ dân sự và bảo đảm tính khả thi của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Qua việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá, kiến nghị, luận văn trả lời những câu hỏi sau: - Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là gì? Nội dung, hình thức của văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. - Người thứ ba trong các giao dịch với vợ chồng liên quan đến tài sản được xác lập theo thỏa thuận là những đối tượng nào? Nội dung bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong quy định của pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là gì? - Những vấn đề nào đặt ra từ thực tiễn liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba? - Những giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật và nâng cao việc bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba khi thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận? 5. Các phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với tính chất và yêu cầu của đề tài như: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh…. Kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra những kết luận, đánh giá nhằm giải quyết những nhiệm vụ đặt ra. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn: 5 Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi chế độ này được áp dụng, người viết hướng tới việc: - Làm rõ những quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng. - Thông qua đánh giá thực tiễn của việc thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, đưa ra những đề xuất cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba liên quan đến chế độ tài sản này. Những vấn đề được làm sáng tỏ trong luận văn có thể đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng như pháp luật dân sự ở Việt Nam. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác tìm hiểu, nghiên cứu về hôn nhân và gia đình nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nói riêng. 7. Kết cấu luận văn: Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Khái quát chung về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba Chương 2. Thực trạng pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Chương 3.Thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng và một số kiến nghị. 6 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN VÀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƢỜI THỨ BA 1.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận 1.1.1. Khái niệm Trong pháp luật của Nhà nước ta, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong một văn bản cụ thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng theo các nhà luật gia thì có thể hiểu: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng: nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng”1. Theo giáo trình Luật HN&GĐ của Khoa luật trường Đại học Cần Thơ định nghĩa: “Chế độ tài sản vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ chồng. Tài sản được phân loại gồm: tài sản chung và tài sản riêng. Với quan hệ tài sản chung, vợ chồng cùng tham gia vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản mà họ có quyền ở hữu chung. Trong khi quan hệ tài sản riêng bảo tồn sự độc lập của mỗi người trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản”. Các định nghĩa này hàm chứa các nội dung cơ bản của chế độ tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, chế độ tài sản này được định nghĩa theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 nên chưa bao quát được tính chất của chế độ tài sản của vợ chồng nói chung theo pháp luật của các quốc gia trên thế giới bởi tại thời điểm đó, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam chỉ thừa nhận chế 1 Nguyễn Văn Cừ (2005) - Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr.8. 7 độ tài sản vợ chồng là chế độ tài sản theo luật định trong khi pháp luật các quốc gia trên thế giới đã quy định có hai chế độ tài sản của vợ chồng đó là chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định) và chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định). Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng. Chế độ tài sản dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng – chế độ tài sản ước định theo quan điểm thuần túy pháp lý của các nhà làm luật tư sản, hôn nhân thực chất là một hợp đồng, một khế ước do hai bên nam, nữ thỏa thuận, xác lập trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được phát sinh và thực hiện trong thời kỳ hôn nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. Ở Việt Nam, sau khi Luật HN&GĐ 2014 ghi nhận: “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận”(khoản 1 Điều 28) thì đã xuất hiện một số khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, ví dụ như khái niệm: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là chế độ tài sản mà theo đó vợ chồng cùng thỏa thuận về việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ.Thỏa thuận này được thể hiện dưới dạng văn bản và dưới nhiều tên gọi khác nhau như hôn ước, hợp đồng tiền hôn nhân hoặc thỏa thuận trước hôn nhân”2. Hay khái niệm của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là chế độ tài sản của vợ chồng xác lập theo thỏa thuận của vợ chồng bằng văn bản được lập từ trước khi kết hôn quy định về quan hệ 2 Nguyễn Thị Kim Dung(2014) Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hả Nội, Tr. 17. 8 sở hữu tài sản của vợ chồng, gồm: căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó và nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng”3 Dù hiểu theo quan điểm nào thì chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận cũng là chế độ tài sản xác lập theo thỏa thuận của vợ chồng được thể hiện bằng văn bản, do vợ chồng cùng nhau thỏa thuận từ trước khi kết hôn với mục đích để điều chỉnh quan hệ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là một trong hai chế độ tài sản của vợ chồng, nên nó mang đầy đủ các đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng, như: chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp, luôn hướng đến mục tiêu bảo đảm quyền lợi của gia đình trong đó có lợi ích cá nhân của vợ chồng; chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời, chế độ này có những đặc điểm riêng biệt so với chế độ tài sản theo luật định, cụ thể: Thứ nhất, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận do hai bên vợ chồng tự do thỏa thuận một cách tự nguyện, bình đẳng. Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định cho phép vợ, chồng tự do bàn bạc và xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng. Chính nhờ đặc điểm này mà chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận mang lại sự ưu việt hơn trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt tài sản theo ý chí của cá nhân vợ, chồng. Thứ hai, chế độ này phải được thiết lập thông qua văn bản thỏa thuận do vợ chồng lập trước khi kết hôn, tuy nhiên, chế độ chỉ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định không cần vợ, chồng 3 Nguyễn Thị Thu Thủy (2015), Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tr.6. 9 thể hiện bằng ý chí chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận chỉ được công nhận khi ý chí của các bên tham gia thỏa thuận được thể hiện rõ ràng bằng văn bản. Thứ ba, chế độ này có phần đề cao quyền lợi cá nhân của vợ chồng so với chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Mặc dù vẫn hướng tới việc đảm bảo quyền lợi chung của gia đình, song chế độ tài sản này cho phép vợ, chồng có thể tự do hơn trong việc thực hiện quyền sở hữu tài sản của riêng mình. Đối với chế độ này, quyền tự định đoạt của cá nhân được bảo đảm hơn, các quan hệ tài sản được thực hiện phù hợp hơn với điều kiện gia đình, điều kiện kinh tế của vợ chồng. Người vợ, người chồng có thể tự do hơn trong việc thực hiện quyền ở hữu đối với tài sản cả nhân, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của mình nhưng bẫn bảo đảm lợi ích chung của gia đình. Thứ tư, các thỏa thuận trong hôn ước của vợ chồng có tính ổn định cao, được thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Vì quyền lợi của vợ chồng, quyền lợi của gia đình và quyền lợi của người thứ ba nên về nguyên tắc, các thỏa thuận này không thể thay đổi sau khi kết hôn, tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu không ngừng biến động của chế độ kinh tế xã hội nói chung, biến động về tài sản và nhu cầu của vợ chồng nói riêng mà việc sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản theo thỏa thuận đã được thừa nhận và áp dụng ở nhiều quốc gia. 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận Thứ nhất, chế độ tài sản theo thỏa thuận sẽ giúp vợ chồng phân định được các loại tài sản, xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng, tạo điều kiện để vợ, chồng có những cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội. Việc phân định rạch ròi tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là riêng giúp cho các giao dịch dân sự bằng tài sản của mỗi người được bảo đảm được thực hiện, mỗi người có thể tự trách nhiệm bằng tài sản đó. Bởi trên thực tế, việc 10 nhập nhằng tài sản chung, riêng của vợ chồng gây nhiều phiền toái trong các quan hệ làm ăn, kinh doanh hoặc có thể tình cảm của vợ chồng khi đã rơi vào tình trạng “cơm không lành, canh không ngọt” thì vấn đề phân chia tài sản vợ chồng là vấn đề cũng rất phức tạp Thứ hai, chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng góp phần điều tiết, ổn định quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng phải ký kết rất nhiều hợp đồng dân sự với người khác, nhờ có thỏa thuận xác lập chế độ tài sản vợ chồng giúp cho các giao dịch đó được đảm bảo thực hiện, quyền lợi của vợ chồng, của người tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng được bảo vệ. Thứ ba, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng còn là căn cứ để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Chỉ khi nào vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu thì mới áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Thứ tư, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận được ghi nhận thể hiện sự tôn trọng đối với quyền tự do định đoạt các vấn đề liên quan đến tài sản của vợ chồng, vợ chồng được tự do thỏa thuận về các vấn đề về tài sản miễn là các thỏa thuận ấy không vi phạm pháp luật và trái đạo đức xã hội, bảo đảm quyền tự định đoạt của công dân về sở hữu tài sản. Điều này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015. Thứ năm, ghi nhận thỏa thuận về chế độ tài sản này của vợ chồng có thể giúp vợ chồng chủ động trong hoạt động kinh doanh, hạn chế rủi ro về tài sản có thể xảy đến cho gia đình cũng như tránh được những tranh chấp phát sinh trong quan hệ tài sản của hai bên vợ chồng, bảo vệ tài sản riêng của mỗi bên, 11 mang lại sự minh bạch trong quan hệ tài sản của vợ chồng, đồng thời hướng đến xây dựng cuộc sống gia đình bền vững. Việc thỏa thuận tài sản trước khi kết hôn còn đảm bảo cho một cam kết hôn nhân thực sự chứ không vì hôn nhân vụ lợi. Sự cụ thể hóa, rạch ròi trong quan hệ tài sản trước khi kết hôn không hề tạo ra sự nghi ngại, ngăn cách giữa hai vợ chồng, thể hiện sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, không có ý thức xây dựng cuộc sống gia đình bền vững như nhiều người lầm tưởng. Việc lập hôn ước có thể củng cố vững chắc quan hệ vợ chồng, bởi nếu hiểu rõ ràng ý kiến của nhau về tiền bạc, tài sản sẽ giúp cuộc hôn nhân lâu bền hơn. Thứ sáu, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thừa nhận giúp đảm bảo quyền và lợi ích của người thứ ba – những người khác có liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Khi vợ, chồng tham gia vào các giao dịch dân sự với bên thứ ba, nhờ có sự thỏa thuận rõ ràng, cụ thể về tài sản của vợ, chồng mà người thứ ba tham gia giao dịch có thể đánh giá được mức độ rủi ro khi họ tiến hành hoạt động mua bán, tặng cho, cầm cố tài sản…với vợ hoặc chồng. Bởi lẽ, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với các nội dung cụ thể được thể hiện bằng văn bản giúp bên thứ ba dễ dàng xác định được nghĩa vụ vợ, chồng phải thực hiện được đảm bảo bằng tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Thứ bảy, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là cơ sở giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt công tác xét xử và thi hành án, giúp giảm thiểu các xung đột và tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng trong trường hợp cần phân chia tài sản, đặc biệt là khi ly hôn. Nếu như với chế độ tài sản pháp định, Tòa án thường gặp nhiều khó khăn trong việc xác định cụ thể đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng nằm trong khối tài sản đang tranh chấp thì với chế độ tài sản ước định, thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng được thể hiện dưới dạng văn bản, lập trước khi kết hôn là cơ sở, căn cứ quan trọng để Tòa án giải quyết vụ việc một cách dễ dàng. 12 1.2. Ngƣời thứ ba và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời thứ ba trong chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận 1.2.1. Khái niệm người thứ ba Pháp luật dân sự cũng như pháp luật về hôn nhân gia đình đã có nhiều quy định liên quan đến người thứ ba, tuy nhiên chưa có một khái niệm nào về người thứ ba được đưa ra. Trong quan hệ hôn nhân, việc phát sinh các giao dịch trong thời kỳ hôn nhân của hai vợ chồng là một nhu cầu tất yếu của đời sống. Những giao dịch giữa người thứ ba và vợ chồng được xác lập một cách thường xuyên, liên tục, từ những giao dịch đơn giản có giá trị nhỏ như đi chợ phục vụ bữa ăn hàng ngày đến những giao dịch phức tạp, có giá trị lớn chuyển nhượng nhà đất… đều có thể có sự xuất hiện của người thứ ba. Tham gia vào các giao dịch này, vợ chồng, những người xác lập giao dịch với họ có các cách xử sự khác nhau và đều mong muốn đạt được những lợi ích riêng của mình. Những cách xử sự này có thể ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến các bên trong giao dịch, những người xung quanh. Do vậy, trước đòi hỏi cách xử sự của con người trong các mối quan hệ xã hội nói chung phải phát triển theo trật tự, cách thức nhất định được đề ra từ trước, pháp luật nói chung và pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng không chỉ điều chỉnh các mối quan hệ giữa vợ và chồng, mà còn phải có cơ chế điều chỉnh các mối quan hệ giữa vợ chồng với những thành viên khác của xã hội, các thành viên này chính là những người thứ ba. Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản rằng, người thứ ba trong quan hệ tài sản của vợ chồng là người không phải vợ, chồng và có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chế độ tài sản của vợ chồng. Sự liên quan này thể hiện ở việc quyền, lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ của người thứ ba bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng trong thời kì hôn nhân. Trong đó, người thứ ba có thể là cha, mẹ, con cái, các thành viên khác trong gia đình hoặc những người trực tiếp hoặc gián tiếp xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến chế độ tài 13 sản của vợ chồng theo thỏa thuận, người thứ ba không chỉ được hiểu là cá nhân con người cụ thể mà có thể là tổ chức, pháp nhân, các chủ thể khác trong quan hệ dân sự. Với tính chất cộng đồng đặc thù của quan hệ hôn nhân, từ hình thức sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản chung được ghi nhận trong BLDS và các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014, quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba được cả pháp luật dân sự nói chung và pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng bảo đảm. Trong phạm vi Luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba là các cá nhân, tổ chức, chủ thể khác trực tiếp hoặc gián tiếp xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. 1.2.2. Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong viêc thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận Không chỉ trong quan hệ hôn nhân gia đình, mà trong bất kỳ một mối quan hệ nào trong cuộc sống, các giao dịch được xác lập giữa các chủ thể không đơn thuần là chỉ liên quan đến quyền và lợi ích của chính các chủ thể xác lập mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Do vậy, yêu cầu về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba liên quan đến việc thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận luôn là một vấn đề rất được quan tâm, xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba nhìn một cách rộng hơn còn là bảo vệ những lợi ích chung của toàn xã hội. Đó là bảo vệ sự ổn định và an toàn của các giao dịch dân sự đã được các chủ thể tham gia giao dịch xác lập. Sự rõ ràng về chế độ tài sản thể hiện thông qua văn bản thỏa thuận về tài sản của vợ chồng giúp bên thứ ba dễ dàng xác định được nghĩa vụ vợ, chồng phải thực hiện, đồng thời sự ổn định về chế độ tài sản khi vợ chồng theo thỏa thuận nếu được đảm bảo thì sẽ tạo ra môi trường 14 an toàn và ổn định cho các chủ thể khi quyết định thực hiện một giao dịch dân sự để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Do đó, tạo sự thúc đẩy các giao lưu dân sự, thương mại phát triển và sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang chuyển mình hội nhập của nước ta hiện nay. Thứ hai, tính chất của mối quan hệ của vợ chồng là mối quan hệ bền vững lâu dài để cùng xây dựng gia đình, vì thế, quan hệ tài sản của vợ chồng có tính đặc thù. Trong chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, vợ chồng có thể thỏa thuận các nội dung liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng về cơ chế xác lập, hình thành và cách thức thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản. Tuy nhiên, mối quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng có những ràng buộc nhất định về các nghĩa vụ chung như nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình... Do vậy, không có một cá nhân nào có sự tách bạch hoàn toàn về tài sản khi tham gia quan hệ hôn nhân. Ngoài ra, do tính chất xã hội Việt Nam đề cao tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân, khi xác lập giao dịch với người thứ ba, việc cả hai bên vợ chồng với tư cách đại diện cho cả gia đình, hoặc mỗi bên vợ hoặc chồng có thể đại diện cho nhau, hay chỉ mang tư cách cá nhân mình sẽ dẫn đến sự khác biệt về chủ thể có quyền và nghĩa vụ trong giao dịch. Trong một số trường hợp, bản chất của mối quan hệ chỉ có hai bên là người đó và một bên vợ hoặc chồng do giao dịch được xác lập trên phần tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Trong một số trường hợp khác, họ là một bên của giao dịch và bên còn lại có thể là vợ và chồng liên đới chịu trách nhiệm. Cũng có khi, vợ hoặc chồng xác lập giao dịch với họ lại không có tư cách chủ thể do xác lập trên tài sản riêng của người còn lại. Do tính chất phức tạp ấy, cần thiết phải có quy định cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi xác lập giao dịch với vợ chồng. Thứ ba, thực tiễn đã ghi nhận rất nhiều tranh chấp trong các giao dịch được xác lập liên quan đến tài sản của vợ chồng với người thứ ba. Với sự phát
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất