BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHẠM THỊ PHƯƠNG LOAN
CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN HỮU CHÍ
HÀ NỘI - 2011
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn, em xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc
nhất đến các thầy cô giáo khoa Pháp luật Kinh tê s- Trường Đại học Luật Hà
Nội, đặc biệt là thầy giáo – PGS. TS. Nguyễn Hữu Chí đã giúp đỡ em hoàn
thành luận văn này. Do thời gian nghiên cứu và trình độ có giới hạn nên luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, vì vậy em mong nhận được sự
đóng góp của các thầy cô, các bạn sinh viên để công trình ngày càng hoàn thiện
hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
1
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG
VÀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG
1.1.
Tai nạn lao động
1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động
Mỗi năm cả nước ta có hàng nghìn vụ TNLĐ xảy ra, làm hàng trăm người
chết, năm 2002 xảy ra 4.298 vụ TNLĐ, làm 514 người chết; năm 2009 con số đó
đã tăng lên là 6.250 vụ, làm 550 người chết [1]. Vậy TNLĐ là gì? Có rất nhiều
cách hiểu khác nhau về TNLĐ, mỗi lĩnh vực, mỗi quốc gia, dân tộc lại có các
cách định nghĩa khác nhau.
Theo Báo cáo hội nghị các chuyên gia về việc ghi chép, khai báo TNLĐ
và BNN tại Giơnevơ tháng 10 năm 1994 thì TNLĐ được định nghĩa là sự cố xảy
ra trong khi đang làm việc hoặc không làm việc dẫn đến tai nạn lao động chết
người hoặc tai nạn lao động không chết người [3].
Từ điển Sức khỏe môi trường và nghề nghiệp Lewis lại định nghĩa TNLĐ
là một sự kiện không được lập kế hoạch, không biết trước và không mong muốn
có thể hoặc không gây ra thiệt hại về thể chất và/hoặc phá hủy tài sản; hoặc bất
kỳ sự kiện nào không mong muốn gây trở ngại hoặc cản trở quy trình sản xuất
hoặc một quá trình [19].
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, TNLĐ được hiểu là tai nạn bất ngờ
xảy ra do lao động hay trong quá trình lao động, có thể gây tử vong hoặc gây
cho cơ thể một tổn thương hoặc một rối loạn chức năng vĩnh viễn hay tạm thời.
Có rất nhiều loại TNLĐ: ngã, đụng dập, điện giật, cháy, bỏng, dây curoa cuốn
tóc làm lột da đầu, máy nghiền nát tay, các trường hợp nhiễm độc hoá chất cấp
tính do sự cố (vd. khí clo thoát ra nhiều làm cho công nhân bị ngạt thở, phù phổi
cấp), tai biến giảm áp cấp xảy ra đối với thợ lặn, vv.[18]
Trong văn bản pháp lý của Việt Nam, TNLĐ được định nghĩa “là tai nạn
gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động
2
hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện
công việc, nhiệm vụ lao động” (Đ105, BLLĐ).
Tại TT số 10/2003/TT-BLĐTBXH ngày 18 tháng 04 năm 2003 cũng chỉ ra
TNLĐ là tai nạn xảy ra do tác động bởi các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong lao
động gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao
động hoặc gây tử vong trong quá trình lao động gắn liền với việc thực hiện công
việc, nhiệm vụ lao động (kể cả thời gian giải quyết các nhu cầu cần thiết trong
thời gian làm việc theo Bộ Luật Lao động quy định như: nghỉ giải lao, ăn giữa
ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh,
thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc).
Như vậy, dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về TNLĐ nhưng nhìn
chung đều thống nhất TNLĐ là tai nạn xảy ra đối với người lao động trong quá
trình làm việc, gây thiệt hại về người hoặc người và của. Và so với quan điểm
của thế giới thì cách định nghĩa về TNLĐ của Việt Nam trong văn bản pháp lý
là khá đầy đủ, chính xác và rõ ràng.
Từ những định nghĩa trên có thể hiểu khái niệm tai nạn lao động gồm
những nội dung cơ bản sau:
1) Người bị TNLĐ ở đây phải là người lao động làm việc theo chế độ hợp
đồng lao động trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Theo quy
định tại Đ6 - BLLĐ, người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao
động và có giao kết hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động phải được giao kết
theo một trong các loại sau đây: hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc
theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng (Đ27-BLLĐ). Hình thức
của hợp đồng lao động được thể hiện dưới 3 dạng: dạng bằng văn bản, dạng
bằng miệng và dạng bằng hành vi (Đ28-BLLĐ, Đ3-NĐ 44/2003).
2) Hậu quả do TNLĐ gây ra là làm cho các bộ phận, chức năng của cơ thể
con người bị tổn thương như gãy tay, gãy chân, mù mắt…hoặc bản thân người
3
lao động bị tử vong. Ngoài ra TNLĐ còn có thể dẫn tới sự thiệt hại về của cải,
vật chất như sập nhà, hỏng máy móc…
3) Địa điểm xảy ra TNLĐ là tại một trong ba nơi: tại nơi làm việc theo
quy định và thỏa thuận trong hợp đồng lao động, hoặc ngoài nơi làm việc theo
yêu cầu của người sử dụng lao động, hoặc trên tuyến đường đi và về từ nơi ở
đến nơi làm việc và ngược lại.
4) Thời gian xảy ra TNLĐ gắn liền với địa điểm xảy ra TNLĐ, đó là trong
giờ làm việc. Việc xác định “trong giờ làm việc” căn cứ vào sự thỏa thuận trước
đó giữa người lao động và người sử dụng lao động, trên cơ sở quy định của pháp
luật. Thời giờ làm việc có thể là ngày hoặc đêm, có thể là 7 hay 8 tiếng/ngày
nhưng không quá tám giờ trong một ngày hoặc bốn tám giờ trong một tuần
(Đ68, Đ69, Đ70-BLLĐ). Thời gian xảy ra tai nạn cũng được tính là thời điểm
xảy ra TNLĐ là thời gian ngoài giờ làm việc khi người lao động đang làm công
việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động và thời điểm người lao động bị tai
nạn khi đang trên đường đi làm hoặc đang trên đường về trong khoảng thời gian
và tuyến đường hợp lý.
5) TNLĐ xảy ra là do có sự tác động bởi những yếu tố nguy hiểm, độc hại
trong quá trình thực hiện công việc, nhiệm vụ mà chủ sử dụng lao động giao
cho, ví dụ yếu tố nguy hiểm trong nghề thợ điện là trèo cao, điện giật…; trong
nghề thợ mỏ là sập hầm, mắc kẹt…Bên cạnh đó trường hợp người lao động bị
tai nạn khi đang làm việc do tác động bởi những yếu tố khách quan, không phải
do công việc gây ra như sét đánh, lũ lụt, hỏa hoạn, động đất…cũng được coi là
bị TNLĐ, miễn là tai nạn xảy ra khi họ đang làm nhiệm vụ mà người sử dụng
lao động giao cho, không nhất thiết tai nạn đó phải do chính công việc họ đang
thực hiện gây nên.
Như vậy, với 5 đặc điểm trên đã có thể giúp ta có được cái nhìn đầy đủ,
khái quát về TNLĐ. Nhưng về bản chất, cũng như sự tác động của TNLĐ gây ra
cho con người như thế nào thì phần tiếp theo của bài luận văn sẽ giúp ta hiểu rõ
hơn.
4
1.1.2. Phân biệt tai nạn lao động với các hình thức rủi ro khác
Việc phân biệt, nhận biết đâu là TNLĐ rất quan trọng, bởi ngoài TNLĐ
thì tai nạn giao thông, tai nạn do thiên tai, tai nạn do bệnh dịch, hoặc bệnh nghề
nghiệp cũng được coi là những dạng khác nhau của tai nạn mà người lao động
có thể gặp phải, mỗi dạng tai nạn lại có những chế độ pháp lý khác nhau, nếu
không xác định rõ sẽ dễ áp dụng nhầm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
người lao động cũng như các chủ thể khác có liên quan, đơn giản như nếu người
lao động bị TNLĐ nhưng lại xác định là tai nạn giao thông thì quyền lợi của
người lao động sẽ bị ảnh hưởng, họ sẽ không được hưởng các chế độ bồi thường
từ chủ sử dụng lao động, không được hưởng trợ cấp từ BHXH nếu như không
tham gia đóng bảo hiểm, việc giải quyết các chế độ khác như viện phí, việc
làm… cũng gặp khó khăn.
Nhận thấy đây là vấn đề quan trọng, cần thiết nên tác giả đã đưa việc phân
biệt TNLĐ với tai nạn rủi ro và bệnh nghề nghiệp làm thành một mục trong luận
văn, qua đó mong muốn giúp người lao động nói riêng và người đọc nói chung
xác định được chính xác đâu là TNLĐ, đâu là những hình thức rủi ro khác, từ đó
xác định được đúng chế độ mà người lao động sẽ được hưởng.
a. Phân biệt tai nạn lao động với tai nạn rủi ro
Trước khi chỉ ra những điểm khác nhau giữa TNLĐ và tai nạn rủi ro, cũng
cần phải nhận thấy điểm giống nhau giữa hai loại hình rủi ro này, đó là:
Thứ nhất, giống nhau về chủ thể bị tai nạn, có thể đều là người lao động.
Người lao động có thể bị tai nạn lao động, cũng có thể bị tai nạn rủi ro;
Thứ hai, giống nhau về hậu quả, hậu quả do tai nạn lao động và tai nạn rủi
ro gây ra đều là làm cho các bộ phận, chức năng của cơ thể người lao động bị
tổn thương hoặc dẫn đến tử vong. Ngoài ảnh hưởng trực tiếp lên cơ thể thì tai
nạn lao động và tai nạn rủi ro còn đưa đến hậu quả gián tiếp cho người lao động
5
về công việc, kinh tế và tinh thần như hao tốn tiền của, phải điều chuyển công
việc, tinh thần hoảng sợ, lo lắng v.v…
Tuy có những điểm chung như trên nhưng TNLĐ khác tai nạn rủi ro, đó
là:
Thứ nhất, về chủ thể bị tai nạn, chủ thể của TNLĐ hẹp hơn so với tai nạn
rủi ro. Theo quy định của Luật BHXH và Bộ luật lao động, đối tượng được áp
dụng chế độ TNLĐ chỉ là người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao
động trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Còn chủ thể của tai nạn rủi ro
rộng hơn, bao gồm cả chủ thể của TNLĐ và các cá nhân khác như trẻ em, học
sinh, sinh viên, nông dân…Người lao động sẽ là chủ thể của tai nạn rủi ro nếu
họ bị tai nạn trên đường đi chơi, đi làm việc không theo yêu cầu của chủ sử dụng
lao động…Như vậy chủ thể của TNLĐ phải là những người được quy định trong
luật, thuộc đối tượng được hưởng chế độ tai nạn lao động.
Thứ hai, về địa điểm xảy ra tai nạn, đối với TNLĐ, nơi xảy ra tai nạn
được quy định hẹp trong phạm vi tại nơi làm việc, đó có thể là trong trang trại,
cơ sở sản xuất hoặc trên tàu, thuyền…tùy thuộc vào công việc và thỏa thuận
giữa người lao động và chủ sử dụng lao động; ngoài ra, pháp luật cũng thừa
nhận trường hợp người lao động bị tai nạn ngoài nơi làm việc khi đi làm nhiệm
vụ theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động hoặc bị tai nạn khi đi và về từ nơi ở
đến nơi làm việc trên tuyến đường và thời gian hợp lý cũng được xác định là địa
điểm xảy ra TNLĐ. Còn đối với tai nạn rủi ro, pháp luật không hạn chế về địa
điểm nơi xảy ra tai nạn, đó có thể là bất cứ đâu, có thể trùng với địa điểm của
TNLĐ.
Thứ ba, về thời gian xảy ra tai nạn: đối với TNLĐ, pháp luật quy định tai
nạn xảy ra phải là trong giờ làm việc, bao gồm cả giờ giải lao, ăn giữa ca, vệ
sinh, tắm rửa... Ngoài ra pháp luật cũng thừa nhận hai trường hợp ngoại lệ, đó là
trường hợp người lao động bị tai nạn ngoài giờ làm việc nhưng gắn liền với việc
thực hiện nhiệm vụ do người sử dụng lao động giao cho và trường hợp người lao
động bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng
6
thời gian và tuyến đường hợp lý thì cũng được coi là bị TNLĐ. Còn đối với tai
nạn rủi ro, pháp luật không hạn chế về thời gian xảy ra tai nạn, đó có thể là ngày
hoặc đêm, trong giờ làm việc hoặc ngoài giờ.
b. Phân biệt tai nạn lao động với bệnh nghề nghiệp
Về đối tượng được hưởng và mức bồi thường TNLĐ và BNN là như
nhau, pháp luật không có sự phân biệt, bởi đó đều là những rủi ro mà người lao
động phải chịu từ việc thực hiện công việc, nhiệm vụ mà người sử dụng lao
động giao cho. Tuy nhiên cần phải nhận biết được TNLĐ khác BNN, chúng
không giống nhau về bản chất, dấu hiệu.
Theo quy định của pháp luật, BNN là bệnh phát sinh do các yếu tố điều
kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động tới người lao động theo danh mục
các loại bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
ban hành (Khoản a, điểm 1, phần II, TT số 10/2003/TT-BLĐTBXH). Còn
TNLĐ là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể
người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với
việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động (Đ 105 - BLLĐ). Như vậy có nghĩa
là TNLĐ và BNN xuất hiện đều là do có sự tác động bởi những yếu tố nguy
hiểm, độc hại trong quá trình thực hiện công việc, nhiệm vụ mà người sử dụng
lao động giao cho, nhưng sự tác động của TNLĐ lại đến tức thì, nhanh chóng,
có thể chỉ trong vài giây đã gây nên tổn thương cho người lao động, còn sự tác
động của BNN phải trải qua một quãng thời gian nhất định để các yếu tố nguy
hiểm, độc hại ngấm dần, ăn sâu trong cơ thể người lao động, sau đó mới phát
thành bệnh, tuy nhiên cũng có những loại bệnh chỉ phát trong thời gian ngắn
nhưng nó cũng phải mất một khoảng thời gian nhất định chứ không xảy ra tức
thì như đối với TNLĐ. Theo nghiên cứu của Bộ Y tế, để những yếu tố độc hại
trong môi trường tác động tới người lao động và phát thành bệnh thì phải mất
một khoảng thời gian là 5 năm trở lên.
Những chấn thương do TNLĐ gây ra thông thường biểu hiện ở bên ngoài
cơ thể, mắt thường có thể dễ dàng nhìn thấy được như gãy tay, gãy chân, chảy
7
máu…Còn thương tật do BNN gây ra thường ẩn dấu trong cơ thể, khó nhìn thấy,
sau một khoảng thời gian mới phát bệnh ra ngoài cơ thể, chính vì vậy nhiều
người lao động khi phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở giai đoạn cuối, không thể
chữa trị như bệnh ung thư.
Di chứng do TNLĐ gây ra sau một thời gian điều trị sẽ dễ khỏi hơn so với
di chứng của BNN. Di chứng của BNN rất dễ tái phát khi gặp điều kiện như thời
tiết lạnh, môi trường ô nhiễm, ẩm ướt, nhiều tiếng ồn…và nó còn có thể ảnh
hưởng tới con cái cũng như nhiều đời sau, những người có cùng huyết thống với
người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp, ví dụ như nếu người lao động bị
nhiễm độc hóa chất khi mang thai sẽ ảnh hưởng tới con, con sinh ra dễ bị dị
dạng, khiếm khuyết…
Theo quy định của pháp luật, để đủ điều kiện xác nhận căn bệnh mà người
lao động mắc phải là BNN thì nó phải nằm trong Danh mục 21 BNN được bồi
thường quy định tại phụ lục 1, TT số 10/2003/TT-BLĐTBXH như bệnh bụi
phổi, bệnh nhiễm độc chì, bệnh điếc do tiếng ồn v.v…Còn đối với TNLĐ, pháp
luật không quy định tai nạn xảy ra phải thuộc danh mục nào mới được coi là
TNLĐ, miễn là nó đủ các điều kiện về chủ thể, công việc, thời gian và địa điểm.
Về chế độ trợ cấp, trường hợp bị TNLĐ, căn cứ vào lỗi trực tiếp để xảy ra
tai nạn và chủ thể bồi thường là người sử dụng lao động, pháp luật chia thành
hai trường hợp, nếu tai nạn xảy ra lỗi trực tiếp do người sử dụng lao động thì
người lao động được bồi thường, còn nếu lỗi do người lao động thì họ được
hưởng trợ cấp. Còn trường hợp bị BNN thì nguyên nhân gây bệnh luôn luôn là
do thực hiện công việc mà người sử dụng lao động giao cho, vì vậy người lao
động bị BNN sẽ được bồi thường từ người sử dụng lao động, không có loại hình
trợ cấp như TNLĐ.
1.1.3. Tình hình tai nạn lao động ở Việt Nam
Việc nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình TNLĐ có một vai trò rất quan
trọng, nó giúp chúng ta thấy được diễn biến của hiện tượng này qua các năm,
các giai đoạn như thế nào, xu hướng tăng hay giảm? mức độ tăng, giảm nhiều
8
hay ít… Qua đây ta cũng có thể biết được địa phương nào, lĩnh vực nào thường
xảy ra nhiều TNLĐ nhất? Từ đó dễ dàng tìm ra nguyên nhân và giải pháp.
Nhìn chung, theo các báo cáo của BLĐTBXH, số lượng vụ TNLĐ xảy ra
hàng năm ở Việt Nam là khá cao và có xu hướng tăng lên cả về số vụ và số
người chết. Năm 2002, người ta thống kê được 4.298 vụ TNLĐ đã xảy ra, làm
4.521 người bị nạn, trong đó có 514 người bị chết và 1.206 người bị thương
nặng, trong số 449 vụ TNLĐ chết người có 95 vụ có từ hai người bị nạn trở lên.
Đến năm 2009, con số đó đã là 6.250 vụ TNLĐ, tăng lên 1.952 vụ, trong đó có
507 vụ TNLĐ chết người làm 550 người chết, 1.221 người bị thương nặng và có
88 vụ có từ hai người bị nạn trở lên. Và chỉ trong thời gian 6 tháng đầu năm
2010, trong cả nước đã xảy ra 2.611 vụ TNLĐ làm 2.680 người bị nạn, trong đó
số vụ tai nạn chết người là 245 vụ, số người chết là 266 người, số người bị
thương nặng là 525 người [1], [2].
Dưới đây là bảng So sánh tình hình TNLĐ 6 tháng đầu năm 2010 với
cùng kỳ năm 2009, qua đó thấy được tình trạng đáng báo động về TNLĐ ở Việt
Nam.
STT
Chỉ tiêu
6 tháng
Cùng kỳ
đầu năm
năm 2009
Tăng/giảm
2010
1
Số vụ
2611
1958
653 (33,3%)
2
Số nạn nhân
2680
1998
682 (34,1%)
3
Số vụ có người chêt
245
231
14 (6,1%)
4
Số người chêt
266
239
27 (11,3%)
5
Số người bị thương nặng 525
418
107 (25,6%)
6
Số lao động nữ
328
356 (108,5%)
7
Số vụ có hai người bị 50
28
22 (78,6%)
684
9
nạn trở lên
Bảng 1: So sánh tình hình TNLĐ 6 tháng đầu năm 2010 và cùng kỳ năm
2009
(Nguồn: Thông báo số 2772/TB-BLĐTBXH ngày 12/8/2010)
Qua số liệu trên có thể thấy được tình hình TNLĐ ở Việt Nam đang diễn
ra ngày càng phức tạp và khó kiểm soát, cụ thể là:
Về tình hình TNLĐ ở các địa phương: các vụ TNLĐ xảy ra thường tập
trung nhiều ở những tỉnh, thành phố có đông khu công nghiệp, doanh nghiệp
khai thác mỏ và xây dựng như Quảng Ninh, tp Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình
Dương, Hải Dương, Thái Nguyên…Theo báo cáo của BLĐTBXH, những tỉnh,
thành phố sau xảy ra nhiều vụ TNLĐ nhất, đó là tp HCM, năm 2002 xảy ra
1.195 vụ TNLĐ làm 1.228 người bị nạn, trong đó có 55 vụ TNLĐ chết người
làm 69 người chết, chiếm 12,2% tổng số vụ TNLĐ chết người; đứng thứ hai là
Đồng Nai với 652 vụ TNLĐ làm 662 người bị nạn, trong đó có 13 vụ chết người
làm 14 người bị chết, chiếm 2,9% tổng số vụ chết người; tiếp theo là các tỉnh Hà
Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Nguyên, Khánh Hòa…Năm 2008 những
tỉnh, thành phố trên vẫn dẫn đầu về địa phương để xảy ra nhiều vụ TNLĐ nhất,
tp Hồ Chí Minh xảy ra 361 vụ TNLĐ, Quảng Ninh là 350 vụ, Đồng Nai là 1699
vụ, Bình Dương là 746 vụ…Trong đó Hải Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình
Thuận là những địa phương có số vụ TNLĐ chết người tăng cao so với năm
2007. Tới sáu tháng đầu năm 2010, trên toàn quốc có 2611 vụ TNLĐ làm 2680
người bị nạn thì trong đó có tới 1547 vụ TNLĐ là xảy ra ở những địa phương
trên, chiếm 59,24% vụ TNLĐ toàn quốc [ ].
STT Địa phương
Số vụ
Số
chết
người
vụ Số người Số người Số người
bị nạn
chết
bị
thương
nặng
10
1
Tp
Hồ
Chí 167
41
176
42
16
Minh
2
Hà Nội
68
19
70
21
34
3
Bình Dương
66
16
78
16
4
4
Quảng Ninh
146
10
151
11
86
5
Hải Dương
22
10
28
10
18
6
Thái Nguyên
72
9
76
9
20
7
Đồng Nai
936
7
937
7
56
8
Bà
7
21
7
8
Rịa-Vũng 21
Tàu
9
Hà Tĩnh
16
6
21
7
12
10
Quảng Bình
33
6
34
6
19
Bảng 2: 10 địa phương xảy ra nhiều TNLĐ chết người nhất
(Nguồn: Thông báo số 2772/TB-BLĐTBXH ngày 12/8/2010)
Trong số những vụ TNLĐ trên thì nghiêm trọng nhất là vụ TNLĐ xảy ra
khoảng 9h ngày 13/4/2010 tại mỏ đá thuộc HTX Minh Tâm, thị xã Hồng Lĩnh,
tỉnh Hà Tĩnh đã xảy ra vụ TNLĐ do nổ mìn khiến 2 người chết, 3 người bị
thương và vụ TNLĐ xảy ra lúc 8h30 ngày 9/5/2010 tại CTy CP chế biến thực
phẩm Vĩnh Kiên tại An Khương, Minh Hòa, Châu Thành, Kiên Giang do nổ nồi
hơi đã làm 3 người chết, 15 người bị thương nặng [ ].
Về tình hình TNLĐ theo loại hình cơ sở sản xuất: dựa trên những báo cáo
của các địa phương gửi về, BLĐTBXH đã tiến hành tổng hợp và đưa ra được
con số 61% số vụ TNLĐ và 61% tổng số người chết là xảy ra ở loại hình công ty
TNHH và công ty cổ phần; loại hình công ty cổ phần vốn nhà nước chiếm 10%
tổng số vụ TNLĐ và 13% tổng số người chết; loại hình doanh nghiệp nhà nước
chiếm 12% tổng số vụ TNLĐ và 11% tổng số người chết; còn loại hình doanh
nghiệp tư nhân chiếm 9% tổng số vụ TNLĐ và 8% tổng số người chết. Như vậy
loại hình công ty TNHH và công ty cổ phần là nơi để xảy ra nhiều vụ TNLĐ
nhất, một phần do đây là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số đang tồn tại và
- Xem thêm -