Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chấm dứt hợp đồng theo pháp luật thương mại việt nam hiện nay...

Tài liệu Chấm dứt hợp đồng theo pháp luật thương mại việt nam hiện nay

.PDF
84
124
55

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI 6 1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại và chấm dứt hợp đồng thương mại .............6 1.2. Pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại tại Việt Nam ...............................21 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ...........................................................................................................................28 2.1. Các quy định của pháp luật về việc chấm dứt hợp đồng thương mại ................28 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại ......................52 Chương 3. NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI .............................................................69 3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại .............................................................................................................................69 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh việc chấm dứt hợp đồng thương mại ................................................................................................................71 KẾT LUẬN ...............................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................80 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự CP : Chính phủ LTM : Luật Thương mại NĐ : Nghị định QH : Quốc hội TTLT : Thông tư liên tịch MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những năm qua, hòa cùng công cuộc đổi mới và phát triển chung của đất nước, các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng phát triển, cải thiện và hoàn chỉnh mình. Mỗi doanh nghiệp hoạt động kinh tế đều là một tế bào góp phần đưa đất nước đi lên, là nơi trực tiếp sản xuất và cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng của toàn xã hội và cho xuất khẩu. Quá trình thực hiện các chuỗi hoạt động nêu trên, các doanh nghiệp đều phải thường xuyên giao kết, thực hiện các hợp đồng thương mại với đối tác của mình. Việc xác lập, thực hiện được nhiều hay ít hợp đồng có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, các giao dịch thương mại góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều đã ý thức được tầm quan trọng của việc soạn thảo, giao kết, thực hiện hợp đồng đối với sự phát triển của doanh nghiệp mình nhằm hạn chế tối đa các tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng. Để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý và an tâm hơn trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 và mới đây là Bộ luật dân sự năm 2015, thay thế cho Bộ luật dân sự năm 2005 đã dành rất nhiều các quy định cụ thể để quy định chặt chẽ về các trường hợp giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, hầu hết các bên của hợp đồng thương mại đều chỉ quan tâm tới khâu giao kết và xây dựng các điều khoản cơ bản về việc thực hiện hợp đồng mà ít chú trọng tới các thỏa thuận liên quan tới việc chấm dứt hợp đồng, dẫn tới một số trường hợp các bên không thống nhất được việc quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng còn hay đã chấm dứt và làm nảy sinh các tranh chấp liên quan từ việc chấm dứt hợp đồng. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, nhằm làm rõ các quy định của pháp luật thương mại về các trường hợp chấm dứt hợp đồng, hậu quả của chấm dứt hợp đồng với các bên giao kết, tác giả lựa chọn đề tài: “Chấm dứt hợp 1 đồng theo pháp luật Thương mại Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Là một chế định lớn, quan trọng cho nên hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng luôn là một đề tài được các nhà nghiên cứu quan tâm và làm rõ, bao gồm các công trình ở phạm vi rộng và hẹp khác nhau. Trong đó có thể kể tới các công trình tiêu biểu sau: cuốn sách Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 của tác giả Nguyễn Minh Tuấn, xuất bản năm 2016; các luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự theo pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Oanh năm 2010; “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Hoàng Thị Hà Phương năm 2012; “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại dưới góc độ so sánh pháp luật Viêt Nam và Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế” của tác giả Phan Thùy Linh năm 2016; “Hủy bỏ hợp đồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Thị Nhường năm 2013… Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã đăng tải rất nhiều bài viết về đề tài hợp đồng thương mại như: “Một số vướng mắc từ việc áp dụng chế định đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng” của tác giả Nguyễn Thùy Trang, Nguyễn Minh Hằng, trên tạp chí Kiểm sát số 6/2011; “Về đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền theo Điều 588 Bộ luật dân sự” của tác giả Vũ Quốc Tuấn trên tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2013; “Bàn về khái niệm “Vi pham cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Luật thương mại năm 2005” của tác giả Võ Sỹ Mạnh, trên tạp chí nhà nước và pháp luật, số 8/2013; “Bất cập đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thương - một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thanh Tùng, trên tạp chí Luật học số 7/2015; “Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật thương mại 2005 – Một số vướng mắc về lý luận và thực tiễn” của tác giả Đồng Thái Quang, trên Tòa án nhân dân, số 20/2014; “Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật thương mại 2005” của tác giả Nguyễn Việt Khoa, trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15/2011… 2 Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy, các công trình, bài viết kể trên đã đưa ra những nhận xét, đánh giá khái quát cũng như chi tiết về hợp đồng thương mại nói chung từ việc giao kết đến giai đoạn thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ đề cập tới các trường hợp chấm dứt hợp đồng và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng thương mại theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, nhằm khắc phục những thiếu sót nêu trên, trên tham khảo các ý kiến, quan điểm nghiên cứu trong các công trình kể trên, với mong muốn phân tích làm rõ các quy định của pháp luật luật và đề xuất giải pháp thực hiện pháp luật hiện hành về vấn đề chấm dứt hợp đồng, tác giả lựa chọn đề tài “Chấm dứt hợp đồng theo pháp Luật Thương mại Việt Nam hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn không đi sâu vào phân tích các quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại nói chung mà chỉ tập trung phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật thương mại hiện hành về các trường hợp chấm dứt hợp đồng và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng thương mại; Từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn đề ra nhiệm vụ nghiên cứu gồm: - Nghiên cứu khái quát một số vấn đề lý luận về hợp đồng thương mại và chấm dứt hợp đồng thương mại. - Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về các trường hợp chấm dứt hợp đồng thương mại, hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng thương mại và thực tế thực hiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. - Trên cơ sở những đánh giá, so sánh, phân tích về các quy định của pháp luật hiên hành và Dự thảo sửa đổi Luật Thương mại năm 2005, tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng và nâng cao hiệu quả thực 3 hiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng trong thực tiễn hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên thị trường hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Với mục dích và nhiệm vụ nghiên cứu trên, trong phạm vi luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, tác giả sẽ tập trung làm nổi bật các trường hợp chấm dứt hợp đồng thương mại, các hậu quả pháp lý trong trường hợp chấm dứt hợp đồng thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Từ đó đi sâu phân tích và đánh giá thực tiễn các quy định của pháp luật trong để chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề này và đề ra giải pháp hoàn thiện. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chính được sử dụng xuyên suốt nội dung toàn bài là phương pháp tổng hợp, phân tích; bên cạnh đó để giải quyết vấn đề nghiên cứu, người viết còn sử dụng phương pháp logic tại Chương 1, phương pháp liên hệ thực tế và so sánh để nêu rõ các nội dung ở Chương 2, và phương pháp so sánh để làm rõ phương hướng hoàn thiện pháp luật và đưa ra các đề xuất cụ thể cho vấn đề này tại Chương 3. 6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Luận văn có một số điểm mới chủ yếu sau: - Tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm chấm dứt hợp đồng và chấm dứt hợp đồng thương mại; các đặc điểm của chấm dứt hợp đồng thương mại; tóm lược lịch sử các quy định của pháp luật về vấn đề chấm dứt hợp đồng; kinh nghiệm của pháp luật một số nước trên thế giới về chấm dứt hợp đồng thương mại. - Chỉ ra và phân tích những ưu điểm, hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành về các trường hợp chấm dứt hợp đồng và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng và thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt hợp đồng. - Đánh giá được như cầu và đề xuất ý kiến hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam về vấn đề chấm dứt hợp đồng thương mại trên cơ sở học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại năm 2005. 4 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về chấm dứt hợp đồng thương mại và pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại Chương 2. Thực trạng pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại Chương 3. Những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấm dứt hợp đồng thương mại 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại và chấm dứt hợp đồng thương mại 1.1.1. Nhận diện hợp đồng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại Chế định hợp đồng là một trong những nội dung nền tảng của luật dân sự, được hình thành từ rất sớm và dần được hoàn thiện theo thời gian. Tuy nhiên, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra một thuật ngữ chính xác như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật hiện hành của hầu hết các nước là việc không dễ dàng. Các luật gia cho rằng thuật ngữ hợp đồng (contractus) được hình thành từ động từ contrahere trong tiếng La-tinh, có nghĩa là “ràng buộc” và xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỉ V – IV TCN [17]. Tuy nhiên mãi đến thế kỉ thứ I SCN, người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ “contractus” trong luật và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận, được bảo vệ dưới thời Hoàng đế Justinian [10, tr.81]. Sau này các nước phương Tây đã kế thừa và phát triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ “hợp đồng” – trong tiếng Anh là “contract”. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm “hợp đồng” theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, hợp đồng dân sự là do các quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Còn theo nghĩa chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định [19, tr.111-112]. Bộ luật Dân sự 2015 đã cụ thể hóa khái niệm “hợp đồng” theo nghĩa chủ quan bằng quy định tại Điều 385: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Quy định của Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 là sự kế thừa từ Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 nhưng đã lược bỏ đi từ “dân sự” sau từ “hợp đồng” (Điều 388 BLDS). Việc Bộ luật Dân sự 2005 6 sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự” đã dẫn đến cách hiểu cho rằng các quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng chỉ áp dụng đối với các quan hệ dân sự theo nghĩa hẹp mà không áp dụng đối với hợp đồng trong thương mại, hợp đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm… Thực tế, một số luật chuyên ngành như Luật Thương mại, Luật Đầu tư có những quy định về hợp đồng nhưng không quy định về khái niệm nghĩa vụ, khái niệm hợp đồng, giao kết và thực hiện nghĩa vụ, thực hiện hợp đồng do những vấn đề này đã được quy định trong Bộ luật Dân sự và cần được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự. Để thể hiện vai trò của các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự là quy định chung về các dạng hợp đồng trong các lĩnh vực khác nhau, Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ từ “dân sự” trong các khái niệm hợp đồng và trong các quy định cụ thể về hợp đồng [16, tr.18]. Chính vì thế định nghĩa về hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2015 được coi là có sự tiến bộ rất lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thống nhất pháp luật đồng thời có tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của hợp đồng. Về lý luận, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Nhưng điều đáng tiếc nhất đó là pháp luật trong lĩnh vực thương mại hiện nay chưa đưa ra được một khái niệm chung nhất về hợp đồng thương mại. Và ngay cả khái niệm “hợp đồng thương mại” cũng là một khái niệm mà hiện nay chúng ta đang sử dụng một cách tương đối bởi nếu nói một cách chính xác thì phải gọi nó là hợp đồng trong thương mại hay hợp đồng trong hoạt động thương mại. Trước đây, trong Điều 1 của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế được ban hành ngày 25 tháng 9 năm 1989 của Hội đồng Nhà nước đã nhắc đến khái niệm “hợp đồng kinh tế”. Theo quy định này thì hợp đồng kinh tế được định nghĩa là “sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên kí kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”. Quy định này là một cơ sở để có thể phân định giữa hợp đồng kinh tế với các hợp đồng khác, đặc biệt là hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, khái niệm hợp đồng kinh tế không được ghi nhận tại Luật Thương mại năm 1997 được Quốc hội thông qua ngày 10 7 tháng 5 năm 1997, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1998, mà thay vào đó thì các nhà lập pháp lại hướng tới việc định nghĩa hoạt động thương mại, thông qua đó để có quy định về hợp đồng thương mại – với tư cách là hình thức pháp lý cho các giao dịch trong hoạt động thương mại. Và bởi vì các quy định về hoạt động thương mại trong Luật Thương mại 1997 về hoạt động thương mại chỉ gói gọn trong ba loại hoạt động: (1) mua bán hàng hóa; (2) cung ứng dịch vụ thương mại và (3) các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội (khoản 2, Điều 5 Luật Thương mại 1997); điều này khiến cho cách hiểu về hợp đồng thương mại cũng khá hẹp. Đồng thời, tinh thần của Luật Thương mại 1997 về hoạt động thương mại cũng thể hiện sự không tương thích với quy định của pháp luật quốc tế về hoạt động thương mại [6, tr. 460]. Khắc phục những nhược điểm trên, Luật Thương mại năm 2005 – Luật số 36/2005/QH11 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 đã quy định rộng hơn đối với hoạt động thương mại bằng việc nhấn mạnh đặc điểm của hoạt động thương mại là “hoạt động vì mục đích sinh lợi”; sửa đổi hoạt động “cung ứng dịch vụ thương mại” thành hoạt động “cung ứng dịch vụ” đồng thời bổ sung hoạt động “đầu tư” và “các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” ngoài ba loại hoạt động thương mại đã kể đến trong Luật Thương mại 1997 trước đây. Có thể nói, Luật Thương mại 2005 đã có cách tiếp cận “thông thoáng” hơn trong việc mở rộng phạm vi của hoạt động thương mại và căn cứ xác định bản chất pháp lý của hoạt động thương mại (khoản 1, Điều 3 LTM 2005) [6, tr.460]. Sự ra đời của Luật Thương mại 2005 là sự khởi đầu hình thành một khái niệm mới trong thực tiễn hoạt động kinh doanh – khái niệm “hợp đồng thương mại”. Nếu như trước ngày 1/1/2006, các hợp đồng mang yếu tố tài sản được phân biệt thành hai loại: hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế, theo đó thì các hợp đồng không phải hợp đồng kinh tế được coi là hợp đồng dân sự, nhưng từ khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thì đã không còn hợp đồng kinh tế [1, tr,6], thay vì thế chỉ có một khái niệm “hợp đồng” được quy định trong Bộ luật Dân sự và hợp đồng thương mại là một hình thức của hợp đồng nói chung đó, nó vẫn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2005 trước đây và Bộ luật Dân sự 2015 hiện nay. 8 Trong khoa học pháp lý, cũng có ý kiến cho rằng không nên sử dụng khái niệm “hợp đồng thương mại” do lo ngại dẫn đến hệ quả không cần thiết, đó là sự mất công tìm kiếm điểm khác biệt giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự, song trong thực tiễn kinh doanh, khái niệm này vẫn được sử dụng khá phổ biến với ý nghĩa là “hợp đồng trong thương mại”. Có thể thấy rằng, khái niệm “hợp đồng thương mại” vẫn tồn tại trong đời sống kinh tế, pháp lý với nghĩa là hợp đồng hình thành trong lĩnh vực thương mại [5, tr.8]. Trong mỗi lĩnh vực của hoạt động thương mại thì các chủ thể có thể xác lập những hợp đồng trong từng lĩnh vực khác nhau như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư hay hợp đồng dịch vụ… Mặc dù pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về hợp đồng thương mại, tuy nhiên hợp đồng thương mại là một trong các loại hành vi pháp lý cơ bản và mang tính phổ biến trong giao dịch của đời sống xã hội, nhất là đối với các thương nhân, và trước hết chúng ta phải thấy nó là một loại hợp đồng theo khái niệm hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015. Chỉ khác rằng, từ nhận thức đến ý chí và đi đến hành động của thương nhân trong quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại là một quá trình mang tính logic và có giá trị to lớn để đảm bảo rằng mục đích cao nhất trong hợp đồng thương mại là lợi nhuận tối ưu của các bên sẽ được thực hiện trên thực tế. Từ góc độ đó, tác giả đề xuất một cách hiểu về hợp đồng thương mại dựa trên cách hiểu về hợp đồng hiện nay theo Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên (trong đó có ít nhất một bên tham gia là thương nhân) về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các hoạt động thương mại”. Cách định nghĩa này vừa phù hợp với định nghĩa của Bộ luật Dân sự 2015 về hợp đồng, lại nêu lên được những đặc điểm riêng của hợp đồng thương mại so với các loại hợp đồng khác đó là đặc điểm về chủ thể và đặc điểm về mục đích của hợp đồng. 1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại 9 Hợp đồng thương mại về mặt bản chất cũng là một loại hợp đồng nên nó cũng cần đáp ứng những đặc điểm cơ bản của hợp đồng như: có sự bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các bên; việc giao kết, thực hiện, chấm dứt hay hủy bỏ quyền, nghĩa vụ của các bên dựa trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận và không được trái với điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, không xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; các bên tham gia hợp đồng cần có sự thiện chí và trung thực và phải tự chịu trách nhiệm nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Nhưng bên cạnh đó, hợp đồng thương mại cũng cần phải có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt nó với các loại hợp đồng khác như: - Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể của hợp đồng thương mại Hợp đồng thương mại là thỏa thuận giữa các bên nhưng điểm đặc biệt ở đây là ít nhất một bên trong đó là thương nhân. Ít nhất một bên tức là hợp đồng thương mại có thể được kí kết giữa hai bên chủ thể là thương nhân hoặc có thể được kí kết giữa một bên thương nhân với một bên chủ thể không phải là thương nhân. Theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 thì thương nhân bao gồm: (1) “tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp” và (2) “cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh”. Theo đó, quy định của Luật Thương mại 2005 đã xóa nhòa sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân với tư cách là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài cần đáp ứng các quy định về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và năng lực hành vi thương mại đều có thể trở thành một bên chủ thể của hợp đồng thương mại. Hợp đồng thương mại có thể có cả hai bên là thương nhân như hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại…; tuy nhiên, cũng có thể chỉ cần một bên có tư cách pháp nhân, bên còn lại không phải là thương nhân, ví dụ hợp đồng trong lĩnh vực đầu tư như hợp đồng BOT, BTO… thì một bên chủ thể bắt buộc là cơ quan nhà nước có thẩm quyền (không phải là thương nhân) hoặc các hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa… thì bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ không nhất thiết phải là thương nhân [6, tr.462]. 10 - Thứ hai, đặc điểm về mục đích của hợp đồng thương mại Hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của các giao dịch trong hoạt động thương mại, mà đặc điểm nổi bật nhất của hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại 2005 là “mục đích sinh lợi”, chính vì thế một đặc điểm nổi bật của hợp đồng thương mại đó là mục đích sinh lợi. Mục đích sinh lợi ở đây được ghi nhận bằng lợi nhuận mà các bên có thể đạt được khi thực hiện hợp đồng không chỉ về vật chất, tài sản mà còn bao gồm cả những lợi ích phi tài sản khác như uy tín, thương hiệu doanh nghiệp hay niềm tin của khách hàng [6, tr.464]. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, có một bên chủ thể của hợp đồng lại không có mục đích lợi nhuận khi tham gia hợp đồng. Pháp luật để điều chỉnh các hợp đồng này sẽ do bên không có mục đích lợi nhuận lựa chọn, khi đó không phải đương nhiên pháp luật thương mại được áp dụng mà còn phải do sự lựa chọn của chủ thể tham gia hợp đồng. Quy định như vậy là do đối với các thương nhân khi họ tham gia vào một hợp đồng thương mại với mục đích sinh lợi thì rõ ràng là họ đang thực hiện một hoạt động thương mại, nên họ sẽ không thể có sự lựa chọn nào khác ngoài việc chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại. Nhưng ngược lại, với bên chủ thể tham gia hợp đồng không vì mục đích lợi nhuận thì hành vi của họ được coi là một hành vi dân sự hơn là một hoạt động thương mại. Dựa trên thực tế rằng, các quy định của pháp luật thương mại về hợp đồng thương mại thường “khắt khe” hơn các quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng nói chung, thế nên để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của bên chủ thể không vì mục đích lợi nhuận thì cho phép họ là người chọn luật áp dụng. Chỉ khi họ chọn luật thương mại thì lúc đó pháp luật thương mại mới điều chỉnh hợp đồng này. - Thứ ba, đặc điểm về hình thức của hợp đồng thương mại Trong Luật Thương mại 2005 không có một điều khoản riêng biệt nào quy định về hình thức của hợp đồng thương mại mà quy định về hình thức hợp đồng nằm rải rác trong quy định về từng loại hợp đồng thương mại cụ thể. Nhìn chung hình thức của các loại hợp đồng thương mại do các bên lựa chọn trong ba hình thức: (1) văn bản và các hình thức có giá trị tương đương văn bản như điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác; (2) lời nói và (3) hành vi cụ thể. Quy 11 định này nhìn chung khá tương tự với quy định về hình thức của hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015, tức là nhìn chung quy định về hình thức của hợp đồng thương mại không khác gì với hình thức của hợp đồng nói chung. Tuy nhiên, để đảm bảo nâng cao tính chặt chẽ của hợp đồng, lợi ích của các bên và hạn chế những rủi ro có nguy cơ xảy ra, đối với một số loại hợp đồng thương mại, pháp luật thương mại quy định hình thức của hợp đồng bắt buộc phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, ví dụ như đối với hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa hay hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài (Điều 27, Điều 159 và Điều 168 Luật Thương mại 2005). 1.1.2. Chấm dứt hợp đồng thương mại 1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của chấm dứt hợp đồng thương mại a. Khái niệm Xét về mặt ngữ nghĩa, khái niệm “chấm dứt hợp đồng” được cấu thành bởi hai từ đơn là “chấm dứt” và “hợp đồng”. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chấm dứt” là một động từ có nghĩa “làm cho ngừng hẳn, thôi hẳn” [33]; còn “hợp đồng” là sự thỏa thuận, giao ước giữa hai hay nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được viết thành văn bản [33]. Gộp chung nội hàm của hai từ “chấm dứt” và “hợp đồng” kể trên, có thể hiểu chấm dứt hợp đồng là sự ngừng (dừng) hẳn việc thực hiện các thỏa thuận, giao ước đã được các chủ thể đưa ra và thống nhất trước đó. Xét về mặt pháp lý, Bộ luật dân sự, văn bản luật quy định các vấn đề chung nhất về hợp đồng, không định nghĩa chấm dứt hợp đồng là gì mà chỉ quy định theo hướng liệt kê các trường hợp chấm dứt hợp đồng tại Điều 422 bao gồm: “Hợp đồng đã được hoàn thành; Theo thỏa thuận của các bên; Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện; Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn; Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này; Trường hợp khác do luật quy định”. Trước đó, Điều 385 BLDS đưa ra định nghĩa về hợp đồng là “sự 12 thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Từ đó có thể hiểu thuật ngữ “chấm dứt hợp đồng” tại Điều 422 là thuật ngữ được sử dụng để miêu tả sự ngừng lại việc thực hiện những quyền và nghĩa vụ dân sự đã thỏa thuận hay nói cách khác đây là thuật ngữ dùng để miêu tả việc hiệu lực của hợp đồng không còn. Liên quan đến khái niệm chấm dứt hợp đồng, pháp luật của các quốc gia trên thế giới có rất nhiều thuật ngữ pháp lý tương tự được sử dụng như “triệt tiêu hợp đồng”, “chấm dứt hợp đồng”, “hủy bỏ hợp đồng” hay “hết hiệu lực hợp đồng”… Trong đó hai thuật ngữ “chấm dứt hợp đồng” và “hủy bỏ hợp đồng” được sử dụng phổ biến nhất để nói đến các trường hợp làm cho hợp đồng không còn hiệu lực. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia lại có cách hiểu và cách quy định không giống nhau về chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng. Ví dụ theo pháp luật hợp đồng của Anh, chấm dứt hợp đồng bao gồm bốn trường hợp là hợp đồng đã được hoàn thành (performance), hợp đồng không thể thực hiện được (frustration), vi phạm hợp đồng (breach) và chấm dứt theo sự thỏa thuận của các bên (agreement) [31, tr.378]; pháp luật hợp đồng của Mỹ thì chia chấm dứt hợp đồng thành năm trường hợp gồm: (i) Chấm dứt do hoàn thành hợp đồng (discharge by performance), (ii) Chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận (discharge by agreement), (iii) Chấm dứt do thay thế nghĩa vụ (discharge by substitute contract), (iv) Chấm dứt hợp đồng theo bản kê nợ (discharge by account stated) [31, tr.388]; Không giống như cách phân chia trong pháp luật Anh và pháp luật Mỹ, Bộ luật Dân sự Pháp đã ghi nhận rất rõ các trường hợp chấm dứt hợp đồng qua quy định về chấm dứt nghĩa vụ. Các trường hợp này được liệt kê tại Điều 1234 và quy định cụ thể tại Chương V Thiên III quyển thứ ba. Theo đó, hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau: (i) Do nghĩa vụ đã được thực hiện, (ii) Do nghĩa vụ được thay thế bằng hợp đồng khác, (iii) Do bên có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ của bên kia, (iv) Do bù trừ nghĩa vụ, (v) Do người có quyền và người có nghĩa vụ hòa nhập làm một, (vi) Do vật là đối tượng của nghĩa vụ không còn, (vii) Do bị hủy bỏ [31, tr.393]. Trong khi việc sử dụng thuật ngữ “hủy bỏ hợp đồng” hầu như không có tranh cãi, thì thuật ngữ “chấm dứt hợp đồng” vẫn còn những cách sử dụng khác nhau [30, 13 tr.60]. Trong khoa học pháp lý “hủy bỏ hợp đồng” được sử dụng như một hình thức chế tài, có hiệu lực hồi tố, tức là khi hợp đồng bị hủy bỏ, mối quan hệ của các bên quay trở lại trạng thái ban đầu, như chưa hề có mối quan hệ hợp đồng xảy ra. Thuật ngữ “chấm dứt hợp đồng” có thể được sử dụng theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng, chấm dứt hợp đồng là toàn bộ các trường hợp làm kết thúc hiệu lực của hợp đồng, bao hàm cả hủy bỏ hợp đồng; theo nghĩa hẹp, chấm dứt hợp đồng làm hợp đồng mất hiệu lực từ thời điểm chấm dứt hợp đồng, phân biệt với hủy bỏ hợp đồng. Ranh giới căn bản giữa “hủy bỏ hợp đồng” và “chấm dứt hợp đồng” trong đa phần các hệ thống pháp luật, đôi khi, dựa trên cách thức thực hiện, nhưng chủ yếu vẫn là dựa vào hệ quả của chúng: hệ quả cảu việc chấm dứt hợp đồng chỉ có giá trị trong tương lai, trong khi đó, về nguyên tắc, hủy bỏ hợp đồng mang tính tài phán và thường kéo theo sư triệt tiêu hiệu lực ngay từ đầu (hồi tố) của hợp đồng. Trong khi đó, pháp luật dân sự Việt Nam có sự phân biệt rõ ràng giữa hai khái niệm “chấm dứt hợp đồng” và “hủy bỏ hợp đồng”. Điều 423 BLDS 2015 quy định các trường hợp chấm dứt hợp đồng bao hàm hủy bỏ hợp đồng. Theo đó, “hủy bỏ hợp đồng” là một trong số các trường hợp làm chấm dứt hợp đồng. Như vậy, chấm dứt hợp đồng, theo pháp luật dân sự Việt Nam, là các tình huống dẫn đến kết thúc hiệu lực của hợp đồng có thể từ thời điểm hợp đồng chưa có hiệu lực (giá trị hồi tố) hoặc từ thời điểm xảy ra các căn cứ chấm dứt hợp đồng. b. Đặc điểm Thứ nhất, về căn cứ chấm dứt: Khác với các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ thông thường có thể được chấm dứt trên cơ sở của một trong 11 căn cứ được quy định tại Điều 372 BLDS 2015. Việc chấm dứt hợp đồng chỉ dựa theo một trong 7 căn cứ tại Điều 422 BLDS 2015. Theo đó, phạm vi các căn cứ chấm dứt hợp đồng bị thu hẹp hơn rất nhiều so với các căn cứ làm chấm dứt nghĩa vụ nói chung. Điều này có ý nghĩa nhằm hạn chế sự tùy tiện trong việc chấm dứt hợp đồng của các bên, khuyến khích các bên lựa chọn phương án phù hợp hơn để tiếp tục thực hiện hợp đồng, thay vì chấm dứt hợp đồng. Thứ hai, về tính chất: việc chấm dứt hợp đồng có thể hiểu là một giai đoạn của quá trình giao kết, thực hiện và kết thúc hợp đồng. Tuy nhiên, trong Luật 14 thương mại, việc chấm dứt hợp đồng còn được hiểu như là một trong những chế tài mà bên bị vi phạm được quyền áp dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thứ ba, về hậu quả pháp lý: việc chấm dứt hợp đồng bản chất là làm dừng lại hiệu lực của hợp đồng. Theo đó, các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể sẽ dừng lại hoặc có thể không phát sinh hiệu lực tùy vào từng trường hợp chấm dứt. Thứ tư, về mục đích: Việc chấm dứt hợp đồng nhằm nhiều mục đích khác nhau. Nó có thể nhằm làm kết thúc một quan hệ nghĩa vụ do đã được hoàn thành, nhưng việc chấm dứt đó cũng có thể nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể hợp đồng do việc tiếp tục thực hiện hợp đồng rất có thể sẽ gây thiệt hại cho các bên; Trong một số trường hợp, việc chấm dứt này còn có thể do hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện được nên buộc phải chấm dứt. 1.1.2.2. Phân loại chấm dứt hợp đồng - Căn cứ vào ý chí của các bên đối với việc chấm dứt hợp đồng mà các trường hợp chấm dứt hợp đồng được chia thành ba nhóm cơ bản: + Nhóm thứ nhất: Nhóm các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo ý chí của cả hai bên đối tác. Đó là hai trường hợp sau: Khi hợp đồng được hoàn thành: Việc thực hiện hợp đồng là thực hiện những nghĩa vụ mà các bên cam kết trong hợp đồng. Khi các bên đã tự nguyện thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ của mình một cách chu đáo, đúng như yêu cầu, thì sẽ giải thoát mình khỏi sự ràng buộc pháp lý của hợp đồng. Hợp đồng khi đó được coi là thực hiện xong và chấm dứt. Đât là trường hợp phổ biến nhất làm chấm dứt hợp đồng [28]. Theo thỏa thuận của các bên: Theo nguyên tắc chung, các bên hoàn toàn có quyền tự thỏa thuận xác lập hợp đồng cũng như tự thỏa thuận chấm dứt hợp đồng. Trong một số trường hợp, mặc dù các nghĩa vụ của hợp đồng chưa được thực hiện xong, nhưng do nhu cầu khách quan thay đổi, các bên vẫn có thể thỏa thuận lại với nhau chấm dứt hợp đồng ngay mà không cần phải chờ đến khi thực hiện xong. Khi đó, theo thỏa thuận, các bên được giải thoát không phải thực hiện tiếp các nghĩa vụ còn lại. Hợp đồng đến đây chấm dứt. 15 + Nhóm thứ hai: Các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo ý chí của một bên đối tác. Nhóm này gồm ba trường hợp là theo bản chất của hợp đồng. + Nhóm thứ ba: Các trường hợp chấm dứt hợp đồng không theo ý chí của các bên đối tác. Đây là những trường hợp xảy ra do các sự biến khách quan ảnh hưởng tới. Các bên khi giao kết hợp đồn không dự liệu trước những sự biến đó và khi sự biến đó xảy ra thì các bên cũng không khắc phục được để có thể thực hiện tiếp hợp đồng. - Căn cứ vào thời điểm chấm dứt: hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm xác lập, sau khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng và chấm dứt hợp đồng trước khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng. Hợp đồng chấm dứt hiệu lực sau khi hết thời hạn là trường hợp hợp đồng đã được hoàn thành (khoản 1 Điều 422). Trong các căn cứ chấm dứt hợp đồng tại Điều 422 BLDS 2015 thì chỉ có duy nhất trường hợp hủy bỏ hợp đồng làm cho hợp đồng chấm dứt kể từ khi hợp đồng được xác lập (khoản 4); Các trường hợp còn lại đều làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm hợp đồng hết hiệu lực. - Căn cứ vào sự vi phạm của bên đối tác: hợp đồng chấm dứt do có sự vi phạm của bên đối tác và không có sự vi phạm của bên đối tác. Hầu hết các căn cứ chấm dứt hợp đồng tại Điều 422 BLDS 2015 đều là các trường hợp chấm dứt hợp đồng không có sự vi phạm của bên đối tác, trừ trường hợp hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, trong quy định của Luật Thương mại năm 2005 thì hầu hết các trường hợp chấm dứt hợp đồng được dự liệu trong Luật đều là các trường hợp chấm dứt do sự vi phạm của đối tác (hủy bỏ hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng). Đây được coi là những chế tài mà bên bị vi phạm có thể sử dụng để áp dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ do không thực hiện đúng thỏa thuận trong hợp đồng. 1.1.2.3. Ý nghĩa của việc chấm dứt hợp đồng thương mại Thứ nhất, quy định về việc chấm dứt hợp đồng thương mại giúp các chủ thể xác định được thời điểm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Về nguyên tắc quá trình giao kết, thực hiên hợp đồng thương mại được dựa trên cơ sở của nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyện thỏa thuận được quy định trong Bộ luật dân sự. Thực tế khi các bên của quan hệ hợp đồng tuân thủ và thực hiện nghiêm 16 chỉnh các nguyên tắc kể trên thì hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực và được thực hiện bình thường cho đến khi hết thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng và chấm dứt là điều hiển nhiên. Điều này hoàn toàn giống với mục đích mà các chủ thể hợp đồng đề ra khi xác lập hợp đồng. Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan trong quan hệ hợp đồng đã được giao kết trong trường hợp vì lí do khách quan không mong muốn và không thể dự liệu trước mà hợp đồng thương mại bị rơi vào trường hợp phải chấm dứt (dừng hiệu lực trước khi hết thời hạn). Điều này nằm ngoài mong muốn của các bên. Trong những trường hợp này, ít nhiều lợi ích của các bên sẽ có thể bị ảnh hưởng. Bởi vậy, đặt ra yêu cầu nếu các bên muốn dừng hiệu lực của hợp đồng trước thời hạn để bảo vệ quyền lợi của mình trước rủi ro có thể xảy đến. Thứ ba, việc BLDS và Luật Thương mại cho phép bên bị vi phạm được quyền hủy bỏ hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng (đình chỉ thực hiện hợp đồng) còn đảm bảo việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trên thực tế, hạn chế tình trạng cố ý vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng gây thiệt hại cho đối tác. Qua đó, điều này còn gián tiếp bảo vệ các chuẩn mực ứng xử được pháp luật dự liệu trong pháp luật hợp đồng từ giai đoạn giao kết đến thực hiện hợp đồng. Bởi lẽ, Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Khi một quy định pháp luật được ban hành đồng nghĩa với việc Nhà nước đưa ra một chuẩn mực ứng xử chung bắt buộc các chủ thể trong xã hội phải tuân thủ đầy đủ và chính xác. Thứ tư, quy định về hậu quả pháp lý trong các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo hướng giống như hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu (trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng) – hai bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu có lỗi phải bồi thường thiệt hại còn có tính răn đe các bên hợp đồng, hạn chế sự vi phạm pháp luật nhằm gây thiệt hại cho đối tác do việc hoàn trả này trên thực tế rất khó thực hiện. 1.1.2.4. Những yếu tố tác động đến việc chấm dứt hợp đồng thương mại Thứ nhất, các yếu tố khách quan bao gồm: các quy định của pháp luật; sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội; điều kiện tự nhiên… Tất cả các yếu tố này tác động rất lớn tới việc chấm dứt hợp đồng thương mại ở các góc độ khác nhau. 17 Bởi lẽ, trong các căn cứ làm chấm dứt hợp đồng thì hầu hết đều là các căn cứ được xây dựng từ những ảnh hưởng của ngoại cảnh tới việc thực hiện hợp đồng. Ví dụ như chấm dứt hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản, chấm dứt do đối tượng của hợp đồng không còn, do chủ thể của hợp đồng là cá nhân chết, pháp nhân bị tuyên bố giải thể (gọi chung là không còn tồn tại trước khi kết thúc thời hạn thực hiện hợp đồng). Đây là những yếu tố nằm ngoài dự liệu của chủ thể khi giao kết hợp đồng, các bên khi xác lập đều không mong muốn các yếu tố này xảy ra. Tuy nhiên, pháp luật quy định khi các căn cứ này xảy ra thì hợp đồng phải chấm dứt. Đồng nghĩa với việc quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không thể tiếp tục được thực hiện. Do đó, có thể nói các yếu tố ngoại cảnh (khách quan) là những yếu tố rất quan trọng tới việc chấm dứt hợp đồng thương mại, đặc biệt là các quy định của pháp luật. Bởi nếu các quy định của pháp luật rõ ràng, tiến bộ, dự liệu được đầy đủ các trường hợp có thể xảy ra làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng thì sẽ hạn chế tối đa các tranh chấp nảy sinh liên quan tới việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng thương mại. Thứ hai, các yếu tố chủ quan xuất phát từ ý chí của các chủ thể của hợp đồng. Thực tế cho thấy các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo sự thỏa thuận, hủy bỏ và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là những căn cứ chấm dứt hợp đồng phổ biến nhất. Trong các yếu tố chủ quan thì nhận thức của các bên về việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng là yếu tố quan trọng nhất làm chấm dứt hợp đồng. Nếu các bên có kiến thức pháp luật vững chắc, nhận thức được tầm quan trọng và hậu quả pháp lý có thể xảy đến của việc chấm dứt hợp đồng thì hậu quả xảy ra cho các bên sẽ được giảm thiểu và ngược lại. Bởi vậy, theo ý kiến của tác giả việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao ý thức pháp luật cho các thương nhân trong quan hệ thương mại là điều hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, việc nâng cao kiến thức pháp lý và thực tiễn cho đội ngũ cán bộ Tòa án cũng có vai trò rất quan trọng đối với vấn đề chấm dứt hợp đồng, đặc biệt là trong trường hợp tuyên bố chấm dứt hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản và giải quyết tranh chấp hợp đồng phát sinh giữa các bên. 1.1.2.5. Sự tương đồng và khác biệt về chấm dứt hợp đồng thương mại với chấm dứt một số hợp đồng khác 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan