Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cải cách giáo dục của thực dân pháp ở thuộc địa việt nam (1906 – 1939)...

Tài liệu Cải cách giáo dục của thực dân pháp ở thuộc địa việt nam (1906 – 1939)

.PDF
118
1
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HỒ THỊ NGỌC HÀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở THUỘC ĐỊA VIỆT NAM (1906 – 1939) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM Đà Nẵng - Năm 2021 ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HỒ THỊ NGỌC HÀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở THUỘC ĐỊA VIỆT NAM (1906 – 1939) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8229013 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Văn Chƣơng Đà Nẵng - Năm 2021 i LỜI CAM ĐOAN Đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Tôi xin đảm bảo những số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, khách quan và chưa có ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Học viên Hồ Thị Ngọc Hà ii LỜI CẢM ƠN Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình về nhiều mặt của các cá nhân và tổ chức. Với tình cảm chân thành và lòng quý trọng, trước hết tôi xin gởi lời biết ơn sâu sắc đến: Thầy giáo, PGS.TS Đặng Văn Chương đã nhiệt thành, tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn để tôi có được định hướng đúng đắn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Đồng thời tôi cũng bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Lãnh đạo, các Thầy giáo, Cô giáo trong Ban Giám hiệu và Khoa Lịch sử - trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng đã luôn giúp đỡ, tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành chương trình học và luận văn của mình. Trân trọng cảm ơn lãnh đạo và cán bộ Thư viện tổng hợp thành phố Đà Nẵng, Thư viện tỉnh Quảng Nam đã giúp đỡ tôi trong công tác thu thập tài liệu và hoàn thành luận văn. Cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ trên, trong quá trình học tập và nghiên cứu, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ, tiếp thêm động lực giúp tôi vượt qua khó khăn để hoàn thành chương trình học tập và thực hiện luận văn. Đặc biệt, tại Hội đồng bảo vệ luận văn, tôi đã nhận được những ý kiến đóng góp thẳng thắn, khoa học và chân tình của các nhà khoa học, các thầy, các cô trong Hội đồng. Đây là cơ sở quý báu để tôi bổ sung, hoàn chỉnh luận văn của mình. Dù rất cố gắng, song luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý Thầy, Cô và bạn đọc góp ý để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Hồ Thị Ngọc Hà v MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...........................................................................................................i LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. ii TRANG THÔNG TIN LUẬN VĂN THẠC SĨ ....................................... iii THE INFORMATION OF MASTER'S THESIS .....................................................iv MỤC LỤC ......................................................................................................................v DANH MỤC CÁC BẢNG.......................................................................................... vii MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................4 6. Đóng góp của khóa luận .....................................................................................4 7. Bố cục của luận văn ............................................................................................4 CHƢƠNG 1. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA THỰC DÂN PHÁP ..............................................................................................5 1.1. Khái quát về Giáo dục Việt Nam trước thế kỷ XX ..................................................5 1.1.1. Giáo dục truyền thống ..................................................................................5 1.1.2. Tình hình giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX .............................9 1.2. Sự xâm nhập của giáo dục Pháp vào nền giáo dục bản xứ (1862-1905) ...............11 1.2.1. Giáo dục Pháp – Việt từ 1862 đến 1885 .....................................................11 1.2.2. Giáo dục Pháp – Việt từ 1886 đến 1895 .....................................................14 1.2.3. Giáo dục Pháp – Việt từ 1896 đến 1905 .....................................................17 Tiểu kết chương 1 ..........................................................................................................21 CHƢƠNG 2. HAI CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC (CHỦ YẾU) CỦA PHÁP Ở VIỆT NAM (1906-1939) ..............................................................................................22 2.1. Những tiền đề để thực dân Pháp thực hiện cải cách giáo dục ở Việt Nam thời thuộc địa ........................................................................................................................22 2.2. Cải cách giáo dục lần thứ nhất (1906-1917) ..........................................................24 2.2.1. Mục tiêu cải cách ........................................................................................24 2.2.2. Nội dung cải cách .......................................................................................24 2.2.3. Kết quả của cuộc cải cách ...........................................................................36 2.3. Cải cách giáo dục lần thứ hai (1917-193) ..............................................................39 vi 2.3.1. Mục tiêu cải cách ........................................................................................39 2.3.2. Cách thức tổ chức giáo dục của thực dân Pháp ..........................................40 2.3.3. Kết quả ........................................................................................................55 2.3.4. Một số điều chỉnh sau cải cách giáo dục lần hai ........................................58 2.3.5. Kết quả cải cách giáo dục lần hai ...............................................................65 Tiểu kết chương 2 ..........................................................................................................67 CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở THUỘC ĐỊA VIỆT NAM ....................................................68 3.1. Tác động của cải cách.............................................................................................68 3.1.1. Tác động tích cực ........................................................................................68 3.1.2. Tác động tiêu cực ........................................................................................72 3.2. Đặc điểm .................................................................................................................77 3.2.1. Nền giáo dục Việt Nam được xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục mới từ tiểu học đến đại học.............................................................................77 3.2.2. Nền giáo dục Việt Nam sau cải cách phát triển theo khuynh hướng thế tục, hiện đại và mang tính chất đại chúng ............................................................................77 Tiểu kết chương 3 ..........................................................................................................81 KẾT LUẬN ..................................................................................................................82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................85 PHỤ LỤC ................................................................................................................. PL1 QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (Bản sao) vii DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1. Mức lương quy định đối với giáo viên tiểu học bản xứ thuộc Sở Học chính Bắc Kì năm 1892 16 1.2. Bảng thống kê trường Pháp – Việt năm 1900 20 2.1. 2.2. 2.3. Bảng nội dung về các môn thi viết và vấn đáp trong kì thi lấy bằng tiểu học Pháp – Việt Bảng nội dung về các môn thi viết và vấn đáp trong kì thi lấy bằng trung học Pháp – Việt Bảng chi tiêu cho giáo dục công được đăng kí từ năm 1913 đến 1916 (không kể chi cho xây dựng và bảo trợ các cơ sở) 26 27 35 2.4. Số lượng giáo viên và học sinh bậc Cao đẳng Tiểu học nữ sinh năm học 1922 – 1923 43 2.5. Bảng lương và ngạch lương giáo viên Tiểu học (Nhân sự người Pháp) 44 2.6. Bảng lương và ngạch lương giáo viên Tiểu học (Nhân sự người bản xứ) 44 2.7. Thời gian và hệ số của từng bài thi tốt nghiệp Tiểu học theo chương trình bản xứ 50 2.8. Thời gian và hệ số của từng bài thi tốt nghiệp Trung học theo chương trình bản xứ 51 2.9. Bảng phân chia thời gian học trong tuần 63 2.10. Số học sinh có bằng Tiểu học Pháp – Việt 64 2.11. Số học sinh có bằng Tiểu học bản xứ 64 3.1. Số học sinh có bằng tiểu học Pháp – Việt 76 3.2. Kinh phí mua sách và đóng sách của thư viện Trung ương Đông Dương giai đoạn 1918-1937 79 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ nửa sau thế kỷ XIX, các cường quốc phương Tây cạnh tranh quyết liệt về thị trường và xâm chiếm thuộc địa, nhất là ở khu vực châu Á và Đông Nam Á. Ngày 1-91858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng xâm lược Việt Nam. Sau một thời gian tiến hành và mở rộng chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, thực dân Pháp đã chiếm được toàn bộ nước ta vào năm 1884 với hiệp ước Patenotre. Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi chiếm được 3 nước Đông Dương, người Pháp tiến hành tổ chức bộ máy cai trị. Sự tổ chức bộ máy cai trị được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế… Giáo dục cũng được người Pháp chú trọng cho công cuộc khai thác thuộc địa của mình. Lúc đầu với mục đích đào tạo những thông dịch cho đội quân xâm lược và những thư ký làm việc trong các cơ quan hành chính. Mặc dù vậy nhưng số lượng thông dịch viên vẫn không thể nào đáp ứng cho đội quân viễn chinh đông đến hang chục nghìn người. Việc mở trường đào tạo thông dịch viên là cơ sở đầu tiên để Pháp thiết lập nền giáo dục hiện đại vào các nước Đông Dương mà Việt Nam là một thuộc địa “quan trọng” của Pháp ở khu vực này. Tuy được ca ngợi là “cha đẻ của toàn bộ công cuộc khai thác xứ thuộc địa Đông Dương” nhưng Paul Doumer rất ít quan tâm đến việc xây dựng cơ sở xã hội, văn hóa và khoa học ở thuộc địa. Trong nhiệm kỳ của Paul Doumer, hiếm thấy cơ sở xã hội, văn hóa và khoa học xuất hiện ở thuộc địa. Nền giáo dục ở thuộc địa thực sự chỉ có những thay đổi tích cực kể từ khi có người kế nhiệm của Paul Doumer – Toàn quyền Paul Beau với cuộc cải cách giáo dục đầu tiên (1906-1916). Để rồi sau đó, những cuộc cải cách tiếp theo của người Pháp đã làm cho bộ mặt giáo dục ở Việt Nam thay đổi. Công cuộc cải cách của thực dân Pháp đã đặt nền tảng quan trọng cho nền giáo dục hiện tại của Việt Nam sau này. Trong bối cảnh Việt Nam đang tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà thì việc nghiên cứu về “Cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam (1906-1939)” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. * Về mặt khoa học: - Công trình nghiên cứu hệ thống về quá trình cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam. - Công trình phân tích, làm sáng tỏ đặc điểm và hệ quả của công cuộc cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam. 2 * Về mặt thực tiễn: - Luận văn sẽ rút ra một số bài học kinh nghiệm, những yếu tố tích cực từ công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam trong bối cảnh thuộc địa, góp phần gợi mở cung cấp thêm về phương thức và cách tiến hành cho công cuộc cải cách, đổi mới giáo dục hiện nay ở nước ta. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tình hình giáo dục của Việt Nam trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ đó là một vấn đề hay, vấn đề này đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tác giả quan tâm ở nhiều mức độ khác nhau. Có thể khái quát về tình hình nghiên cứu giáo dục ở Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến các tác phẩm của tác giả nước ngoài. Công trình “Lịch sử Đông Nam Á” của D. G. E. Hall (Bùi Thanh Sơn, Nguyễn Thái Yên Hương, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Vũ Tùng, Đoàn Thắng dịch), xuất bản năm 1997 đã nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các quốc gia khu vực Đông Nam Á từ thời cổ đại cho đến thế kỷ XX. Trong tác phẩm cũng đề cập đến một vài nét cơ bản về tình hình giáo dục ở các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Tác phẩm của Charles Bilodeau, Somlith Pathammavong, Le Quang Hong mang tên “Compulsory Education in Cambodia, Lao and Vietnam” (Giáo dục bắt buộc ở Campuchia, Lào và Việt Nam) đề cập một cách chi tiết đến tình hình giáo dục của Việt Nam bao gồm cả giáo dục truyền thống và giáo dục do người Pháp tiến hành. Trong đó nổi bậc là quá trình hình thành nền giáo dục công lập, bắt buộc Pháp-bản xứ ở thuộc địa Việt Nam. Tác phẩm “Examing the Social Impacts of French Education Reform in Tonkin, Indochina (1906-1939)” của tác giả Milkie Vu nói về tác động xã hội của cải cách giáo dục ở Pháp ở Bắc Kỳ. Nội dung tác phẩm đề cập đến giáo dục truyền thống ở Bắc Kỳ và các cuộc cải cách giáo dục mà Pháp tiến hành ở đây. Ở Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu về tình hình giáo dục ở Việt Nam thời thuộc Pháp, trong đó các bài nghiên cứu về giáo dục ở Việt Nam đăng trên các tạp chí chuyên ngành là nhiều hơn cả. Tác phẩm “Việt Nam thời Pháp đô hộ” của Nguyễn Thế Anh (2017) trình bày nhiều nội dung, từ lúc thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam rồi sau đó tiến hành chiến tranh mở rộng phạm vi xâm lược, cho đến lúc thực dân Pháp đã đặt được ách cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Công trình này trình bày rất chi tiết những việc mà thực dân Pháp đã tiến hành khi chiếm được Việt Nam, trong đó Phần 2 là phần nêu cụ thể nhất về chính sách cai trị của Pháp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục…, nhưng giáo dục thì chỉ được đề cập ở mức độ khái quát. Tiếp đến là tác phẩm “Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ 1859-1945” của Nguyễn Đình Tư (2016) cũng đã đề cập tương đối đầy đủ đến hoạt động giáo dục ở Nam Kỳ trước và 3 sau khi có cải cách giáo dục của người Pháp. Liên quan đến các vấn đề thuộc phạm vi đề tài thì có rất nhiều công trình được đăng trên các tạp chí được công bố gần đây nói về giáo dục Đông Dương, Việt Nam…Bài nghiên cứu của tác giả Trần Thị Phương Hoa “Giáo dục Pháp-bản xứ ở Việt Nam, Lào, Campuchia trước năm 1945” (Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 5) đề cập đến nhiều vấn đề trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam. Trước hết là đề cập đến nội dung của giáo dục truyền thống ở Việt Nam, sau đó là giáo dục thuộc địa Việt Nam khi Pháp bắt đầu tiến hành cải cách giáo dục lần thứ nhất cho đến năm 1945. Năm 2008, trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, tác giả Phan Trọng Báu đã có bài “Nhìn lại hai cuộc cải cách giáo dục (1906 và 1917) ở Việt Nam đầu thế kỷ XX”. Bài viết đã nêu đầy đủ nội dung của hai cuộc cải cách giáo dục của Pháp. Lý giải nguyên nhân mà người Pháp lại tiến hành cải cách giáo dục là nhằm từng bước xóa bỏ nền giáo dục Nho giáo, cấy vào cho Việt Nam nền giáo dục phương Tây. Nội dung cũng nêu đầy đủ 2 phần, giáo dục truyền thống và giáo dục Pháp-bản xứ. Năm 2005, trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 7, Phan Trọng Báu có bài “Giáo dục vùng dân tộc ít người ở Việt Nam thời thuộc Pháp” đề cập đến tình hình giáo dục của đồng bào dân tộc ít người trên khắp nước ta. Tác phẩm của Trần Thị Ngọc Dư, Dominique Roland, Nguyễn Thị Nhận, Bùi Trân Phượng (2014) mang tên “Trường học Pháp-Việt trong thời kỳ 1920-1945 và sự hình thành tầng lớp nữ tri thức” nghiên cứu về tình hình học tập của nữ sinh trong các trường Pháp-Việt qua 2 trường Áo Tím và Đồng Khánh. Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến lĩnh vực giáo dục ở thuộc địa Việt Nam và cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam ở những mức độ, giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu đối sách về cải cách giáo dục của Việt Nam trong bối cảnh thuộc địa. Tuy vậy, các công trình này đã gợi mở cho tôi hình thành đề tài và cũng là tài liệu quý giá giúp tôi thực hiện đề tài này. Trên cơ sở kế thừa những công trình trên tôi chọn vấn đề “Cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam (1906-1939)” để làm đề tài luận văn của mình. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu một cách hệ thống về các cuộc cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam từ đó rút ta đặc điểm, hệ quả và bài học kinh nghiệm của các cuộc cải cách giáo dục đó. Để thực hiện mục tiêu trên, tác giả tập trung giải quyết 3 nhiệm vụ sau đây: - Trình bày khái quát về giáo dục bản xứ trước cải cách giáo dục - Trình bày cơ sở, mục tiêu, nội dung các cuộc cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam. - Phân tích và rút ra đặc điểm, hệ quả và bài học kinh nghiệm của các cuộc cải 4 cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các cuộc cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam (1906-1939). - Phạm vi nghiên cứu: + Về phạm vi không gian: tập trung vào Việt Nam. + Về phạm vi thời gian: Năm 1906, đó là mốc mở đầu của cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất. Năm 1939 xem như là mốc kết thúc của công cuộc cải giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, vì sau đó Pháp bị phát xít Nhật tấn công và xâm chiếm Đông Dương. Để làm rõ một số vấn đề thì mốc thời gian có thể đẩy tới trước hoặc lùi về sau khoảng thời gian nói trên. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Về phương pháp luận: quán triệt phương pháp luận Sử học mác-xít về mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, nhằm đảm bảo tính chân thực, khách quan của lịch sử. - Về phương pháp nghiên cứu: kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp so sánh là một phương pháp quan trọng khi nghiên cứu vấn đề. Ngoài ra, tác giả còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, tổng hợp trong quá trình nghiên cứu vấn đề. 6. Đóng góp của khóa luận * Về mặt khoa học: Công trình nghiên cứu hệ thống về quá trình cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam. Công trình phân tích, làm sáng tỏ đặc điểm và hệ quả của công cuộc cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam. * Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ rút ra một số bài học kinh nghiệm, chỉ ra những yếu tố tích cực, tiến bộ để gợi mở cho công cuộc cải cách giáo dục ở nước ta hiện nay. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 03 chương như sau: Chương 1: Tình hình giáo dục của Việt Nam trước cải cách của thực dân Pháp. Chương 2: Giáo dục Pháp – Việt ở Việt Nam (1906-1939) Chương 3: Một số nhận định, đánh giá về cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa Việt Nam. 5 CHƢƠNG 1 TÌNH HÌNH GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA THỰC DÂN PHÁP 1.1. Khái quát về giáo dục Việt Nam trƣớc thể kỷ XX 1.1.1. Giáo dục truyền thống Việt Nam là một quốc gia có truyền thống hiếu học và một nền giáo dục lâu đời. Từ khi cộng đồng người Việt xuất hiện đã chú trọng đến giáo dục kĩ năng nghề nghiệp để làm ra của cải, vật chất, dạy cách tổ chức đời sống xã hội và giáo dục đạo đức nhân sinh, hình thành nên nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam. Năm 938, sau khi đánh bại quân Nam Hán, dân tộc Việt Nam đã chấm dứt 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và mở ra một thời kì mới trong lịch sử Việt Nam, thời kì độc lập, thống nhất quốc gia, xây dựng nhà nước phong kiến. Từ đây, nền giáo dục Việt Nam do nhà nước phong kiến xây dựng và phát triển nhằm củng cố quốc gia. Trong suốt hơn 1000 năm tồn tại của chế độ phong kiến, có ba loại hình giáo dục được tổ chức đó là giáo dục nhà chùa (do các nhà sư đảm trách), giáo dục của nhân dân, của cộng đồng làng xã (với hệ thống các trường học thầy đồ) và hệ thống giáo dục của nhà nước phong kiến (với hệ thống các trường công được thành lập ở trung ương và một số địa phương). 1.1.1.1. Giáo dục nhà chùa Các triều đại nhà Ngô (939-967), Đinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009), do tình hình kinh tế, chính trị, xã hội chưa ổn định và triều đình còn lo chống giặc ngoại xâm nên coi việc võ bị cần thiết, nhà nước chưa có điều kiện chăm lo việc giáo dục. Mãi đến thời Lý, nhà nước mới bắt đầu chú ý đến việc học hành, nhưng chủ yếu diễn ra trong nhà chùa, tuy nhiên, giai đoạn này triều đình vẫn chưa nghĩ đến việc tổ chức thi tuyển để tuyển chọn nhân tài mà chủ yếu bổ dụng qua con đường tiến cử. Dưới thời Lý, Phật giáo trở thành Quốc giáo và từng bước hội nhập vào đời sống của người dân Việt trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Mỗi ngôi chùa là một trường học, một chốn học đường với nhiều tầng lớp trong xã hội không chỉ có thường dân mà cả bộ phận quý tộc đến học. Thời Lý, các chùa được chia làm ba loại: Đại danh lam (chùa lớn), Trung danh lam (chùa vừa) và Tiểu danh lam (chùa nhỏ). Nhiều ngôi chùa trở thành các thiền viện nổi tiếng, không chỉ phổ biến kinh sách đạo Phật mà còn là diễn đàn của các nhà thơ và tầng lớp trí thức Nho giáo bấy giờ. Tiêu biểu nhất có lẽ là ngôi chùa Quỳnh Lâm. Đảm nhận nhiệm vụ giảng dạy là các vị Thiền sư có trình độ cao, tinh thông cả Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo). Các môn học tại chùa chủ 6 yếu là các bộ kinh Phật, giáo lý nhà Phật và kiến thức của Nho giáo… Dưới thời Trần, phương thức và cách thức thi cử ngày càng được coi trọng, được điển lệ hoá một cách quy cũ so với thời Lý. Các cấp thi, các môn thi, cách ra đề, cách phân loại và tuyển chọn thí sinh, cách lấy đỗ và bố trí chức vị cũng được quy định cụ thể. Các môn thi cổ văn và kinh sách Nho học ngày càng được quan tâm mở rộng trong việc tuyển chọn, sát hạch giới sư tăng trở nên chặt chẽ, khắt khe hơn. Thậm chí, việc tổ chức thi không hẳn để tìm người hiền tài mà chính là sàng lọc, thải loại, giảm bớt sư tăng không đủ trình độ. Như vậy, giáo dục nhà chùa được hình thành và phát triển dưới thời Lý - Trần đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển Phật giáo Đại Việt. Về cơ bản, đó là nền giáo dục không độc tôn, không đối lập và càng không loại trừ Nho giáo, Đạo giáo, mà nói cách khác đây là nền giáo dục nhập thế: một mặt, giới sư tăng là một bộ phận trí thức và trực tiếp tham gia vào hoạt động chính trị; mặt khác, họ chủ động truyền giảng, lôi cuốn tầng lớp vua quan và dân chúng cùng tham gia vào sự nghiệp hoằng dương Phật giáo. 1.1.1.2. Về trường học thầy đồ Trong xã hội phong kiến có một loại hình trường học dành cho cộng động làng xã đó là trường học của những thầy đồ làng. Đây là trường học tư thục do những thầy đồ làng hoặc những nho sĩ đã đỗ cử nhân hoặc những người đã đỗ đạt nhưng không ra làm quan hay là những người làm quan nhưng lùi về ở ẩn để giữ nguyên tấm lòng thanh bạch và đem hết sở học truyền dạy cho những thế hệ sau. Những lớp học của thầy đồ làng thường được tổ chức ngay tại nhà thầy, thu hút trẻ em có độ tuổi từ 7 tuổi trở lên và cả những người trưởng thành muốn đỗ đạt làm quan. Lớp chia làm 4 trình độ: “Lớp vỡ lòng: Học tập đọc, tập viết chữ; Lớp tiểu tập: Sau khi học chữ, học trò đã có thể làm được câu đối; Lớp trung lập: Hàng ngày đến nghe giảng, hàng tuần có buổi tập làm văn; Lớp đại tập: Học trò phần nhiều là những người lớn tuổi, là những người đã thi đến tam tứ trường thi mà vẫn chưa đỗ” [16, tr. 18]. Số lượng học trò tại mỗi lớp cũng không được quy định cụ thể, lớp ít có thể từ 20 – 30 học sinh, lớp đông có thể từ 40 đến 50 người, tùy vào tiếng tăm của thầy đồ. Lớp học không có ngày khai giảng, kết thúc, mà học sinh muốn vào nhập học vào thời gian nào cũng được, tùy vào thầy đồ có nhận hay không. Những người muốn gửi gắm con mình theo học thầy phải đến xin cho con học chữ và được sự đồng ý của thầy. Để được nhận vào lớp, cha mẹ phải lựa chọn “ngày lành tháng tốt” mang lễ vật đến nhà thầy (lễ thường có xôi, thịt gà, rượu, cau trầu,…), thầy nhận lễ xong sẽ mang đi khấn thánh hiền. Mức học phí quy định có thể tiền hay hiện vật là tùy tâm, do lòng thành và sự kính trọng của trò sẽ đóng cho thầy. Trong quá 7 trình học, việc đầu tiên của người thầy đồ sẽ dạy cho học sinh cách viết bằng bút tre, khi đã viết được chữ thầy mới dạy đọc, vừa giảng giải sách và những lời dạy của các bậc thánh hiền. Vì thế, tài liệu học tập thông thường là những sách kinh điển của Nho giáo, các bài văn, bài thơ của các vị Tiến sĩ đã thi đỗ trước đó. Về phương pháp giáo dục: giáo dục theo phương pháp kinh viện và giáo điều. Mỗi tháng giáo quan sẽ quy định một số ngày giảng sách (nghe giảng Tứ thư, Ngũ kinh) và một số kỳ tập làm văn. Khi giáo quan chấm bài xong, thì tập hợp học sinh để trình bày và cho điểm theo 4 loại: ưu, bình, thứ, liệt. Đối với những học trò khi mới vào trường sẽ dùng các sách sau đây: Sơ học vấn tân, Ấu học ngữ ngôn thi, Minh tâm bửu giám, Minh đạo gia huấn, Hiếu kinh, Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự,… “Từ 10 tuổi trở lên học trò sẽ bắt đầu học Kinh truyện, Cổ văn, thơ Đường, tập viết Ám tả rồi mới tập viết văn. Khi đã lớn học thêm Nam. Bắc sử (sử Việt Nam và sử Trung Quốc)” [44, tr. 73]. Kỉ luật và hình phạt được thực hiện là bằng roi vọt, la mắng. Ngoài công việc giảng dạy, thầy đồ còn truyền đạt nhuững kiến thức về những phong tục tập quán, lễ nghi truyền thống, những bài học lịch sử dân tộc. Bên cạnh công việc giảng dạy, thầy đồ còn soạn, biên chép văn tế, văn bản cho các quan mục, hào trưởng, chức sắc trong làng xã, viết câu đối cho nhân dân trong những dịp lễ tết. Chính vì vậy, đối với cộng đồng nhân dân, hình ảnh người thầy trong xã hội phong kiến luôn hiện lên trong tâm thức cộng đồng như những hình mẫu về đạo đức, trí tuệ, lối sống và uy tín cá nhân. Có thể nói, trường học thầy đồ tuy không phải là sự tổ chức giáo dục chính của nhà nước phong kiến, nhưng lại là cơ sở của nền giáo dục phong kiến, bởi vì đây là cơ sở để đào tạo nên những nhân tài tham gia trong các kì thi của nhà nước và đào tạo ra những con người có đạo đức, trí tuệ cho xã hội Việt Nam. 1.1.1.3. Giáo dục Nho học Nền giáo dục của Việt Nam có hệ thống, tổ chức dưới thời phong kiến là giáo dục Nho học với văn tự chữ Hán giữ vị trí độc tôn. Nền giáo dục này có đặc điểm: Về mục tiêu của nền giáo dục Nho học: Theo quan điểm Nho giáo, mục đích cao nhất của giáo dục là đào tạo ra lớp người quân tử có đủ đức và tài để tham gia gánh vác công việc quốc gia để giúp vua, giúp nước. Hay nói cách khác, giáo dục là để đào tạo ra đội ngũ quan lại nhằm giúp ích cho nhà nước. Điều đó được thể hiện qua tư tưởng “Học trí dĩ dũng”, tức là học để ứng dụng có lợi ích cho quốc gia, xã hội. Xét về phương diện tính chất của giáo dục của Nho học là loại giáo dục chính trị. Bên cạnh mục tiêu đào tạo nhân tài chính trị, giáo dục Nho học còn làm sáng tỏ cái đức sáng, phải tu thân để đạt tới điều thiện. Như vậy, có thể nói mục đích chính của giáo dục theo quan điểm của Nho giáo là nhằm đào tạo ra những con người lý tưởng, có sự 8 hoàn thiện cả về nhân cách và đạo đức, cũng như tri thức, lối sống để ra làm quan giúp nước. Về nội dung giáo dục: Là coi trọng giáo dục đạo đức, tri thức mà không xét đến mặt thế tục mà mặt này rất cần cho sự phát triển toàn diện cho người. Người học tuy thấm nhuần tư tưởng Nho học về đạo đức, tinh thông cổ văn, nhưng kiến thức về khoa học tự nhiên, sản xuất thực tiễn thì không phát triển. Do vậy, ““ở nước ta trong gần 10 thế kỷ phong kiến, chương trình giáo dục chủ yếu là giáo dục đạo đức, không có ngành nghề khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, không có chương trình dạy con người về sản xuất nông nghiệp” [24, tr. 96]. Về hình thức và phương pháp dạy học thì áp dụng phương pháp “chính học” truyền thống: học theo lối người xưa là học thuộc lòng để cho thấm nhuần lời nói của bậc thánh hiền. Người học tiếp thu kiến thức một cách thụ động, thiếu tinh thần sáng tạo hay nói cách khác là “thuật nhi bất tác”. Chế độ thi cử dưới các triều đại phong kiến đều có 3 kì thi chính là thi Hương, thi Hội và thi Đình. Về hệ thống trường lớp: Dưới các triều đại phong kiến, giáo dục Nho học tồn tại song song hai hệ thống giáo dục, đó là hệ thống giáo dục trường Quốc lập (trường công) do nhà nước phong kiến tổ chức được thành lập ở cấp trung ương và một số địa phương và hệ thống trường học thầy đồ (trường tư thục) được mở khắp nơi trong cả nước từ thành thị cho đến các thôn xóm. Trường Quốc lập (trường công) là loại trường do nhà nước phong kiến đầu tư về kinh phí, cơ sở vật chất, được thành lập ở tại kinh đô và một số địa phương trong cả nước. Tiêu biểu cho trường công dưới chế độ phong kiến là trường Quốc Tử giám. Đây được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam được xây dựng vào năm 1076 dưới thời nhà Lý. Ngoài ra, ở kinh đô còn có các trường Quốc lập khác như: Tư thiện đường (thời Trần), Ngự tiền cận thị cục, Chiêu văn quán, Tú lâm cục, Trung thư giám, Sùng văn quán (Hậu Lê), Sùng Chính viện (Tây Sơn), Dưỡng Tâm điện, Tập Hiền viện, Tập thiện đường, Tôn học đường,… (triều Nguyễn). Việc điều hành trường Quốc tử giám thì ở mỗi triều đại có sự khác nhau, như thời Lý và đầu thời Trần người đứng đầu trường là do các quan đại thần, thường là Thượng thư, thời Trần là quan Tư nghiệp và nhà Hồ là vị Tế tửu. Từ thời Lê sơ trở về sau, hệ thống các chức vụ mới được quy định rõ ràng với những phẩm trật cụ thể. Người đứng đầu Quốc Tử giám là quan Tế tửu (như Hiệu trưởng hiện nay), tiếp theo là quan Tư nghiệp (như Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn) và các giảng viên khác nhau bao gồm Trực giảng, Bác sĩ, Giáo thụ. Các chức học quan ở Quốc tử giám dưới thời Mạc, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn cũng như thế, không có thay đổi. Như vậy, quá hình thành và phát triển chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, tư tưởng Nho giáo luôn được chính quyền phong kiến lựa 9 chọn làm bệ đỡ để hoạch định chính sách giáo dục trong mục tiêu đào tạo nhân tài trung thành và góp phần duy trì, củng cố chế độ phong kiến. Có thể nói, giáo dục Việt Nam dưới thời phong kiến đã quá rập khuôn “nền giáo dục phong kiến Trung Quốc”, nhưng đến giữa thế kỉ XIX đã không phát huy được uy thế của mình và càng không đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trước làn sóng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. 1.1.2. Tình hình giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, những khó khăn về kinh tế, rối loạn về chính trị - xã hội, sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây và những hạn chế của nền giáo dục, khoa cử Nho học,… tất cả những yếu tố này đã đặt ra cho Việt Nam cần phải canh tân đất nước, đổi mới nền giáo dục lúc bấy giờ. Trước tình hình này, những người trí thức đương thời, trước hết là những người đã từng tiếp xúc với nền văn minh phương Tây như: Phan Thanh Giảng, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện, Đặng Huy Trứ,… đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ đã dâng 58 bản điều trần đề nghị vua Tự Đức phải canh tân, đổi mới đất nước. Theo Nguyễn Trường Tộ cần phải áp dụng một nền giáo dục mang tính thực dụng bằng cách mở khoa nông chính, mở khoa công nghệ, mở khoa thi Thiên văn và khoa Địa lý, mở khoa Luật học và phải chú trọng đào tạo người biết tiếng nước ngoài [4, tr. 58-63]. Còn Phạm Phú Thứ yêu cầu vua Tự Đức in và phổ biến các sách do Trung Quốc biên soạn về văn minh phương Tây như: Bác vật tân biên, Vạn quốc công pháp, Khai môi yếu pháp,… Ngoài các bản điều trần của các nhà cải cách, tư tưởng canh tân, đổi mới giáo dục còn được nhiều thầy giáo và Nho sĩ tiến hành trong thực tế cũng như phản ánh trong các tác phẩm của họ. Tiêu biểu có tác phẩm Nhữ Bá Sĩ, Đốc học tỉnh Thánh Hóa đã biên soạn cuốn Nghi Am học thức – nội dung nói về quy chế tổ chức, phương thức giảng dạy và học tập của thầy và trò trong trường một cách quy củ. Phạm Vọng là tác giả của tác phẩm Khải đồng thuyết ước, qua đó ông phê phán lối học thuộc lòng, tầm chương trích cú và muốn có những sách học có sự chú trọng vào tri thức khoa học hơn là văn chương cử nghiệp, Nguyễn Đức Đạt, là thầy giáo nổi tiếng vùng Nghệ Tĩnh, ông đã biên soạn bộ sách đồ sộ mang tên Nam sơn tùng thoại. Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm của mình cũng đưa ra những quan niệm về học tập, giảng dạy,… [41, tr. 147]. Cũng trong thời gian này, làn sóng duy tân từ Nhật Bản và Trung Quốc qua tân thư, tân văn1 tràn vào Việt Nam đã giới thiệu những tư tưởng dân chủ tư sản của 1 Tân thư, tân văn là những cuốn sách, bài báo chứa đựng nhiều kiến thức mới, tư tưởng mới, cách học mới (tân học) để phân biệt với những sách vở cũ (cựu học, Nho học). Tân thư truyền bá các kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội – nhân văn (toán, lí, hóa, địa lí, lịch sử, kinh tế, chính trị,…). Tân thư là những bài báo chuyên đăng tải những bài viết, tin tức do các nhà duy tân của Trung Quốc 10 phương Tây dưới lăng kính của tư tưởng lập hiến. Chính tân thư, tân văn đã mang đến cho những nhà Nho lúc ấy một tầm nhìn mới, một mô hình xã hội mới, tiến bộ hơn với chế độ phong kiến. Nhờ vậy, “các sĩ phu yêu nước đã tìm thấy sức mạnh của dân tộc khi được khai sáng sẽ là nguồn lực đưa quốc gia trở thành hùng cường, là nguồn lực giải phóng dân tộc ra khỏi ách thực dân” [45, tr. 49]. Từ đây, ở Việt Nam dấy lên phong trào cổ súy tân học phát triển rầm rộ từ Bắc đến Nam mà những người khởi xướng và đi tiên phong là những chí sĩ cách mạng, nhà Nho có tư tưởng tiến bộ như Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Châu Trinh (1872-1926), Trần Quý Cáp (18701908), Lương Văn Can (1854-1927), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947),… Trên cơ sở tiếp nhận tân thư, tân văn, Phan Bội Châu xác định muốn giải phóng dân tộc, trước hết cần phải thức tỉnh nhân dân, giáo dục lại nhân dân, xây dựng con người, giải phóng con người ra khỏi những tư tưởng lạc hậu. Phan Bội Chau phê phán nền giáo dục phong kiến chỉ biết đào tạo ra những con người chỉ biết chú trọng đến khoa cử, văn tự. Cùng chung quan điểm với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là một nhà tư tưởng, cải cách xuất sắc đầu thế kỉ XX. Ông cũng nhận thức được nhiệm vụ bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là cần khai dân trí để nhằm thức tỉnh nhân dân, bỏ lối tầm chương trích cú của Nho học thay bằng phổ biến nền khoa học giáo dục của phương Tây, xây dựng một nền học vấn tiến bộ, chống mê tín dị đoan, bài trừ hủ tục lạc hậu. Cũng tiếp thu tân thư, tân văn, nhưng con đường cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh lại có sự khác biệt. Đối với Phan Bội Châu, để chuẩn bị cho cuộc vận động cứu nước, ông đã thiết lập một tổ chức cách mạng lấy tên là “Việt Nam Duy tân hội” mà Cương lĩnh của Hội là “đánh đổ Pháp, khôi phục Việt Nam” và phương thức được xác định là “bạo động”. Ngoài ra, Phan Bội Châu còn chủ trương xuất dương cầu viện và phát động phong trào Đông Du. Trong lúc Phan Bội Châu chọn con đường bạo động thì Châu Châu Trinh lại chọn con đường cải cách, chủ trương đổi mới nền giáo dục Việt Nam theo hướng xóa bỏ nền giáo dục khoa cử Nho học, chuyển sang học kiến thức khoa học kỹ thuật tiến bộ của phương Tây. Sau khi từ Nhật Bản trở về nước, Phan Châu Trinh đã bàn với các sĩ phu yêu nước thành lập ở Hà Nội trường Đông Kinh nghĩa thục theo mô hình Khánh Ứng nghĩa thục của Nhật Bản. Theo đó, “chương trình học của trường dựa theo lối tân học của Trung Quốc và Nhật Bản, đề cao học chữ Quốc ngữ và các kiến thức mới như Lịch sử, Địa lí, Văn chương, Toán pháp, Luân lí, Khoa học thường thức (cách trí), kinh tế, thể dục, âm nhạc… được dạy bằng chữ Quốc ngữ, có kèm theo ngoại ngữ (tiếng Hán, như Thời vụ báo, Thanh nghị báo, Tân dân tuần báo do Lương Khải Siêu làm chủ bút. Những cuốn tân thư sớm được dịch, phổ biến ở Trung Quốc và Nhật Bản là Dân ước luận (Khế ước xã hội) của J.J. Rousseau, Vạn pháp tinh lí của Montesquieu,… 11 tiếng Pháp). Nhà trường cũng chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử, lòng yêu nước, đề cao thực nghiệp; đả phá thuyết thiên mệnh của Nho giáo…” [23, tr. 199]. Cùng hòa vào không khí duy tân đang diễn ra mạnh mẽ khắp cả nước, vua Thành Thái cũng là người có tư tưởng tiến bộ, nhà vua rất thích đọc những tân thư chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản, nhờ đó vua có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải 2 cách. Để tránh sự nghi ngờ của người Pháp, vua Thành Thái chủ trương học tiếng Pháp và buộc phải cải cách nền giáo dục Hán học của nước nhà. Chính tư tưởng canh tân đất nước, đã thúc đẩy nhà vua phải tiến hành đổi mới giáo dục, tức là cần phải chuyển đổi nền giáo dục cũ sang nền giáo dục mới. Để thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới giáo dục, vua Thành Thái cho tiến hành thành lập trường Quốc học vào năm 1896, mở trường Bách công để dạy nghề (1899), thay đổi nội dung thi cử và đặc biệt ban hành bản Quy chế giáo dục vào năm 1906. Như vậy, trước khi người Pháp ban hành và thực hiện cuộc cải cách giáo dục năm 1906, Việt Nam đã có sự chuyển biến rất lớn về tư tưởng và nhận thức cần phải thay đổi, cải cách nền giáo dục Nho học vốn đã quá lỗi thời và sự xâm lược, bóc lột của chính quyền thuộc địa. Do đó, việc người Pháp từng bước thiết lập nền giáo dục Tây học tại Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ đã tạo cơ sở cho việc thực hiện các cuộc cải cách giáo dục tại Việt Nam. 1.2. Sự xâm nhập của giáo dục Pháp vào nền giáo dục bản xứ (1862-1905) 1.2.1. Giáo dục Pháp – Việt từ 1862 đến 1885 Với kinh nghiệm của một nước thực dân nhà nghề, Pháp hiểu rõ sức mạnh của giáo dục và họ sử dụng giáo dục như một công cụ đắc lực để cai trị Đông Dương. Vì thế, ngay khi vừa làm chủ vùng đất Nam Kì, người Pháp đã từng bước thiết lập nền giáo dục theo mô hình phương Tây, đó cũng là quá trình Pháp du nhập nền giáo dục phương Tây vào Việt Nam, đầu tiên tại vùng đất Nam Kì. Mặc dù nền giáo dục Nho học ở thế kỉ XIX có thể là lực cản của sự phát triển xã hội, lạc hậu về nội dung và phương pháp giáo dục những vẫn còn đủ khả năng đào tạo ra những sĩ phu yêu nước, trung thành với nền độc lập của quốc gia, dân tộc. Do đó, khi quân đội triều đình vừa thất bại trước ưu thế về vũ khí của quân Pháp thì ngay lập tức đã khởi phát một phong trào kháng chiến quy tụ toàn thể nhân dân Nam Kì mà lực lượng lãnh đạo không ai hết chính là quan lại, sĩ phu có tinh thần yêu nước, bài Pháp. 2 Vua Thành Thái tên huý là Nguyễn Phúc Bửu Lân, con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu Phan Thị Điểu. Sinh ngày sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão (tức 14 tháng 3 năm 1879), lên ngôi vào ngày 2 tháng 2 năm 1889, lấy niên hiệu là Thành Thái. Tại vị được 18 năm, đến năm 1907, vua Thành Thái bị dẫn giải đến Capsaint Jacques) và năm 1916 bị đày sang đảo La Réunion. Sau 31 năm bị đày, năm 1953 ông mới được phép về thăm lăng tẩm tổ tiên, nhưng bắt buộc phải ở Sài Gòn, đến tháng 3 năm 1954, vua Thành Thái mất
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất