Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cải cách hành chính từ thực tiễn huyện phù mỹ, tỉnh bình định...

Tài liệu Cải cách hành chính từ thực tiễn huyện phù mỹ, tỉnh bình định

.PDF
67
33
112

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài Trước đây, chúng ta chưa thực sự chú trọng vấn đề này nên đến nay thủ tục hành chính vẫn là một trong những nguyên nhân gây ách tắc, kìm hãm các hoạt động kinh tế - xã hội, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân cũng như sự hoạt động nhịp nhàng của bộ máy hành chính nhà nước và điều đáng ngại là tệ nạn đó làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Do đó, từ những quan niệm về một nền hành chính tốt đặt trong điều kiện quản trị Nhà nước pháp quyền thì cần phải luôn luôn đặt tư duy luôn luôn đổi mới, cách cách tổ chức và hoạt động, cơ chế một cách toàn diện. Đó là quá trình diễn ra liên tục, luôn luôn được thực hiện có tổng kết và đánh giá, rút kinh nghiệm sửa lại cho phù với tình hình mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hành chính nhà nước. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa VII của Đảng (1995) đã ra Nghị quyết về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Cải cách hành chính một số mặt chưa đạt yêu cầu. Thực hiện tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu. Theo tinh thần trên, công tác cải cách hành chính (CCHC) huyện Phù Mỹ đã tập trung một số nội dung như: Công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính; Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính và thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Cải cách tài chính công; Hiện đại hóa nền hành chính và Kiểm tra thực tế tình hình tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Qua kiểm tra, Đoàn kiểm tra cũng đánh giá cao những kết quả đạt được, như: Đã ban hành nhiều kế hoạch, văn bản để chỉ đạo thực hiện các nội dung CCHC; tổ chức Hội nghị tổng kết công tác CCHC năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019; tổ chức tốt Bộ phận Một cửa; thực hiện tốt việc giải quyết TTHC cho tổ chức và công dân. 1 Bên cạnh đó, vẫn những tồn tại hạn chế như: Một số mục tiêu trong Kế hoạch CCHC năm 2019 chưa bám sát vào tình hình thực tế của địa phương; việc niêm yết công khai TTHC chưa đảm bảo theo quy định; tỷ lệ sử dụng hệ thống thư điện tử và trao đổi văn bản dưới dạng điện tử và ký số trên văn bản điện tử còn thấp. Do đó, học viên chọn đề tài “Cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định” làm luận văn thạc sĩ luật học đáp ứng được cả hai tiêu chí: Lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành chính nhà nước do Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013 do PGS.TS: Nguyễn Hữu Hải chủ biên. Sách gồm 8 chương, tập trung cung cấp những kiến thức cơ bản của khoa học hành chính nói chung và hành chính nhà nước nói riêng: Trình bày sự hình thành và phát triển của hành chính học, đối tượng, nội dung và phương pháp tiếp cận nghiên cứu hành chính học các khái niệm cơ bản, đặc điểm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hành chính nhà nước, các lý thuyết, mô hình hành chính nhà nước, kiểm soát bên ngoài và kiểm soát nội bộ đối với hành chính nhà nước, giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực hành chính nhà nước. - Kỹ năng quản lý hành chính do Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2014 của TS. Phạm Đức Chính và PGS.TS. Ngô Thành Can; Cuốn sách đã cho thấy những kiến thức cơ bản về một số kỹ năng trong quản lý hành chính như tư duy, phân tích, giao tiếp, quản lý thời gian làm việc… giúp nhà quản lý nắm bắt được những kỹ năng cơ bản trong quản lý hành chính từ đó hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ được giao, đạt kết quả cao trong quản lý. - Một số công trình đã nghiên cứu như Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Nguyễn Thị Thanh về Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND huyện thuộc tỉnh Quảng Nam”; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Đàm Thị Hồng Hạnh về Đánh giá hiệu quả thực hiện hành chính theo cơ chế một cửa tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Vừ Thị Bịch Thiều về Quyền Công dân trong cải cách hành chính Nhà nước từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên; Luận văn thạc sĩ quản lý hành 2 chính công của Đỗ Thị Hồng Tâm về Cải cách hành chính đối với dịch vụ đăng ký tờ khai nhập khẩu tại cục Hải quan thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Mai Thị Thơm về Cải cách Hành chính theo cơ chế “Một cửa” về cấp phép xây dựng từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm - Hà Nội”; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Cù Ngọc Tuấn về Hoàn thiện việc giải quyết hành chính tại UBND quận, huyện thành phố Hà Nội theo tiêu chuẩn ISO; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Lê Thị Bình Minh về Đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2011 - 2020; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Mai Đức Khánh về Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình; Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Nguyễn Quang Minh về Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Thái Bình”. Vì vậy, đề tài Luận văn về cơ bản là mới, chưa được nghiên cứu tổng thể, toàn diện. Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đã được ra nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện vấn đề này trong lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về nội dung, vai trò, đồng thời đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật về cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra, tác giả thực hiện những nhiệm vụ sau: - Nêu và phân tích các khái niệm cơ bản của cải cách hành chính. - Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định pháp luật về cải cách hành chính theo pháp luật Việt Nam hiện nay. 3 - Đánh giá thực trạng pháp luật về cải cách hành chính ở Việt Nam và hệ thống pháp luật có liên quan ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định hiện nay từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật. - Đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện về cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn đi sâu nghiên cứu các quan điểm, các quy định của pháp luật về cải cách hành chính và các quy định pháp luật có liên quan. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Phạm vi nghiên cứu về không gian: Những quy định của pháp luật hiện hành về cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định Phạm vi nghiên cứu về thời gian: 2015 - 2020. Địa bàn nghiên cứu: huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác LêNin, đồng thời bám sát các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật về cải cách hành chính. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Phương pháp đánh giá, bình luận. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp, diễn dịch. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần vào việc xây dựng luận cứ khoa học trong quá trình hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật cải cách hành chính phù hợp với thực tiễn tại một huyện có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn như huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Góp phần giúp chính quyền và các cơ quan ban ngành nghiên cứu hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cải cách hành chính theo pháp luật Việt Nam trong gian đoạn tới; 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần: Mục lục, danh mục các từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được chia làm ba chương như sau: Chương 1: Khái quát chung về cải cách hành chính hiện nay. Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật về cải cách hành chính và thực tiễn áp dụng tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cải cách hành chính. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH HIỆN NAY 1.1. Khái niệm, nội dung tổng thể chương trình cải cách hành chính, ý nghĩa cải cách hành chính 1.1.1. Khái niệm cải cách hành chính Cải cách hành chính (CCHC) là một trong những nội dung chủ yếu của khoa học hành chính, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao. Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận không tách rời khỏi bộ máy nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị của một quốc gia nói chung, nên nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố chính trị, yếu tố kinh tế - xã hội, cũng như mang tính đặc trưng khác của mỗi quốc gia như truyền thống văn hóa, lịch sử hình thành và phát triển… CCHC ở các nước khác nhau nên cũng mang sắc thái riêng, được tiến hành trên những cấp độ khác nhau, ở nội dung khác nhau. Ở Việt Nam, CCHC được xác định là một bộ phận quan trọng của công cuộc đổi mới, là trọng tâm của tiến trình cải cách nhà nước. CCHC là tác động có kế hoạch lên toàn bộ hoặc một số bộ phận của hệ thống hành chính được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm cho hoạt động của nó hiệu lực, hiệu quả, năng suất và chất lượng cao hơn, tạo ra những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhằm làm cho các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn. Thông qua hoạt động CCHC tạo nên những thay đổi cơ bản trong hệ thống hành chính nhà nước: Thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính công và tiến trình quản lý nhà nước. CCHC bao gồm các cải cách về tổ chức, nhân sự, quy trình và công vụ cũng như các biện pháp thích ứng của hành chính công nhằm tạo ra các cơ quan hành chính hiệu quả với nhân dân. CCHC thay đổi cơ bản, lâu dài, liên tục các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước để tạo ra hiệu lực, hiệu quả quản lý và các sản phẩm phục vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực. CCHC có chủ định 6 nhằm cải tiến quản lý của bộ máy nhà nước; lập kế hoạch; định thể chế; tổ chức; công tác cán bộ; tài chính; chỉ huy; phối hợp; kiểm tra; thông tin và đánh giá” [Error! Reference source not found., tr.8]. Như vậy, quan niệm về cải cách là xu thế tất yếu dành cho một quốc gia một con đường nhằm thay đổi căn bản về chất để đáp ứng những đòi hỏi của xã hội, sửa đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan. Do đó, trong lĩnh vực quản lý hành chính công mới và quản trị nhà nước tốt đều có bản chất là hướng tới xây dựng một nền hành chính minh bạch, tinh gọn, năng động và hiệu quả, nó hướng đến phục vụ công dân thay vì cai trị nhân dân như trong mô hình hành chính công truyền thống. Đây là những xu hướng cải cách hành chính đã xuất hiện khoảng 30 năm trở lại đây trên thế giới và ngày càng mở rộng như là xu thế tất yếu của thời đại. “Nếu quản lý công mới nhấn mạnh đến sự tham gia của khu vực tư vào khu vực công, vận dụng những nguyên tắc của thị trường vào hoạt động của Chính phủ, phi tập trung hóa và phi quy chế hóa, khoa học hóa quy trình quản lý, các quyết sách chính trị - hành chính để hướng đến một nền hành chính năng động, hiệu quả” [35]. Do đó, từ những quan niệm về một nền hành chính tốt đặt trong điều kiện quản trị Nhà nước pháp quyền thì cần phải luôn luôn đặt tư duy luôn luôn đổi mới, cách tổ chức và hoạt động, cơ chế một cách toàn diện. Đó là quá trình diễn ra liên tục, luôn luôn được thực hiện có tổng kết và đánh giá, rút kinh nghiệm sửa lại cho phù với tình hình mới nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hành chính nhà nước. Cuốn Thuật ngữ Hành chính của Học viện hành chính Quốc gia, “Cải cách hành chính là hệ thống những chủ trương, biện pháp tiến hành những sửa đổi, cải tiến mang tính cơ bản và có hệ thống nền hành chính nhà nước (hay còn gọi là nền hành chính công, nền hành chính quốc gia) về các mặt: Thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, chế độ công vụ, quy chế công chức, năng lực, trình độ, phẩm chất phục vụ của đội ngũ công chức làm việc trong bộ máy đó. Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền” [20,tr.103]. 7 Trên cơ sở khái niệm cải cách, đã có nhiều khái niệm về cải cách hành chính được đưa ra như sau: Cải cách hành chính có thể hiểu là một quá trình thay đổi cơ bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và các cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu lực và hiệu quả quản lý và chất lượng các sản phẩm (dịch vụ hoặc hàng hoá) phục vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực. Chính việc cải cách hành chính làm thay đổi được thiết kế có chủ định của chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm hướng tới thực hiện việc cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước từ việc: Lập kế hoạch; định thể chế; tổ chức; công tác cán bộ; tài chính; chỉ huy; phối hợp; kiểm tra; thông tin; và đánh giá.” 1.1.2. Nội dung tổng thể chương trình cải cách hành chính, ý nghĩa cải cách hành chính 1.1.2.1. Cải cách thể chế “Thể chế của nền hành chính được cải cách và hoàn thiện phát huy dân chủ với thiết lập chế độ công khai, minh bạch và cơ chế kinh tế thị trường. Thủ tục hành chính trong giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp công khai, minh bạch. Cải cách hành chính là một quá trình thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước; qua đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhận thức được cải cách hành chính là yếu tố tác động thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đóng vai trò then chốt trong đổi mới, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại nên trong thời gian qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã nổ lực hết mình trong công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện các nhiệm vụ về cải cách hành chính. Trên cơ sở đó, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện với những sáng kiến mới, cách làm hay để mang lại hiệu quả tốt nhất nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và hướng đến chính quyền phục vụ nhân 8 dân. “Những kết quả khả quan trong thực hiện cải cách hành chính đã giúp hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước tại địa phương từng bước được nâng lên. Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm được đổi mới và hoàn thiện cơ bản từ khâu dự đoán, dự báo, soạn thảo, ban hành, triển khai và tổ chức thực hiện đảm bảo đúng quy trình, công khai, dân chủ, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Công tác cải cách thủ tục hành chính được Tỉnh quan tâm đẩy mạnh và đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông điện tử theo hướng hiện đại cho tất cả các cơ quan hành chính cấp huyện và đang thực hiện đến các cơ quan hành chính cấp tỉnh và cấp xã. Tỉnh đã triển khai thực hiện đúng các quy định về tổ chức bộ máy của Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương. Các cơ quan hành chính từng bước được kiện toàn, phân định rõ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo quản lý nhà nước đúng theo pháp luật và phục vụ xã hội trong giai đoạn mới. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhận thức được vai trò, ý nghĩa của cải cách hành chính và nổ lực trau dồi kiến thức, nghiệp vụ để phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp”[3, tr.18]. 1.1.2.2. Cải cách thủ tục hành chính Cải cách tổ chức bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương: Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới; Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhận để khắc phục những chống chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặcdoanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện; ban hành và áp dụng các quy định mới về phân cấp Trung ương - địa phương, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân địa phương. Gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến 9 của Trung ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương; bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ; điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương; cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp; thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính. 1.1.2.3. Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức Tiếp tục đẩy mạnh công tác chỉ đạo điều hành, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và địa phương, gắn công tác thi đua, khen thưởng với cải cách hành chính, thực hiện phê bình, kiểm điểm người đứng đầu và cán bộ, công chức, viên chức thực hiện không tốt công tác cải cách hành chính. Đồng thời, Tỉnh tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về cải cách hành chính bằng nhiều hình thức và tổ chức triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ về cải cách hành chính đến tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh. Ngoài các giải pháp nhằm tạo sự chuyển biến lớn từ trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thì bài toán về chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở cũng là một vấn đề đáng lo ngại bởi đội ngũ này là người trực tiếp tiếp xúc giải quyết các mối quan hệ hành chính với tổ chức, công dân. Gần đây chế độ chính sách có cải thiện nhưng chưa kích thích và thu hút được người tài về phục vụ địa phương. Đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cấp cơ sở nói riêng thiếu ổn định, thiếu kế thừa, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và phục vụ tổ chức, công dân. Trước khó khăn đó, Tỉnh đang nghiên cứu đề xuất thực hiện mô hình thi tuyển Phó Chủ tịch UBND cấp xã nhằm tạo nguồn cán bộ trẻ, tài năng phục vụ địa phương. Đối với cán bộ, công chức thừa hành sẽ tiến hành khảo sát, điều tra thực trạng, phân loại, đào tạo, giải quyết tinh giản biên chế, điều động, luân chuyển công chức từ huyện về xã,… nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về chất cho cán bộ, công chức cấp cơ sở để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới. 1.1.2.4. Cải cách tài chính công Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách Trung ương; 10 đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách. 1.1.2.5. Hiện đại hóa nền hành chính Rất chú trọng nâng cao thực hiện công tác hiện đại hóa hành chính, đến nay toàn có 100% huyện, thị xã, thành phố thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại và cũng đang thực hiện tại một số sở, ngành; trong năm 2015 sẽ tiến hành thực hiện đến các xã nông thôn mới. Tuy là một trong những đi đầu trong thực hiện cơ chế một cửa hiện đại nhưng đối với phần mềm và quá trình vận hành phần mềm cũng còn nhiều lúng túng. Nguyên nhân là do chưa có quy chuẩn về kỹ thuật của phần mềm, quy định về tổ chức và quy chế hoạt động, tiêu chuẩn của Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả hiện đại nên việc triển khai cho các địa phương chưa đồng nhất, vẫn còn nhiều lỗi trong quá trình sử dụng và cần tiếp tục hoàn thiện phần mềm. Năm 2015, Các địa phương sẽ tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện một cửa hiện đại đến cấp xã và xây dựng quy định chung về các lĩnh vực thực hiện một cửa hiện đại, ban hành quy chế tổ chức hoạt động của Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả khi Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông đối với các cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương. 1.1.3. Ý nghĩa cải cách hành chính 1.1.3.1. Đối với Nhà nước Cải cách hành chính nhà nước trong điều kiện hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng trước hết là hoạt động thực thi quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực Nhà nước, tức là quyền thực thi pháp luật có tính cưỡng bức đối với xã hội. 11 Thông qua hoạt động cải cách hành chính nhà nước khi xây dựng nhà nước pháp quyền các quy phạm pháp luật đi vào đời sống xã hội, điều chỉnh, duy trì trật tự xã hội theo định hướng của Nhà nước. Bên cạnh đó, bộ máy cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền còn đảm bảo cung cấp các dịch vụ công thiết yếu nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu chúng, đời sống của người dân không được đảm bảo, sự phát triển của xã hội không được duy trì và do đó có thể làm lung lay địa vị của giai cấp thống trị. Tầm quan trọng của Cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền đối với sự phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện trên những mặt cơ bản sau: Thứ nhất, vai trò này xuất phát từ chức năng chấp hành của Cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền. Chủ thể Cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền có trách nhiệm chấp hành quyết định của các cơ quan chính trị nhằm đạt được các mục tiêu chính trị của quốc gia, phục vụ lợi ích của đất nước, của nhân dân. Thứ hai, vai trò này xuất phát từ chức năng cụ thể của điều hành Cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền là: Định hướng (thông qua quy hoạch, kế hoạch), điều chỉnh các quan hệ xã hội (thông qua ban hành văn bản lập quy); hướng dẫn và tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, chính sách...; kiểm tra, thanh tra và xử lý những vi phạm pháp luật. Thứ ba, để thực hiện tốt hai vai trò trên, hành chính luôn có trách nhiệm duy trì và tạo lập những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các yếu tố cấu thành xã hội: Duy trì và phát triển các nguồn tài nguyên, kiến tạo các nguồn lực vật chất, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, phát triển nguồn lực con người, khắc phục những thất bại của thị trường hoặc hậu quả do những sai sót của Cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền gây ra... đảm bảo cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Vì suy cho cùng, Cải cách hành chính nhà nước hội nhập sâu rộng các mặt của đời sống 12 quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền được thiết lập nhằm để phục vụ lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của xã hội, là chủ thể của quyền lực nhà nước và còn giữ vai trò trọng tài, giải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô. 1.1.3.2. Đối với công dân, doanh nghiệp, cơ quan và tổ chức có liên quan Công cuộc CCHC đối với công dân, doanh nghiệp, cơ quan và tổ chức có liên quan về cải cách TTHC rất có ý nghĩa như: Cơ chế “Một cửa”, “Một cửa liên thông” từ khi được ban hành kèm theo Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04-09-2003 và Quyết định số 93/2007/QĐTTg ngày 22-06-2007 của Thủ tướng Chính phủ. Đây được coi là mũi đột phá quan trọng trong công tác cải cách TTHC. Về lợi ích của cơ chế “Một cửa”, “Một cửa liên thông”: - Giảm phiền hà cho tổ chức, công dân. - Chống tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu, nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước. - Tinh giảm, sắp xếp lại bộ máy cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả và khoa học. - TTHC đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật. - Công khai các TTHC, các loại phí, lệ phí và thời gian giải quyết đối với từng loại TTHC. - Bảo đảm giải quyết công việc nhanh, chính xác. Cụ thể áp dụng trong các lĩnh vực: Phê duyệt các dự án đầu tư trong và ngoài nước; xét duyệt cấp vốn xây dựng cơ bản; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; cấp giấy phép xây dựng; giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất; giải quyết chính sách xã hội… .. “CCHC nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính; tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân 13 dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật; xoá bỏ về cơ bản các TTHC mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các TTHC mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân. Do vậy, việc cải cách TTHC có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện quan hệ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với người dân, doanh nghiệp, bảo đảm tính công khai minh bạch trong giải quyết công việc của nhân dân, góp phần phòng chống tham nhũng hiệu quả trong cán bộ, công chức” [44,tr.2]. Ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, công tác cải cách TTHC luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá trong phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đơn giản hóa này sẽ giảm số lượng các TTHC phải tuân theo, do đó môi trường đầu tư của huyện sẽ được thuận lợi hơn, thông thoáng hơn, đồng thời giảm chi phí xã hội và tăng năng suất lao động, đơn giản hóa, loại bớt các TTHC rườm rà, không cần thiết, cắt giảm đáng kể chi phí trong thực hiện các TTHC, tạo ra tăng trưởng kinh tế, khắc phục nhiều bất cập cho người dân và doanh nghiệp. 1.2. Nguyên tắc thực hiện cải cách hành chính hiện nay Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung đa dạng, có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế cần phải xác định được chúng gồm những nguyên tắc cơ bản nào, cần phải phân loại chúng một cách khoa học để xác định được vị trí, vai trò của từng nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước, từ đó xây dựng và áp dụng hệ thống các nguyên tắc một cách có hiệu quả vào thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. 1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc này đòi hỏi mọi vấn đề tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước của huyện như Phù Mỹ, tỉnh Bình Định phải được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ, và pháp luật đó phải được tuân thủ nghiêm chỉnh. Tăng cường pháp chế là một nhân tố quan trọng để phát triển dân chủ XHCN. Tuân thủ pháp chế trong hoạt động quản lý có nghĩa là: 14 “- Trong hoạt động ban hành quyết định và thực hiện những hành vi quản lý, các cơ quan quản lý không được vượt ra khỏi phạm vi thẩm quyền do luật định. - Mở rộng các bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức xã hội, của cơ quan cấp dưới, tổ chức và đơn vị cơ sở; - Để bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước thì không những hoạt động bảo đảm pháp chế phải trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý trong bộ máy nhà nước và ngay trong bộ máy quản lý phải có những cơ quan, tổ chức chuyên thực hiện chức năng này. - Để thực hiện nguyên tắc pháp chế, cần quán triệt quan hệ giữa tính pháp chế và tính hợp lý” [62,tr.23]. Cải cách hành chính ở huyện như Phù Mỹ, tỉnh Bình Định luôn hoạt động theo tôn chỉ tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc pháp chế. Trong công tác cải cách hành chính, việc tuân theo pháp luật là tiêu chí hàng đầu tại cấp huyện như Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Theo nguyên tắc này, việc sắp xếp bộ máy tổ chức luôn dựa trên quy định của pháp luật và hoạt động trong khuôn phổ, theo trình tự luật định. Những văn bản áp dụng pháp luật, những quyết định hành chính nhà nước do cấp huyện như Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ban hành không được trái với các nguyên tắc Hiến định cũng như không được trái với các văn bản luật và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành, không được vượt quá giới hạn quy định của pháp luật. 1.2.2. Nguyên tắc phân định quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước “Tuy nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, nhà nước không phải là người trực tiếp kinh doanh. Các cơ quan nhà nước định ra chiến lược, qui hoạch và định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý có cơ sở pháp lý ổn định vững chắc. Các tổ chức kinh doanh có nhiệm vụ chấp hành và cụ thể hoá chiến lược và kế hoạch kinh tế - xã hội của nhà nước, thực hiện cơ chế kinh doanh, tiêu chuẩn, định mức của nhà nước, chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhà nước có chức năng tổ chức và điều chỉnh nền kinh tế quốc dân bằng những biện pháp vĩ mô: Thông qua các biện pháp kinh tế, hành chính, tạo khung cho cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. 15 Các tổ chức kinh doanh trực tiếp thực hiện kinh doanh trong phạm vi vĩ mô, nhằm tạo nhiều của cải vật chất thiết yếu cho xã hội, tránh sự độc quyền của tư nhân, có thể ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế quốc dân” [62,tr.24]. Khác với các mối quan hệ trong hoạt động chấp hành điều hành, các quan hệ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh doanh được điều chỉnh bình đẳng theo quan hệ pháp luật dân sự, luật thương mại. Nếu các cơ quan nhà nước hoạt động bằng ngân sách nhà nước, thì các tổ chức kinh doanh là những tổ chức độc lập tự chủ về tài chính, tự cấp vốn và hạch toán kinh tế. Việc quản lý trong hành lang pháp lý chặt chẽ thông qua các cơ quan quản lý hành chính nhà nước sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế thuận lợi, thông thoáng, tự chủ và đạt hiệu quả cao. 1.2.3. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ “Ngành là tổng thể những đơn vị sự nghiệp, đơn vị, tổ chức sản xuất - kinh doanh cùng một loại sản phẩm nhất định, bất luận các đơn vị, tổ chức có quy mô như thế nào và thuộc thành phần kinh tế nào. Sự phân chia các mặt hoạt động xã hội thành ngành (dựa trên sản phẩm cuối cùng) là kết quả sự phân công lao động xã hội xảy ra đồng thời với qúa trình phát triển sản xuất và chuyên môn hoá các loại hoạt động khác nhau của con người. Tùy theo cách phân loại sản phẩm chung - riêng, rộng hẹp khác nhau mà người ta chia thành các ngành, phân ngành, ngành chuyên sâu… Sự phân công lao động xã hội phần nhiều phân công lao động quản lý” [63,tr.36]. Sự phân chia lao động xã hội thành ngành quy định nhu cầu quản lý theo ngành. “Nhưng không phải mỗi ngành đều cần một trung tâm quản lý duy nhất ở trung ương là bộ, cơ quan ngang bộ, hoặc cơ quan khác thuộc Chính phủ. Các bộ, trong cải cách hành chính hiện nay thường là cơ quan quản lý nhiều ngành hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, hành chính - chính trị có liên quan mật thiết với nhau. Các cơ quan quản lý này chỉ có chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển, quản lý phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng và kiểm tra việc thực hiện pháp luật, các chính sách, thể chế, nghiên cứu xây dựng bộ máy quản lý ngành, chính sách cán bộ… giải quyết những vấn đề lớn, cơ bản, nhằm bảo đảm sự 16 quản lý tập trung thống nhất trong cả nước đối với ngành và thoả mãn nhu cầu của cả nước đối với loại sản phẩm đó. Nhưng quản lý theo ngành mà tách rời yếu tố lãnh thổ sẽ hàm chứa nguy cơ phá vỡ sự thống nhất của các quan hệ kinh tế trên lãnh thổ, sử dụng đồng bộ nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, năng lượng tại chỗ, làm phát triển xu hướng tập trung quan liêu, cục bộ khép kín trong ngành. Sự kết hợp quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ mang tính chất cần thiết khách quan còn bởi vì mỗi đơn vị - đối tượng "bị quản lý" đều nằm trên một lãnh thổ nhất định và không thể sử dụng những nguồn dự trữ, không tính đến tiềm năng và nhu cầu địa phương” [48,tr.55]. Trong giai đoạn đổi mới vấn đề quản lý phát triển tổng thể lãnh thổ ngày càng quan trọng: Trong kế hoạch hoá cần tính đến sự phát triển tổng thể về kinh tế - xã hội của lãnh thổ; Trong quản lý ngành, khi giải quyết những vấn đề quản lý theo ngành bao giờ cũng phải tính đến lợi ích lãnh thổ và ngược lại. Có sự phối hợp, sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các mắt xích của bộ máy quản lý ở trung ương cũng như ở địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể và sự phối hợp đó được thể hoá bằng pháp luật. Sự phối hợp và phụ thuộc ấy khác nhau về mức độ, tùy tính chất từng vấn đề, nhằm đảm bảo kết hợp hợp lý nhu cầu quản lý tập trung với quản lý phát triển tổng thể lãnh thổ (do cơ quan quản lý thẩm quyền chung ở địa phương thực hiện) và phát huy dân chủ, quyền chủ động của địa phương. 1.2.4. Nguyên tắc phục vụ Trong xã hội dân chủ, Nhà nước được hiểu là bộ máy mà nhân dân trao quyền để phục vụ xã hội. Do đó nó phải phục vụ xã hội và chịu sự giám sát của nhân dân. Tại Cấp huyện như Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, công tác cải cách hành chính của các đơn vị đều phải hướng đến mục tiêu bảo vệ nền dân chủ và phục vụ cho nhu cầu, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Một nguyên tắc luôn được quán triệt đối với cán bộ, công chức khi thực hiện nhiệm vụ đó là mặc dù nắm quyền lực Nhà nước trong tay nhưng cán bộ, công chức phải luôn đặt mục tiêu phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội, phải xác định công chức là công bộc của nhân dân. Huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định cam kết và công khai về các dịch vụ công mà huyện cung cấp để nhân dân biết và thực hiện quyền giám sát tối cao của mình. 17 1.2.5. Nguyên tắc hiệu lực, hiệu quả Hiệu lực của hoạt động hành chính Nhà nước nói chung, cải cách hành chính nói riêng tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định thể hiện ở mức độ hoàn thành các nhiệm vụ của bộ máy hành chính Nhà nước trong quá trình quản lý xã hội. Hiệu quả của công tác cải cách hành chính thể hiện mối tương quan giữa kết quả của hoạt động so với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Cải cách hành chính không chỉ hướng đến mục tiêu đạt được hiệu lực cao nhất hoàn thành chức năng, nhiệm vụ duy trì và thúc đẩy xã hội phát triển mà còn phải đạt được hiệu quả tức là giảm chi phí và nâng cao chất lượng hoạt động. Cũng cần phải xác định rằng, cách thức tính toán hiệu quả đạt được rất phức tạp vì hầu hết các hoạt động của cơ quan nhà nước đều hướng tới phục vụ xã hội mà không hướng tới tìm kiếm lợi nhuận kinh tế. Khi đó, hiệu quả của công tác cải cách hành chính không thể đo bằng việc nó đem lại bao nhiêu lợi nhuận mà phải xác định những lợi ích cho xã hội mà nó mang lại như thế nào. Để đảm bảo hiệu quả công tác cải cách hành chính, cần cân đối trong mối tương quan với những hoạt động tương tự bên ngoài của khu vực tư nhân. 1.2.6. Nguyên tắc công khai minh bạch Hiện nay, vấn đề công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước đang là vấn đề nóng hổi, cấp bách của pháp luật Việt Nam. Công khai, minh bạch là yêu cầu nội tại, xuất phát từ bản chất và là một trong những chuẩn mực hoạt động của bộ máy nhà nước, có vai trò tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Công khai, minh bạch còn là biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các hành vi sai trái, tiêu cực, các biểu hiện làm sai lệch, suy giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Công khai, minh bạch là công cụ đặc biệt quan trọng; là giải pháp phòng chống tham nhũng mang tính chủ động, tích cực; là đòi hỏi của xã hội gắn liền với công quyền được thông tri. Trong quản lý hành chính công công khai, minh bạch đòi hỏi người dân phải thông tri đầy đủ, kịp thời, chính xác về tất cả những gì pháp luật không cấm về quản lý hành chính nhà nước. 1.3. Một số yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về cải cách hành chính 18 1.3.1. Yếu tố xã hội Môi trường kinh tế, xã hội trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế, xã hội chung về cơ cấu ngành kinh tế, xã hội, cơ cấu vùng. Tình hình đó có thể tạo nên tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với các CCHC khác nhau. Môi trường kinh tế, xã hội cũng bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến sức mua và cơ cấu chi tiêu của người dân cũng như phân bố thu nhập thực tế bình quân đầu người theo tầng lớp, vùng miền...Môi trường kinh tế, xã hội thường được đề cặp đến những yếu tố như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, xã hội, lãi suất, tỷ giá hối đoái, chính sách thuế, tệ nạn xã hội, giao dịch dân sự, hành chính... Trong quá trình phát triển nền kinh tế, xã hội thị trường định hướng XHCN, khu vực công có những thay đổi mạnh mẽ. Ngân sách và các phương tiện đã bắt đầu được quản lý một cách chặt chẽ hơn và điều này có tác động đáng kể đến đầu tư, việc làm và chi phí hoạt động. Kết quả là cần phải quan tâm đến hai vấn đề: một mặt, đó là vấn đề lựa chọn và ưu tiên trong định hướng chính sách công và mặt khác, vấn đề ngân sách chặt chẽ và giới hạn chi tiêu[17,tr.75]. 1.3.2. Yếu tố pháp luật và ý thức pháp luật Thể chế chính trị giữ định hướng, chi phối các hoạt động trong xã hội. Môi trường chính trị, pháp luật thuộc nhóm các yếu tố vĩ mô, nó có tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới hoạt động của tất cả các tổ chức. Sự tác động của môi trường thể chế, chính trị tới hoạt đông của các tổ chức phản ánh sự can thiệp của các chủ thể quản lý vĩ mô tới hoạt động cung cấp CCHC của cơ quan quản lý hành chính. Xác định cải cách thể chế là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản lý nhà nước, trong những năm vừa qua, những lĩnh vực quan trọng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ được quan tâm, thể chế hóa, từ đó hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp và thương mại phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và thông lệ quốc tế. Trong những năm vừa qua, các Bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ để trình Quốc hội ban hành các đạo luật quan trọng liên quan đến phạm vi quản lý nhà nước của Bộ như: Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại 2005, Luật Điện lực và, Luật Hóa chất... 19 1.3.3. Yếu tố tổ chức bộ máy cơ quan quản lý, công nghệ thông tin và yếu tố khác Trong chương trình CCHC tỉnh Bình Định đã xác định: “Lấy cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá, lấy việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là khâu trọng tâm của CCHC”. Tuy nhiên, trong năm qua, công tác CCHC trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế như: “Công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo điều hành, xử lý công việc tại các cơ quan, đơn vị còn chưa đồng đều; việc xử lý công việc trong một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu về thời gian. Tỉnh đã thống nhất trong sử dụng chung một phần mềm quản lý hồ sơ công việc đang được triển khai áp dụng tại Văn phòng HĐND và UBND để có thể kết nối thông suốt, trao đổi, xử lý văn bản đi, đến giữa các cơ quan đơn vị trên môi trường mạng, đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất trong quản lý, góp phần giảm thời gian tiếp nhận và xử lý văn bản cũng như giảm chi phí in ấn tài liệu của mỗi cơ quan, mỗi đơn vị, đồng thời có thể giải quyết trong thời gian sớm nhất những công việc của người dân và doanh nghiệp có liên quan đến các cơ quan hành chính nhà nước” [61,tr.4-5]. Ngoài ra, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh cần quan tâm đầu tư hiện đại hoá cơ quan, đơn vị, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành của mỗi cơ quan. Đồng thời, “tăng cường trách nhiệm hơn nữa trong việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính, kiểm tra, giám sát cấp dưới trong việc thực thi nhiệm vụ, công vụ, nhất là trong việc giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, trong đó phải thực hiện nghiêm túc quy định về việc tham gia ý kiến giữa các cơ quan, đơn vị khi thụ lý giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, tham gia đúng thời hạn bằng văn bản theo quy định và phải có chính kiến, quan điểm rõ ràng đồng ý hay không đồng ý đối với nội dung được hỏi tham gia” [14,tr.42] 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan