Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chế độ công vụ của nhà nguyễn dưới triều gia long và minh mệnh (1802 1841)...

Tài liệu Chế độ công vụ của nhà nguyễn dưới triều gia long và minh mệnh (1802 1841)

.PDF
360
520
143

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THU HIỀN CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ CỦA NHÀ NGUYỄN DƢỚI TRIỀU GIA LONG VÀ MINH MỆNH (1802-1841) Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số : 9. 22. 90. 13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Thị Phƣơng Chi HÀ NỘI-2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu được sử dụng trong luận án hoàn toàn trung thực, khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Hà Nội, ngày 29 tháng 11 năm 2018 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Phạm Thị Thu Hiền LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Thị Phương Chi, giáo viên hướng dẫn, người đã luôn đồng hành, giúp đỡ về mặt khoa học và là chỗ dựa tinh thần quan trọng để giúp tôi hoàn thành luận án này. Tôi hết lòng cảm tạ các thầy cô trong Viện sử học đã động viên, khuyến khích và góp ý nhiều để bản thảo luận án của tôi được hoàn thành. Tôi cũng xin tỏ lòng tri ân sâu sắc tới các thầy cô, đồng nghiệp trong bộ môn Lịch sử Nhà nước và Pháp luật, thầy cô trong Khoa Pháp luật Hành chính – Nhà nước đã luôn chia sẻ, giúp đỡ tôi rất nhiều về tư liệu, sự góp ý về các nội dung của luận án. Đặc biệt, tôi muốn cảm ơn gia đình tôi, bố mẹ, chồng và các con tôi. Gia đình là nguồn động viên lớn lao, là chỗ dựa vững chắc và động lực để tôi cố gắng. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội. ngày 29 tháng 11 năm 2018 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Phạm Thị Thu Hiền MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 2 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 3 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 7 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 8 7. Cơ cấu của luận án 8 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 9 ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2. Nhận xét về kết quả các công trình đã nghiên cứu và những vấn đề luận 9 26 án cần tiếp tục giải quyết Tiểu kết chƣơng 1 28 CHƢƠNG 2: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ THỰC THI CHẾ ĐỘ CÔNG 29 VỤ DƢỚI TRIỀU VUA GIA LONG VÀ MINH MỆNH 2.1. Cơ sở chính trị 29 2.2. Cơ sở kinh tế 41 2.3. Cơ sở xã hội và chính sách giáo dục 47 2.4. Cơ sở tư tưởng 49 2.5. Sự tiếp thu các quy định về chế độ công vụ trước thời Nguyễn 51 Tiểu kết chƣơng 2 54 CHƢƠNG 3: TUYỂN CHỌN, SỬ DỤNG VÀ ĐÃI NGỘ ĐỘI NGŨ 56 THỰC THI CÔNG VỤ 3.1. Phương thức tuyển chọn đội ngũ thực thi công vụ 56 3.2. Sử dụng đội ngũ thực thi công vụ 63 3.3. Chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ thực thi công vụ 74 Tiểu kết chƣơng 3 84 CHƢƠNG 4: HOẠT ĐỘNG THỰC THI CÔNG VỤ 87 4.1. Hoạt động quản lý hành chính, nhân sự 87 4.2. Hoạt động bang giao 92 4.3. Hoạt động bảo vệ chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và trấn áp 94 các cuộc nổi dậy 4.4. Quản lý đê điều 98 4.5. Quản lý đời sống của cư dân 100 4.6. Hoạt động giám sát và khảo xét đội ngũ thực thi công vụ 104 4.7. Hoạt động tố tụng 108 Tiểu kết chƣơng 4 110 CHƢƠNG 5: NHẬN XÉT, ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ KẾ THỪA 112 5.1. Nhận xét 112 5.2. Đặc điểm 123 5.3. Một số giá trị kế thừa đối với chế độ công vụ hiện nay 136 Tiểu kết chƣơng 5 143 KẾT LUẬN 146 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151 PHỤ LỤC 165 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Bộ máy nhà nước BMNN Hoàng Việt luật lệ HVLL Quốc triều hình luật QTHL Đại Nam thực lục ĐNTL DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1 Bảng 2.2 Bảng 2.3 Bảng 5.1 Bảng 5.2 Chức năng của các tào trong Nội Các Tô thuế ruộng đất qua các thời kì (quy đổi ra Kg thóc/mẫu) Thuế đinh năm 1803 (Đơn vị: quan tiền) Số lượng quan lại vi phạm trong các lĩnh vực Số lượng quan lại tham nhũng, sai phạm công việc ở trung ương và địa phương Bảng 5.3 Số lượng hình phạt thực tế được áp dụng thời Gia Long và Minh 135 Mệnh 31 42 44 120 121 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 5.1 Biểu đồ 5.2 Bố trí, sắp xếp quan lại ở trung ương, địa phương qua các năm Tỷ lệ đỗ Hương cống, Cử nhân ở các vùng 115 132 Biểu đồ 5.3 Tỷ lệ người đỗ kì thi Hội ở các vùng 132 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những yếu tố quyết định sự trong sạch và tính hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước cũng như chế độ công vụ đó là con người. Theo Hàn Phi Tử “làm vua mà không có bầy tôi thì làm sao mà có nước được” [135; tr.73] bởi vậy, các vị vua quân chủ khi lên ngôi đã tuyển chọn đội ngũ thừa hành công vụ để làm thay “việc trời”, thừa hành, giúp việc cho nhà vua, cùng vua cai trị dân, chuyển chính sách, mệnh lệnh của nhà nước đến dân và thực hiện các chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước. Tuy nhiên, nước trị hay loạn cốt ở trăm quan, do vậy, vấn đề dùng người của các bậc quân vương là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của một đất nước và tạo nên hiệu quả của một nền hành chính, nền công vụ. Sự vận hành của BMNN, hoạt động tuyển dụng đội ngũ để thực thi công vụ thời quân chủ nói chung, đặc biệt dưới triều Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng cũng như công cuộc cải cách hành chính lớn dưới triều vua Minh Mệnh đã để lại những đóng góp lớn về thể chế nhà nước, kinh tế, xã hội thời quân chủ và trong hoạt động “ôn cố nhi tri tân”. Tuy nhiên, các bài viết, công trình nghiên cứu hiện nay chủ yếu đề cập đến BMNN, tuyển chọn quan lại thời quân chủ Nguyễn. Phạm vi nghiên cứu của các công trình khái quát trong phạm vi thời gian xuyên suốt từ đời vua Nguyễn đầu tiên cho đến thời Tự Đức hoặc đề cập ở mức độ đậm nhạt đến một số khía cạnh như tham nhũng, hình phạt đối với người thừa hành công vụ trong một đời vua, như thời Minh Mệnh. Các vấn đề khác như nghĩa vụ, khảo xét cũng như các hoạt động thực thi công vụ của người thừa hành công vụ và mối tương quan giữa quy định của pháp luật với thực tế công việc của họ cũng đã được nhắc đến nhưng ở mức độ hạn chế, chưa hoặc chưa đề cập một cách có hệ thống dưới triều Nguyễn nói chung, vua Gia Long và Minh Mệnh nói riêng. Bên cạnh đó, Gia Long và Minh Mệnh là hai vị vua đã đặt nền tảng cho sự thống nhất trong BMNN cũng như chế độ công vụ của triều Nguyễn. Do vậy, việc nghiên cứu chế độ công vụ dưới triều Gia Long và Minh Mệnh sẽ góp phần tìm hiểu được phương sách dùng người của cha ông, thực trạng và hiệu quả thi hành công vụ, những giá trị có thể kế thừa đối với cải cách chế độ công vụ hiện nay. Đồng thời, thông qua việc tìm hiểu về 1 phương sách dùng người của triều Nguyễn nói chung và thời vua Gia Long, Minh Mệnh nói riêng sẽ góp phần nhìn nhận, đánh giá lại triều Nguyễn một cách khách quan, công bằng. Với những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: Chế độ công vụ của nhà Nguyễn dưới triều Gia Long và Minh Mệnh (1802 – 1841) làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài luận án nhằm hướng đến làm rõ các nội dung liên quan đến chế độ công vụ dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mệnh. Trên cơ sở đó đánh giá hiệu quả thực thi công vụ, rút ra đặc điểm về chế độ công vụ thời vua Gia Long, Minh Mệnh và một số giá trị kế thừa đối với chế độ công vụ hiện nay. Mặt khác, việc nghiên cứu chế độ công vụ của vua Gia Long và Minh Mệnh sẽ giúp tác giả nâng cao kiến thức trong giảng dạy và khả năng nghiên cứu. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để làm rõ mục đích trên, luận án cần thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, phân tích cơ sở hình thành và thực thi chế độ công vụ nhà Nguyễn dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh trên các bình diện chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, tư tưởng và truyền thống. Thứ hai, luận án đi vào làm rõ các quy định về tuyển dụng, đãi ngộ đối với người thi hành công vụ dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh. Thứ ba, tác giả trên cơ sở thống kê trong chính sử, chủ yếu là ĐNTL để làm rõ các hoạt động thực thi công vụ của đội ngũ thừa hành công vụ thời vua Gia Long và Minh Mệnh. Thứ tư, từ sự phân tích các quy định về tuyển dụng, đãi ngộ và hoạt động thực thi công vụ, luận án nhận xét những điểm tích cực và hạn chế về chất lượng, kỹ năng, năng lực thực thi công vụ của người thừa hành công vụ, đặc biệt là quan lại trong BMNN. Đồng thời, tác giả luận án rút ra một số đặc điểm về chế độ công vụ của nhà nước quân chủ Nguyễn dưới triều Gia Long và Minh Mệnh. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chế độ công vụ của nhà Nguyễn dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mệnh. Trong đó, tác giả tìm hiểu các vấn đề liên quan đến chế độ công vụ 2 như tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ thực thi công vụ; Làm rõ hoạt động thực thi công vụ. Đồng thời từ kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra nhận xét, đặc điểm và một số giá trị kế thừa. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Lãnh thổ thống nhất từ Bắc đến Nam, trừ vùng đất Chân Lạp được đặt thành trấn Tây Thành vào năm 1835. Về thời gian: Từ năm 1802 đến năm 1841, khi vua Gia Long thiết lập vương triều Nguyễn đến khi kết thúc triều vua Minh Mệnh. Về nội dung: Tác giả giải quyết các khía cạnh liên quan đến chế độ công vụ thời vua Gia Long và Minh Mệnh trên một số vấn đề như sau: Tập trung làm rõ đội ngũ thực thi công vụ, chủ yếu là quan lại (quan văn, quan võ và lại viên), Cai tổng và Lý trưởng trên các bình diện như tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ. Làm rõ hoạt động thực thi công vụ trên các lĩnh vực: Quản lý hành chính; Bang giao giữa Việt Nam với Trung Quốc; Bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ như tuần biển, cứu trợ trên biển, đo vẽ bản đồ; Quản lý đê điều; Quản lý đời sống của cư dân; Hoạt động thanh tra, giám sát và khảo xét đội ngũ thi hành công vụ; Hoạt động tố tụng. 4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Đây là một đề tài có tính chất tổng hợp, do vậy, các nguồn tư liệu liên quan đến luận án được tập hợp, hệ thống hoá và khai thác một cách tối đa có thể. Bên cạnh các nguồn tài liệu là sách báo, tạp chí, internet, kỉ yếu hội thảo, tác giả chủ yếu khai thác các nguồn tài liệu sau: - Các bộ sử biên niên như ĐNTL, Khâm định Việt sử thông giám cương mục … có ghi chép về các văn bản do nhà vua ban hành về sắp đặt quan lại, các sớ thỉnh an cũng như các sớ tâu trình của quan lại với vua, hình phạt và sự ban thưởng của nhà vua đối với đội ngũ thừa hành công vụ. Đây là những thông tin trực tiếp và khi được tập hợp, xử lý sẽ mang lại những nhận thức khoa học có độ tin cậy cao. - Các bộ hội điển, điển chế, pháp luật cổ Việt Nam là những tư liệu quan trọng cung cấp các thông tin về quy định của nhà vua đối với quyền, nghĩa vụ và những hậu quả mà đội ngũ thừa hành công vụ phải gánh chịu nếu không thực hiện đúng. Nguồn tài liệu này bao gồm: QTHL, HVLL, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam điển lệ toát yếu, Minh Mệnh chính yếu… 3 - Sách thể chí bao gồm: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí là những công trình kê cứu công phu giúp tác giả luận án hình dung rõ hơn về quan chế thời xưa ở từng thời kì lịch sử. - Châu bản triều Nguyễn: đây là những tư liệu cung cấp khối lượng thông tin lớn, chân thực về các văn bản mà nhà vua ban hành, quan lại tâu việc hay chấp hành các mệnh lệnh của nhà vua và các nhà khoa bảng thời Gia Long và Minh Mệnh. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp luận Nghiên cứu về chế độ công vụ thời Nguyễn dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh là một nghiên cứu cơ bản của khoa học lịch sử. Do tính chất của việc nghiên cứu thuộc ngành khoa học xã hội nên tác giả luận án áp dụng phương pháp luận biện chứng lịch sử để xem xét các sự kiện trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động và phát triển để phân tích, đánh giá và rút ra các kết luận. Vấn đề chế độ công vụ được đặt trong bối cảnh lịch sử, kinh tế xã hội cụ thể, không gian thống nhất từ Bắc tới Nam, một hình thái kinh tế xã hội nhất định để thấy được sự vận động phát triển có tính liên tục và kế thừa của BMNN và các quy định và hoạt động công vụ thời vua Gia Long và Minh Mệnh nói riêng. Chế độ công vụ là một thuật ngữ hiện đại, chưa được định hình khái niệm vào thời quân chủ. Tuy nhiên dưới thời quân chủ các quy định về công vụ cũng như hoạt động công vụ đã được diễn ra và đạt được hiệu quả nhất định. Vậy chế độ công vụ là gì? - Chế độ: Theo Từ điển Luật học: “Chế độ là tổng thể các quy tắc cần phải tuân theo; là hệ thống các quy định pháp luật cần phải được tuân thủ trong một quan hệ xã hội nhất định”. Khái niệm này khác với quan niệm về thể chế. Thể chế, theo Từ điển Luật học “Là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo” [5; tr.704]. Từ đó, có thể thấy, khái niệm chế độ là một khái niệm hẹp hơn thể chế, đó là các quy tắc, quy định pháp luật được đặt ra bởi nhà nước được mọi người tuân thủ trong một mối quan hệ xã hội nhất định. - Công vụ: là một khái niệm rộng về phạm vi và cho đến nay có nhiều cách hiểu và cách tiếp cận khác nhau. Theo Từ điển Luật học: “Công vụ là công việc mang tính nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của công dân, chủ yếu do cán bộ công chức nhà nước thực hiện”. Theo Từ điển Pháp – Việt: Pháp luật – Hành chính: công vụ là: “Theo nghĩa 4 rộng là toàn thể các công chức làm việc thường xuyên trong bộ máy nhà nước ở trung ương và các cơ quan chính quyền địa phương. Theo nghĩa hẹp là toàn bộ các quy chế công chức” [174; tr. 135]. Bên cạnh đó còn có cách hiểu khác về công vụ như: là toàn bộ các cơ quan của Chính phủ không kể lực lượng quân đội hay đó là hoạt động thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước…Từ nội dung khái niệm nêu trên có thể hiểu công vụ bao gồm các tiêu chí sau: Đối tượng công vụ là nhiệm vụ, là công việc do cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức giao cho phải làm vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích của nhà nước. Chủ thể công vụ là các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức - nhân danh Nhà nước thực thi công vụ theo quy định của pháp luật hoặc cá nhân được trao quyền thực thi công vụ trong một thời hạn nhất định; Hoạt động công vụ “là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật và các quy định khác có liên quan” [99] nhằm triển khai các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của quốc gia. - Quan lại: là một danh từ ghép, bao gồm quan và lại. Theo Từ điển Hán – Việt, Lại “là làm việc quan, chức phụ thuộc trong nha môn” [1; tr.387]. Quan là “người làm việc cho nhà nước, làm chủ trong một công việc” [1; tr.600]. Quan chức: “các quan và chức vụ của họ” [72; tr.1502], cụ thể, Quan: người xử lí việc nước, chức: chỉ quyền hạn và trách nhiệm được giao phó. Quan lại là những người giữ chức vụ trong các cơ quan nhà nước, có nhiệm vụ và quyền hạn khi tham gia hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động chuyên môn dưới thời kỳ quân chủ ở Việt Nam. Trong đó, quan giữ vai trò tư vấn, giúp việc cho nhà vua trong việc xây dựng các chính sách và ban hành pháp luật, đồng thời triển khai thực hiện quyền lực nhà nước. Lại là người thừa hành mệnh lệnh của quan, đóng vai trò trung gian giữa quan và dân. Quan chức trong BMNN quân chủ chuyên chế không chỉ bao gồm những người giữ chức vụ trong BMNN mà còn bao gồm đội ngũ quý tộc được ban phong tước vị và các đại thần giữ vai trò tư vấn, giúp việc cho nhà vua. Mặt khác, với quan điểm “tôn quân” của Nho giáo, nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nhà nước quân chủ Việt Nam là “tôn quân quyền”, do vậy, quyền lực nhà nước không thể chia, tất cả quyền lực tập trung vào tay nhà vua, quan lại chỉ là những người thừa hành và giúp việc cho vua. Tuy nhiên, do phạm vi lãnh thổ rộng lớn, khối lượng công việc nhiều, vua và 5 quan lại cần có những người phối hợp cùng thực hiện các công vụ liên quan đến đối nội, đối ngoại và quân sự. Đồng thời, quan điểm “thiên hạ vi công” khẳng định đất đai và thần dân đều thuộc sự cai quản của nhà vua, tức thuộc của công. Do đó, tất cả quan lại và người dân đều phải thực hiện nghĩa vụ và bổn phận nhất định với nhà vua. Chính vì lẽ đó, có thể nhận thấy đội ngũ tham gia thực hiện các nhiệm vụ mà nhà vua giao cho không chỉ bao gồm quan lại mà còn là những người do dân bầu lên như Xã trưởng (Lý trưởng), hoặc được triệu tập và trao trọng trách như các đội thợ trong các cục, các lực lượng biền binh, phu trạm… Từ các quan điểm trên và căn cứ trên, tác giả nhận định: Chế độ công vụ thời quân chủ Nguyễn nói chung và thời vua Gia Long và Minh Mệnh nói riêng vừa là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước vừa là hoạt động của các cơ quan do nhà nước thiết lập, các cá nhân trao quyền để phục vụ các nhu cầu lợi ích của dân. Lực lượng tham gia hoạt động công vụ chủ yếu là quan lại trong BMNN và những người được trao quyền, trao nhiệm vụ (Kinh lược đại sứ, Lý trưởng, lực lượng thuỷ sư, thợ cục, biền binh, phu trạm…); Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ thừa hành công vụ được hưởng quyền lợi, quyền hạn nhất định và chịu trách nhiệm trước cấp trên về mọi hoạt động. 4.2.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chủ yếu được sử dụng nhằm làm rõ nội dung của luận án. Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm tái hiện trung thực bức tranh về chế độ công vụ dưới triều vua Gia Long và Minh Mệnh theo đúng trình tự thời gian và không gian như nó đã từng diễn ra. Phương pháp logic được sử dụng nhằm làm rõ bản chất, sự chân thực khách quan, sự vận động liên tục của chế độ công vụ thời Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1841. - Phương pháp so sánh đồng đại và lịch đại: đây là phương pháp được tác giả vận dụng nhằm làm rõ yếu tố kế thừa, những đặc trưng mang tính liên tục hay những khác biệt của chế độ công vụ thời Gia Long và Minh Mệnh so với các triều đại trước hoặc đời vua Nguyễn sau, giữa vua Gia Long và Minh Mệnh. Phương pháp này được vận dụng để so sánh trên một số khía cạnh sau: Một là, so sánh một số chức quan, cơ quan trong BMNN thời vua Minh Mệnh với triều Lê, triều Thanh của Trung Quốc để thấy được sự khác và giống nhau về số lượng, tên gọi, phẩm hàm; Hai là, so sánh một số quy định trong chính sách đãi ngộ, khảo xét cũng như 6 phương thức tuyển chọn đội ngũ thi hành công vụ để thấy sự khác biệt trong tiêu chí tuyển chọn, khảo xét, đối tượng đãi ngộ khảo xét hay mức đãi ngộ giữa triều Gia Long với Minh Mệnh hay giữa vua Gia Long và Minh Mệnh với các triều đại quân chủ trước; Ba là, so sánh số lượng điều khoản đề cập đến quyền, nghĩa vụ, hình phạt đối với người thi hành công vụ trong hai bộ luật QTHL, HVLL để thấy được sự khác nhau về số lượng điều khoản, mức độ áp dụng, đối tượng áp dụng giữa triều Lê và triều Nguyễn. - Phương pháp phân tích định lượng và thống kê được sử dụng chủ yếu trong luận án nhằm xử lý các tư liệu liên quan đến nội dung luận án. Phương pháp này được sử dụng trong việc thống kê số lượng văn bản do vua Gia Long và Minh Mệnh ban hành để điều chỉnh sắp đặt, quy định số lượng đội ngũ thi hành công vụ được tuyển chọn, thuyên chuyển đổi bổ; các sớ thỉnh an của quan đầu tỉnh, số lần và vụ việc tâu bày của quan lại, số lượng hình phạt và số vụ việc vi phạm của người thi hành công vụ, số lượng quan lại được nhận đãi ngộ và mức đãi ngộ… Trong khả năng cho phép, tác giả luận án cố gắng tập hợp, lượng hóa thông tin, số liệu, qua đó đưa lại những nhận thức chân xác về hệ thống đội ngũ thừa hành công vụ thời vua Gia Long và Minh Mệnh trên các bình diện về tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ, giám sát, thưởng phạt; đồng thời qua đó thấy được khuynh hướng phát triển, đặc điểm của chế độ công vụ thời vua Gia Long và Minh Mệnh và tính hiệu quả của hoạt động thực thi công vụ đó. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Từ kết quả nghiên cứu, luận án có một số điểm đóng góp mới sau: - Đây là công trình chuyên khảo tương đối có hệ thống về chế độ công vụ dưới triều vua Gia Long và Minh Mệnh. Luận án làm rõ cơ sở xây dựng chế độ công vụ thời vua Gia Long và Minh Mệnh; các quy định của vua Gia Long và Minh Mệnh về tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ, khảo khoá, giám sát, thưởng phạt, các nghĩa vụ cũng như hoạt động thực thi công vụ của những người có liên quan. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích, đánh giá những đóng góp và tồn tại trong chế độ công vụ thời vua Gia Long và Minh Mệnh. Trên cơ sở thực trạng thực thi công vụ và đạo đức công vụ hiện nay, tác giả đã rút ra một số giá trị của chế độ công vụ đối với chính sách cán bộ, công chức. - Tập hợp và cung cấp nguồn tư liệu đáng tin cậy về chế độ công vụ dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mệnh. 7 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lí luận Thông qua đề tài này, luận án muốn làm rõ các quy định liên quan đến đội ngũ thực thi công vụ, tính hiệu quả, chất lượng thực thi công vụ dưới triều Gia Long và Minh Mệnh. Từ kinh nghiệm lịch sử và thực tế chế độ công vụ hiện nay, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần đặt nền tảng cho việc vận dụng các chính sách đối với người thực thi công vụ thời quân chủ trong việc điều chỉnh các chính sách đối với cán bộ, công chức hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Lịch sử Nhà nước và Pháp luật là một môn học đã và đang được giảng dạy tại các cơ sở đào tạo Luật. Do đó, những nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng tham khảo trong việc giảng dạy môn Lịch sử Nhà nước và pháp luật tại trường Đại học Luật Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác; đồng thời góp phần bổ sung kiến thức giảng dạy cho bản thân. Mặt khác chế độ công vụ mang tính liên tục và kế thừa, dó đó việc nghiên cứu chế độ công vụ dưới triều vua Gia Long và Minh Mệnh góp phần nghiên cứu chế độ công vụ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử để nhận thấy được sự khác biệt, tính kế thừa của chế độ công vụ ở mỗi giai đoạn lịch sử. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu gồm 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Chương 2: Cơ sở hình thành và thực thi chế độ công vụ dưới triều vua Gia Long và Minh Mệnh. Chương 3: Tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ thực thi công vụ. Chương 4: Hoạt động thực thi công vụ. Chương 5: Nhận xét, đặc điểm và những giá trị kế thừa. 8 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến chế độ công vụ 1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến chế độ công vụ triều Nguyễn Các công trình nghiên cứu liên quan đến các khía cạnh của chế độ công vụ triều Nguyễn khá phong phú. Các nghiên cứu này có thể được lồng ghép trong các công trình nghiên cứu chung về các triều đại trong tiến trình lịch sử hoặc tách riêng. Tuy nhiên, ở mức độ đậm nhạt, các công trình và bài viết nghiên cứu đã thể hiện được những yếu tố liên quan đến chế độ công vụ như BMNN, tuyển dụng quan lại, hoạt động công vụ. Về BMNN Các công trình nghiên cứu liên quan đến BMNN triều Nguyễn có thể kể đến các công trình sau: Tác giả Đỗ Bang đã có hai cuốn sách nghiên cứu khá toàn diện về BMNN thời Nguyễn, đó là cuốn Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802-1884) và Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa, Huế năm 1997, 1998. Tác giả đã đi sâu mô tả, so sánh BMNN quân chủ Nguyễn từ triều Gia Long đến triều Tự Đức với BMNN quân chủ Trung Quốc. Tác giả nhận định các cơ quan trung ương được Gia Long và Minh Mệnh kế thừa có chọn lọc của các triều đại trước và quan chế Trung Quốc và chấp nhận hai cơ chế quản lý song hành ở cấp xã. Do giới hạn về mục tiêu nghiên cứu nên trong hai công trình này, vấn đề nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN phong kiến Nguyễn chưa được đề cập đến. Đồng thời trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả cũng bàn đến quan chế. Trong cuốn sách xuất bản năm 1998, tác giả dành nhiều trang viết về việc phong tước, quyền lợi của quan lại hơn là nhiệm vụ của quan lại. Trong phần bàn về nghĩa vụ của quan lại, tác giả khẳng định quan lại dưới thời Nguyễn đều xác định nhiệm vụ với thế ứng xử hai chiều, đó là nghĩa vụ đối với vua và trách nhiệm đối với dân. Cuốn Làng Việt Nam đa nguyên và chặt của Khoa Lịch sử, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Nxb Quốc gia Hà Nội 2006 đã có một số bài viết phân tích về cấp hành chính 9 địa phương, đó là tổng và xã. Qua một số bài viết như “Cấp thôn trong thiết chế chính trị - xã hội nông thôn Việt Nam”, “Về đơn vị hành chính Tổng ở Việt Nam”, “Nạn cường hào làng xã thời phong kiến” …, các tác giả đã nhìn nhận vai trò của làng xã, tổng đối với BMNN cũng như các chính sách của nhà nước. Trong cuốn sách Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885), Nxb. Thuận Hoá, 2014, tác giả Huỳnh Công Bá, trên cơ sở nguồn tư liệu phong phú đã nêu khá cụ thể cơ cấu tổ chức BMNN từ Gia Long đến Tự Đức; đồng thời khái quát cơ chế vận hành của bộ máy công quyền Nguyễn trên phương diện hành chính và quân sự. Tác giả cho rằng BMNN triều Nguyễn đã kế thừa tổ chức nhà nước của các triều đại trước đây, đặc biệt là triều Lê Thánh Tông, nhưng có sự tinh vi và hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, tác giả đã dành 75/530 trang từ trang 246 đến 325 để phân tích, tập hợp những quy định về tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, thưởng phạt, nghĩa vụ của quan chức nhà Nguyễn trong thực thi công việc. Đặc biệt, trên cơ sở khảo cứu bộ HVLL tác giả đã khẳng định, quan chức nhà Nguyễn cần thực hiện các nghĩa vụ: giúp việc cho vua, làm việc phải theo lẽ công bằng, làm việc phải theo đúng kì hạn, không được bỏ chầu, bỏ nhiệm; không được vị thân làm cong pháp luật.... Cuốn sách được xuất bản năm 2016 với nhan đề Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam (từ năm 938 đến năm 1884), Nxb Khoa học xã hội của tác giả Nguyễn Minh Tường là công trình có tính hệ thống về tổ chức BMNN quân chủ Việt Nam. Với 10 chương, cuốn sách đã bao quát một số vấn đề liên quan đến chế độ quan lại từ nhà Ngô đến nhà Nguyễn trong tương quan so sánh với các triều đại quân chủ Trung Quốc. Trên cơ sở phân tích BMNN quân chủ Nguyễn, tác giả nhận định xu thế phát triển tất yếu của nhà nước quân chủ Nguyễn là tập quyền, phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam. Tuy nhiên tác giả chưa bàn luận sâu về nghĩa vụ của quan lại, các ưu đãi trong đảm bảo điều kiện thực thi công việc của quan lại dưới triều Nguyễn. Bên cạnh đó, có một số luận án có nội dung liên quan ít nhiều đến tổ chức BMNN và quản lý hành chính như: Luận án lịch sử Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn (giai đoạn 1802 - 1884) của tác giả Vũ Thị Phụng, 1999 đã trình bày về nền hành chính triều Nguyễn ở các nội dung: nguyên tắc tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức BMNN từ trung ương đến địa phương và các văn bản quản 10 lý nhà nước. Đặc biệt, liên quan đến đề tài, tác giả đã dành 27 trang viết về cơ quan chuyên trách soạn thảo và chuyển giao văn bản (văn phòng của nhà vua, Hàn Lâm viện, Ty Bưu chính, Ty thông chính sứ, văn phòng các bộ, những người đứng đầu các địa phương) và việc tuyển chọn quan chức và thư lại chuyên trách các công việc về văn bản, giấy tờ. Trong luận án Định chế quản lý nhà nước thời Nguyễn, 2000, tác giả Trần Thị Thanh Thanh đã dành ra chương 3 để bàn đến quá trình tổ chức hoạt động hành chính của quan chức dưới triều Gia Long và Minh Mệnh. Đồng thời, bằng phương pháp thống kê, tác giả đã xây dựng được một bảng biểu khá chi tiết về việc áp dụng chế tài hình sự đối với quan lại trong quá trình làm việc. Trong luận án Vai trò của bộ Công trong việc xây dựng kinh đô Huế dưới triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884), Viện sử học, 2005, tác giả Phan Tiến Dũng đã bàn đến cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ Công trong Lục bộ - cơ quan trọng yếu của chính quyền trung ương Nguyễn. Đây là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về một cơ quan nhà nước. Với nguồn tài liệu phong phú, tác giả đã dựng lại bức tranh về hoạt động của bộ Công trong lịch sử, đồng thời đưa ra những nhận định tích cực và hạn chế về khối cơ quan này trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Trong năm 2014 có hai luận án liên quan đến đề tài được bảo vệ thành công. Đó là, luận án của Phạm Đức Anh với nhan tài Biến đổi mô hình tổ chức nhà nước ở Việt Nam (thế kỉ XXIX) đã có cái nhìn hệ thống và khái quát về mô hình nhà nước quân chủ Việt Nam từ thời Đinh đến Nguyễn. Trong nghiên cứu của mình, tác giả Phạm Đức Anh đã dành chương 4 để phân tích về mô hình nhà nước thời Nguyễn. Điểm đóng góp lớn nhất của tác giả là đã so sánh hệ thống quan lại nhà Nguyễn về số lượng, chức vụ và tước phẩm với quan lại nhà Lê, nhà Minh và nhà Thanh của Trung Quốc, tuy nhiên việc sử dụng, đãi ngộ và giám sát quan lại dưới triều Nguyễn như thế nào thì tác giả chưa làm rõ trong luận án của mình. Luận án của Ngô Đức Lập với nhan đề Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885 đã đề cập đến sự thiết lập, hoạt động và thẩm quyền của cơ quan thực hiện chức năng giám sát chung của nhà Nguyễn trong tương quan so sánh với Đô sát viện thời Thanh. Đặc biệt, những trang phân tích về chế độ khen thưởng, đãi ngộ của nhà nước đối các quan lại làm việc 11 trong khối cơ quan này đã giúp ích cho tác giả rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài luận án của mình. Mặt khác, có hai bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6, 1995 của Đào Tố Uyên và Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Danh Phiệt đề cập đến tổ chức BMNN. Bài Tìm hiểu tổ chức chính quyền trung ương ở nước ta thời phong kiến của Đào Tố Uyên và Nguyễn Cảnh Minh đã đưa ra những đánh giá ưu và hạn chế về bộ máy chính quyền trung ương (đặc biệt thời Lê Thánh Tông và nhà Nguyễn). Tuy nhiên, bài viết chưa đi vào so sánh, đánh giá tính hiệu quả của bộ máy chính quyền trung ương. Hai tác giả Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Danh Phiệt đã khái quát sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống chính quyền địa phương từ thời Lý đến thời Nguyễn qua bài viết Mấy suy nghĩ về hệ thống hành chính địa phương ở nước ta thời phong kiến. Các tác giả đã khá tâm huyết khi nhận xét hệ thống chính quyền địa phương nhà Nguyễn, đặc biệt là thời Minh Mệnh; đồng thời tác giả cũng đã bước đầu khái quát sự giám sát và mối liên hệ giữa các cấp hành chính trong hệ thống chính quyền địa phương. Trong bài viết trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 2, 2004 với nhan đề Về nền hành chính triều Nguyễn thời kì 1802 – 1883, tác giả Trần Thị Thanh Thanh nhận định các cơ quan trong BMNN có sự phân chia chức năng rành mạch, nhưng khi vận hành do có nhiều quy tắc kiềm toả, nhiều đầu mối giám sát khiến công việc tồn đọng. Về tuyển chọn và sử dụng quan lại Ngoài những sách chuyên khảo, đề cập quan chế nói chung trong khi bàn vệ BMNN như đã trình bày ở trên, các nhà nghiên cứu của Việt Nam đã có nhiều công trình, bài viết bàn về quan chế thời Nguyễn như: Lược khảo về khoa cử Việt Nam: Từ khởi thuỷ đến khoa Mậu Ngọ, 1918, H, Impr. du Nord, năm 1941 của Trần Văn Giáp; Quốc triều hương khoa lục, Nxb Hồ Chí Minh, 1993 của Cao Xuân Dục; Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương, Những ông nghè, ông cống triều Nguyễn, Nxb Văn hoá Thông tin, 1995; Phan Đại Doãn, Nguyễn Minh Tường, Hoàng Phương..., Một số vấn đề về quan chế Triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1998; Trần Thanh Tâm, Quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Công ty Văn hoá Phương Nam, Huế, 1999; Phan Ngọc Liên, Trần Viết Thụ, Đặng Văn Hồ, Giáo dục và thi cử Việt Nam: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nxb Từ điển Bách khoa, 2006; Cuốn Từ điển chức quan Việt Nam của Đỗ Văn Ninh, Nxb Thanh niên, 2006; Nho giáo đạo học trên đất kinh kỳ (Thăng 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan