Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường...

Tài liệu Các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường

.PDF
108
56
124

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ THU HẰNG CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ LỆ PHỤ NỮ TRONG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP PHƯỜNG Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60. 31. 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGÔ HUY ĐỨC Hà Nội - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ THU HẰNG CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ LỆ PHỤ NỮ TRONG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP PHƯỜNG Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60. 31. 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2009 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ tham gia chính trị là một trong những con đường chủ yếu dẫn tới sự bình đẳng về giới và mở ra cơ hội quyết định các chính sách và kế hoạch vì lợi ích của phụ nữ. Vì vậy, tăng cường vai trò của phụ nữ trong chính trị là một mục tiêu phấn đấu vì sự bình đẳng, phát triển và khả năng làm chủ xã hội của phụ nữ. Đối với công dân nói chung và phụ nữ nói riêng, quyền chính trị là một trong những quyền quan trọng và nhạy cảm nhất, thường được đề cập đầu tiên trong hệ thống các quyền mà họ có. Theo Công ước CEDAW thì phạm vi các quyền về chính trị của phụ nữ bao gồm: quyền tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân; quyền ứng cử; quyền tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ nhà nước; quyền tham gia các tổ chức và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời sống cộng đồng và chính trị của đất nước. Trong quan hệ giữa bình đẳng giới và pháp luật có mối quan hệ biện chứng hai chiều: phụ nữ vừa là người hưởng thụ các quyền và lợi ích do pháp luật mang lại, vừa là chủ thể tham gia tạo lập, kiểm soát và hoàn thiện môi trường pháp luật vì sự tiến bộ của phụ nữ và của xã hội. Cương lĩnh hành động của hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ 4 tại Bắc Kinh (Cương lĩnh Bắc Kinh) đã khẳng định: “Không có sự tham gia tích cực của phụ nữ và với sự hợp tác chặt chẽ của phụ nữ ở các cấp ra quyết định và ở các cơ quan pháp luật thì mục tiêu Bình đẳng, Phát triển và Hoà bình không thể thực hiện được”. Như vậy, quyền chính trị là quyền cơ bản của công dân, là quyền bình đẳng có tính nền tảng để xác lập vị thế pháp lý của công dân - phụ nữ trong đời sống chính trị, đời sống cộng đồng, là hình thức pháp lý thể hiện bản chất dân chủ, bình đẳng của xã hội. Thước đo cơ bản về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại là sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý. Dù có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng một điểm thống nhất ở đây là vai trò của phụ nữ trong chính trị tỷ lệ thuận với tỉ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Điều này giải thích tại sao Chiến lược và Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đặt ra mục tiêu tăng cường số lượng và tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý các cấp. Tăng cường tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt nói chung và nữ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng là một việc làm cần thiết nhằm đảm bảo bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực chính trị. Tăng cường tỷ lệ nữ trong cán bộ chủ chốt trên cơ sở khoa học và hợp lý sẽ góp phần làm tăng uy tín, vai trò và vị thế của phụ nữ trong hệ thống chính trị; tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở và đặc biệt là đảm bảo tạo nguồn cán bộ nữ có chất lượng cho hệ thống chính trị các cấp cao hơn. Tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương không chỉ là tăng lên về số lượng phụ nữ ở vị trí hay vị thế quyền lực, mà ở việc tăng cường quyền hạn và tiếng nói của phụ nữ. Mặc dù ủng hộ quan điểm tăng tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, song chúng tôi cho rằng tỷ lệ nữ cán bộ trong hệ thống chính trị cũng chỉ là một trong những chỉ số thể hiện sự bình đẳng giới trong chính trị bởi lẽ tỷ lệ 50 – 50 xét cho cùng chỉ là con số bình quân. Bình đẳng nam nữ trong chính trị không có nghĩa phải đảm bảo tỷ lệ ngang bằng về giới trong tham chính là đủ, mà điều quan trọng là phải tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội và khả năng đóng góp nhiều nhất trí tuệ và tài năng của mình cho nền chính trị xã hội. Đôi khi, nếu cứ bắt phụ nữ tham chính lại là sự bất bình đẳng đối với phụ nữ vì bắt họ phải gánh vác thêm những việc mà họ không muốn làm hoặc chưa làm được vì nhiều yếu tố cả sinh học lẫn xã hội. Tăng cường tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị nói chung và ở cấp cơ sở nói riêng là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa đối với sự phát triển của mỗi quốc gia cả về phương diện kinh tế - văn hoá - chính trị - xã hội. Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất cơ bản trong quá trình tiến tới bình đẳng giới. Chỉ số phát triển giới của Việt Nam luôn đạt mức cao so với một số quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, phụ nữ giữ các chức vụ cán bộ chủ chốt ở các cấp chính quyền nhìn chung chiếm tỷ lệ thấp và không đồng đều, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt có xu hướng thấp dần ở cấp phường/xã và tỷ lệ này có xu hướng cao dần ở địa bàn thành thị, thấp dần ở nông thôn. Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng cường đội ngũ nữ cán bộ quản lý, lãnh đạo, trong những năm vừa qua, Đảng bộ, chính quyền thành phố Hà Nội đã có những cố gắng tích cực trong việc nâng cao tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chính trị. Đội ngũ cán bộ nữ Hà Nội đã tăng rõ rệt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của thành phố đạt gần 20%, nữ đại biểu Hội đồng nhân dân (HÐND) 3 cấp là 31%, nữ tham gia cấp uỷ 3 cấp đạt 21%. Trong đó có 2 nữ cán bộ chủ chốt trong Thành uỷ, HÐND, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố, 11 nữ phó Chủ tịch HÐND và UBND quận, huyện, 23 nữ giám đốc, phó giám đốc các sở, ngành, 6 nữ Bí thư Ðảng uỷ quận, huyện. Ðặc biệt, hai đơn vị có nữ cán bộ cao nhất là quận Hai Bà Trưng với 3 cán bộ chủ chốt cấp quận và 11/20 Chủ tịch phường, quận Hoàn Kiếm có 8/18 Chủ tịch phường là nữ. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ nữ cán bộ trong hệ thống chính quyền nói chung và trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường nói riêng chưa đồng đều giữa các đơn vị và chưa tương xứng với tiềm năng của phụ nữ Thủ đô. So với các địa phương khác, Hà Nội là một trong những đơn vị có tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cao, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp phường, trong đó, quận Hai Bà Trưng là một trong những quận điển hình. Tuy nhiên, ngay ở đơn vị điển hình này thì tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt giữa các đơn vị cũng vẫn có sự chênh lệch. Vấn đề đặt ra là tại sao lại có sự khác biệt như vậy, yếu tố nào quyết định tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường? Hơn nữa, liệu sự khác biệt đó có thực sự phản ánh sự khác biệt về vai trò của phụ nữ nói riêng, và sự bình đằng chính trị nói chung trong đời sống chính trị nước ta. Nói cách khác, liệu tỷ lệ cán bộ chủ chốt nữ có phải chỉ mang tính hình thức? Đây là các vấn đề nghiên cứu lớn và không dễ trả lời, trong điều kiện và khuôn khổ của luận văn này, việc nhìn nhận các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ cán bộ chủ chốt nữ hy vọng sẽ góp thêm một phần cho sự lý giải các vấn đề quan trọng đó. Từ những suy nghĩ như trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phƣờng” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có không ít các nhà khoa học, các học giả nghiên cứu về vấn đề phụ nữ tham gia chính trị, tiêu biểu như: - Phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân (trường hợp Thành phố Hải Phòng), của nhóm tác giả PGS. TS. Lê Thị Quý, Nguyễn Tuyết Nga (Trung tâm nghiên cứu Giới và phát triển Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Đây là một nghiên cứu trường hợp với mục đích tìm hiểu các yếu tố tác động đến sự tham gia của phụ nữ vào Hội đồng nhân dân các cấp của Thành phố Hải Phòng nhằm thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào công tác lãnh đạo, quản lý. Dựa trên việc phân tích các tài liệu sẵn có của địa phương và các phỏng vấn sâu cán bộ Hội đồng nhân dân các cấp và cử tri, bài viết phân tích nguyên nhân chủ quan và khách quan của tình trạng ít nữ đại biểu Hội đồng nhân dân và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng nhân dân; - TS. Võ Thị Mai. Vai trò của nữ cán bộ trong công tác quản lý Nhà nước (trường hợp tỉnh Quảng Ngãi). Đây là đề tài nghiên cứu mô tả rõ thực trạng vai trò của nữ cán bộ trong hoạt động quản lý Nhà nước trên cơ sở phân tích, khảo cứu thực tiễn. Đề tài đã chỉ rõ vai trò của nữ cán bộ trong quản lý Nhà nước, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của nữ cán bộ trong công tác quản lý và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nữ cán bộ trong quản lý, lãnh đạo. Bên cạnh đó, có một số đề tài nghiên cứu về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở như: - TS. Nguyễn Duy Hùng. Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội. 2008. Đây là một đề tài khoa học được tiến hành nhằm tổng kết thực tiễn, phân tích những cơ sở lý luận của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ phường, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng tình hình, làm cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, hệ thống chính trị ở loại hình phường, góp phần phục vụ công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Nội dung cuốn sách tập trung tìm hiểu cơ sở khoa học và giải pháp cho hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường với những nét đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển đã được khảo sát trong đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ thuộc địa bàn phường ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng từ năm 2000 đến 2008. Tác giả tìm hiểu các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, cán bộ cấp cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, từ đó rút ra chức năng, nhiệm vụ, vai trò của cán bộ lãnh đạo phường và những căn cứ khoa học của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường. Từ cơ sở thực tiễn của việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường, tác giả đưa ra 3 nhóm giải pháp về công tác tổ chức, về công tác cán bộ và về thực hiện mô hình thí điểm, trong đó đáng chú ý là nhóm giải pháp về công tác cán bộ, gồm: xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo phường; chủ động tạo nguồn và xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo phường; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường; tăng cường luân chuyển cán bộ phường để đào tạo, rèn luyện cán bộ; quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và cán bộ dự nguồn; đổi mới việc lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo phường; bổ sung, hoàn thiện chính sách, chế độ đối với cán bộ phường; phát huy vai trò của cấp uỷ, tổ chức đảng và các đoàn thể trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường; đề cao trách nhiệm và tăng cường sự chỉ đạo của cấp ủy đối với đội ngũ này; trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường. - PGS.TS. Trần Xuân Sầm (chủ biên), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 1998. Cuốn sách trình bày các luận cứ khoa học của việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị, phân tích thực trạng hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Xác định cơ cấu, tiêu chuẩn cơ bản đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay. - Đề tài khoa học cấp nhà nước “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị” do đồng chí Nguyễn Đức Hạt, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương làm Chủ nhiệm được Hội đồng cấp nhà nước nghiệm thu ngày 12-11-2006, đạt loại xuất sắc. Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị (HTCT), đưa ra hệ thống các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo cán bộ nữ: Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ; hoàn thiện khuôn khổ chiến lược bình đẳng giới, mô hình bình đẳng giới; xây dựng mô hình lãnh đạo hài hòa giới; nâng cao năng lực của hội liên hiệp phụ nữ và các cơ quan tổ chức chuyên trách về công tác phụ nữ; xây dựng bộ phận chuyên trách về công tác cán bộ nữ trong các cơ quan tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị (HTCT); các giải pháp tạo nguồn, xây dựng quy hoạch cán bộ nữ trong tổng thể quy hoạch cán bộ của Đảng và Nhà nước; nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ nữ; bố trí, sử dụng và luân chuyển hợp lý cán bộ lãnh đạo nữ các cấp, các ngành; hoàn thiện chính sách phù hợp với từng đối tượng cán bộ nữ trong các cơ quan, tổ chức thuộc HTCT các cấp. Đề tài kiến nghị: cần nâng cao nhận thức trong HTCT và trong xã hội về bình đẳng giới, thu hút ngày càng đông phụ nữ tích cực tham gia hoạt động trong lĩnh vực chính trị; quy định rõ trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức của HTCT trong việc đảm bảo bình đẳng giới, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ của cơ quan, đơn vị, tạo điều kiện để phụ nữ phấn đấu và trưởng thành; đổi mới tư duy về chính sách đối với cán bộ nữ trong HTCT; đổi mới công tác phát hiện, đào tạo, quy hoạch và luân chuyển cán bộ nữ; xây dựng bộ phận cán bộ chuyên trách về công tác cán bộ nữ trong cơ quan tổ chức các cấp của HTCT; xây dựng và từng bước thực hiện mô hình lãnh đạo hài hoà giới trong các tổ chức của HTCT ở nước ta - Đề tài KHBĐ (2004)-09 về “Nâng cao phẩm chất, năng lực của người cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cấp cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Trung ương khoá IX” do TS. Nguyễn Danh Mộc, Viện Khoa học tổ chức, Ban Tổ chức Trung ương làm Chủ nhiệm. Qua tổng hợp tài liệu và nghiên cứu thực tế tại tỉnh Thái Bình và thành phố Hà Nội, đề tài đã góp phần làm rõ thêm thực trạng phẩm chất, năng lực của đội ngũ Bí thư đảng ủy và Chủ tịch UBND cấp xã hiện nay. Bên cạnh đa số cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cấp cơ sở được rèn luyện, thử thách, giữ được phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, gương mẫu, trách nhiệm, vẫn còn một bộ phận cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện sa sút về đạo đức, tham nhũng, tiêu cực. Số cán bộ đứng đầu Tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở chưa qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ còn chiếm trên 80%, số cán bộ chưa qua đào tạo lý luận chính trị còn hơn 14,5%, trình độ sơ cấp chính trị chiếm hơn 11%; số cán bộ được đào tạo về quản lý mới đạt tỉ lệ 31,31%. Để góp phần nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở, nhóm tác giả đề tài đưa ra 9 giải pháp: (1) Nâng cao nhận thức trong Đảng và toàn xã hội về vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cơ sở, về đội ngũ cán bộ cơ sở, đặc biệt vai trò và trách nhiệm của cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở trong thời kỳ mới. (2) Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng về đường lối chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, thái độ phục vụ nhân dân cho cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cấp cơ sở. (3) Tiếp tục hoàn thiện tiêu chuẩn cụ thể đối với từng chức danh cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cấp cơ sở. (4) Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với các chức danh cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cơ sở. (5) Hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở. (6) Đa dạng hoá việc cung cấp thông tin lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở. (7) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chế công tác của hệ thống chính trị cơ sở. (8) Nâng cao hiệu quả công tác cán bộ và từng bước đổi mới chế độ bầu cử các chức danh cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cơ sở. (9) Tăng cường sự kiểm tra của cấp trên và sự giám sát trực tiếp của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, nhất là với những người đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cơ sở v.v… Mặc dù đã có không ít công trình nghiên cứu về chủ đề phụ nữ với chính trị và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, song chưa có một công trình nào nghiên cứu làm rõ các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường. Thực tế đó đòi hỏi cần phải có một nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này nhằm tìm ra các yếu tố quyết định tỷ lệ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường để từ đó có biện pháp chính sách phù hợp, góp phần nâng cao vị thế, vai trò và hiệu quả tham gia chính trị của phụ nữ ở cấp cơ sở nói chung và ở các phường trên địa bàn Thủ đô Hà Nội nói riêng. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của Luận văn là phân tích các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp góp phần thúc đẩy các yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực nhằm tăng tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường. Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của phụ nữ trong chính trị, phụ nữ trong vai trò cán bộ chủ chốt và các yếu tố quyết định tỷ lệ nữ cán bộ lãnh đạo; - Chỉ ra thực trạng tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường, trên cơ sở đó, phân tích các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường; - Đề xuất một số giải pháp tăng tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: các cán bộ chủ chốt cấp phường bao gồm 6 nhóm: Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường; Bí thư, Phó Bí thư đảng ủy phường; Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường. - Phạm vị nghiên cứu: * Phạm vi thời gian: từ 2003 – 2008 * Phạm vi không gian: phường Bạch Mai, Đồng Tâm và Trương Định của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Cở sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam. * Phương pháp nghiên cứu: các phương pháp cụ thể tiến hành nghiên cứu chủ yếu là: Phân tích tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu, phương pháp chuyên gia. - Phân tích, tổng hợp tài liệu: phân tích các nguồn tư liệu, số liệu sẵn có về địa bàn và đối tượng nghiên cứu - Phỏng vấn bằng bảng hỏi. - Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn sâu 05 trường hợp là cán bộ chủ chốt cấp phường, trong đó có 3 nữ, 02 nam - Phương pháp chuyên gia: phỏng vấn một số chuyên gia về giới và chính trị để từ đó có những đề xuất giải pháp, kiến nghị khả thi. 6. Đóng góp của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường. - Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khách quan, khoa học trong việc hoạch định chính sách xây dựng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường nói riêng và đội ngũ nữ cán bộ nói chung. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần mô tả thực trạng tham gia của phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường, từ đó chỉ ra các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao số lượng và chất lượng nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục, nội dung luận văn gồm có 03 chương, 09 tiết. Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỤ NỮ TRONG CHÍNH TRỊ VÀ CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ LỆ PHỤ NỮ TRONG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP PHƢỜNG 1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về phụ nữ trong chính trị 1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin Trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, loài người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải lao động để tạo ra của cải vật chất. Trong điều kiện tất yếu đó, phụ nữ là một lực lượng quan trọng duy trì sự tồn tại của loài người bởi họ là một nửa xã hội, là một lực lượng quan trọng trong đội ngũ những người lao động. Bằng lao động của mình, phụ nữ đã góp phần to lớn trong việc xây dựng và cải tạo xã hội. Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong xã hội. Trong ý tưởng của họ, việc giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền là một mục tiêu lớn của cách mạng do Đảng cách mạng lãnh đạo. Theo họ, “nhiệm vụ đầu tiên của giai cấp vô sản và của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của mình là phải triệt để giải phóng phụ nữ” [4, tr. 147]. Lênin từng khẳng định: “lôi cuốn quần chúng tham gia sinh hoạt chính trị mà không lôi cuốn được phụ nữ tham gia sinh hoạt chính trị là không được” [4, tr. 122]. Vì vậy, theo Lênin cần phải làm cho nữ công nhân tham gia đông đảo vào việc quản lý sự nghiệp công cộng và quản lý Nhà nước. Chủ nghĩa Mác đánh giá cao vai trò của những người lãnh đạo, quản lý những con người biết vận dụng lực lượng thực tiễn trong đó có phụ nữ; luôn coi vấn đề giới là vấn đề quan trọng gắn với các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội như phương thức sản xuất, cách mạng xã hội, giải phóng con người, giải phóng giai cấp...Sự phát triển của học thuyết Mác-Lênin trong thời đại ngày nay đã được làm phong phú và sâu sắc hơn bởi các quan điểm nữ quyền (thuyết nữ quyền mácxít, nữ quyền xã hội chủ nghĩa) coi vấn đề giới là vấn đề cơ bản. 1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh Trong Hồ Chí Minh toàn tập với tổng số gần hai nghìn bài nói và viết, có gần 100 bài viết Bác hơn một lần nhắc đến phụ nữ. Là học trò xuất sắc của Các Mác và V.I.Lênin, lại là người am hiểu lịch sử dân tộc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trong quá trình dựng nước, giữ nước. Cũng như các lãnh tụ đi trước là Mác và Lênin, Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò của phụ nữ thế giới nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Người nhận định rằng: "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" [52, tr. 6]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa" [52, tr. 15]. Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã có dịp tìm hiểu nhiều cuộc cách mạng diễn ra trên thế giới. Người rút ra kết luận chỉ có cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng "đến nơi" hay còn gọi là cuộc cách mạng triệt để, nghĩa là đem lại quyền làm chủ xã hội thực sự cho người dân. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản, nhằm giành lại độc lập hoàn toàn cho dân tộc, ấm no tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân và để thực sự giải phóng phụ nữ thoát khỏi cả ách áp bức dân tộc lẫn ách áp bức xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ luôn gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Vì vậy, trong văn kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nông dân nghèo, các sản nghiệp lớn cho công nhân, các quyền dân chủ tự do cho nhân dân, mà còn nhằm "thực hiện nam nữ bình quyền". Đánh giá cao vai trò của phụ nữ khi nhìn nhận phụ nữ là một lực lượng lao động đông đảo của xã hội, Người còn thấy rõ khả năng làm việc không thua kém nam giới của phụ nữ. Người chỉ rõ: "dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản, người phụ nữ dũng cảm có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của người đàn ông dũng cảm có thể làm, dù nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài năng và nghị lực" [27, tr. 97]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cũng như nam giới, phụ nữ có thể đảm nhận và hoàn thành tốt những công việc lớn của đất nước, của cách mạng. Quan niệm như vậy, Người luôn quan tâm đến vị trí của phụ nữ trong các tổ chức của hệ thống chính trị, mong muốn ngày càng có nhiều chị em tham gia công tác trong các cấp uỷ Đảng, chính quyền cũng như trong các tổ chức quần chúng nhân dân do Đảng tổ chức, lãnh đạo. Tháng 8 năm 1949, trong bức thư gửi đồng bào Nghệ An, Hồ Chí Minh đã viết: "Tôi rất vui lòng rằng xã nào cũng có phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân. Phụ nữ phải tham gia chính quyền nhiều hơn và thiết thực hơn" [23, tr. 673]. Một lần nói chuyện với cán bộ và đồng bào xã Đại Nghĩa (Hà Đông), Hồ Chí Minh không hài lòng khi thấy xã này đảng viên nữ quá ít, Người nói : "Vai trò của phụ nữ trong sản xuất rất quan trọng. Các chú không dìu dắt, giúp đỡ chị em, tổ chức chị em vào Đảng là không đúng" [26, tr. 403]. Quan tâm tới vị trí của phụ nữ trong xã hội, đồng thời Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, một trong những nhiệm vụ của phụ nữ dưới chế độ ta là phải Hăng hái tham gia chính quyền. Người còn chỉ ra rằng nếu cán bộ lãnh đạo là nữ mà ít, đấy cũng là một thiếu sót của Đảng. Về nguyên nhân của tình trạng phụ nữ ít được tham gia lãnh đạo quản lý, theo Hồ Chí Minh đó là vì "Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai" [28, tr. 208]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đã là người - cán bộ thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, phụ nữ làm lãnh đạo cũng không tránh khỏi cái tất yếu đó. Theo Người, cái quan trọng của việc dùng cán bộ là phải biết được cái hay cái dở của cán bộ mà bố trí, sử dụng cho hợp lí, “dụng nhân như dụng mộc”. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò của phụ nữ trong xã hội rất to lớn không chỉ vì họ là lực lượng lao động to lớn, mà còn vì họ là những người tham gia xây dựng, cải tạo xã hội. Ngoài thiên chức làm vợ, làm mẹ, thì khả năng làm việc, sức sáng tạo khi làm việc cho cộng đồng của phụ nữ không thua kém đàn ông, thậm chí cán bộ nữ còn có những ưu điểm so với nam giới “ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách mệnh lệnh như một số cán bộ nam” [52, tr. 208]. Theo Người, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội sẽ không mang tính cách mạng đầy đủ nếu không thực sự giải phóng phụ nữ, bởi vì, họ là một nửa nhân loại, một nửa xã hội. Cần phải xoá bỏ tàn dư phong kiến trọng nam khinh nữ, coi thường, xem nhẹ khả năng làm việc xã hội của phụ nữ; chỉ có vậy mới thực sự giải phóng phụ nữ, làm cho cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo có ý nghĩa cách mạng đầy đủ, có tính nhân văn sâu sắc. Tất nhiên, để thực hiện cuộc cách mạng "to” và "lớn” này, phụ nữ Việt Nam phải chủ động và tự tin phấn đấu về mọi mặt, không tự ti trong công tác; tích cực đấu tranh với tư tưởng phong kiến, hẹp hòi, lạc hậu đối với phụ nữ trong giới "mày râu", đồng thời chống chủ nghĩa cá nhân "níu áo nhau" trong nội bộ giới mình. Có thể nhận thấy Hồ Chí minh đánh giá cao lực lượng chính trị của phụ nữ và rất quan tâm đấu tranh giải phóng phụ nữ về chính trị. Giải phóng phụ nữ về chính trị, theo Người phải bắt đầu từ việc trang bị cho họ công cụ lý luận, tổ chức cho họ tự giác tham gia các hoạt động chính trị, tham gia các tổ chức chính trị, trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách bình đẳng với nam giới. 1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam Nhận thức rõ vai trò to lớn của phụ nữ trong xã hội nói chung và trong lĩnh vực chính trị nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng công tác cán bộ nữ. Bình đẳng nam nữ là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi mới thành lập. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong đời sống chính trị - xã hội đã được khẳng định xuyên suốt từ Hiến pháp năm 1946 đến nay. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của phụ nữ, Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát huy khả năng đóng góp mọi mặt của phụ nữ trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong công tác quản lý, lãnh đạo. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đã khẳng định: phụ nữ nước ta là một lực lượng quan trọng trong cách mạng và trong sản xuất, do đó, toàn dân phải có trách nhiệm lớn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Chỉ thị số 44/CT-TW ngày 07-6-1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ đã khẳng định công lao to lớn đóng góp của phụ nữ trong ba cuộc cách mạng và chỉ rõ cách thức tăng cường vai trò của cán bộ nữ. Điều 53 Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý”. Nguyên tắc cơ bản này chính là sự thể hiện tập trung quan điểm của Đảng ta đối với vai trò của người phụ nữ trong việc tham gia đời sống chính trị và cộng đồng của đất nước. Để nâng cao vai trò của người phụ nữ trong lĩnh vực này, cần tăng cường đội ngũ cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế, các tổ chức. Chính sách tăng cường đội ngũ cán bộ nữ còn thể hiện bằng một số văn bản pháp luật của Chính phủ như: Quyết định số 72/TTg ngày 25/02/1993 của Thủ tướng Chính phủ về Ủy ban quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ, Chỉ thị số 646/TTg ngày 07/11/1994 về tổ chức và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, nghành và địa phương, Nghị định số 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/03/2003 quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Có thể nhận thấy, chủ trương tăng cường công tác các bộ nữ của Đảng tương đối rõ ràng và vấn đề nâng cao vai trò, vị trí của phụ nữ trong việc tham gia bộ máy lãnh đạo và ra quyết định đã được đưa vào kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ. Trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến vấn đề tuyển chọn, bổ nhiệm nhân sự vào các cương vị công tác trong hệ thống cơ quan nhà nước không có điều khoản nào ngăn cản, hạn chế hoặc phân biệt đối xử với phụ nữ. Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 (được sửa đổi bổ sung năm 2000 và 2003), Pháp lệnh về hàm cấp ngoại giao 1995 hay các văn bản pháp luật quy định về những tiêu chuẩn làm một số nghề tương đối đặc biệt trong bộ máy nhà nước (một số nước trên thế giới chỉ cho phép nam giới được làm) như: thẩm phán, kiểm sát viên (Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân). Tuy nhiên quy định bình đẳng giới mang tính pháp lý về vấn đề này, chỉ đến Luật Bình đẳng giới là văn bản pháp luật đầu tiên quy định bình đẳng nam, nữ về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. Nghị quyết 04 ngày 12/7/1993 của Ban chấp hành TW Đảng về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới và Chỉ thị 37 ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư TW Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới đã đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có tính chiến lược trong toàn bộ công tác cán bộ nữ của Đảng và Nhà nước; có quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ các ngành, các cấp, có chính sách khuyến khích tài năng nữ. Chỉ thị 37/CT-T.Ư ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ trong tình hình mới khẳng định: "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ". Phụ nữ tham gia QLNN là một sự bảo đảm để các vấn đề giới được phản ánh trong quá trình ra quyết định, là sự khẳng định về năng lực, trí tuệ của phụ nữ. Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 do Thủ tướng chính phủ phê duyệt đã đề ra mục tiêu: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhiệm kỳ 2004-2009 là 28%; cấp quận, huyện là 23%; cấp xã, phường là 18%. Gần đây nhất, Luật Bầu cử đại biểu HĐND sửa đổi đã được thông qua, trong đó Điều 14 quy định bảo đảm số lượng thích đáng đại biểu HĐND là phụ nữ; Quyết định số 49/QĐ-TTG ngày 8/1/2004 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu HĐND các cấp và quy trình công tác nhân sự HĐND, UBND nhiệm kỳ 2004-2009 quy định có tỷ lệ thích đáng đại biểu HĐND là phụ nữ; tăng tỷ lệ người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ; phấn đấu đạt tỷ lệ chung không dưới 25% đại biểu là phụ nữ, riêng các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng phấn đấu đạt tỷ lệ 27%... Tại Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định: "Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động của xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp" [8, tr. 120]. Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam đã cam kết trước cộng đồng quốc tế tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội một cách đầy đủ và bình đẳng như nam giới thông qua việc ký Công ước Liên Hợp Quốc về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) từ năm 1980, tham gia Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ của Liên Hợp Quốc (Bắc Kinh, 1995), Khoá họp đặc biệt lần thứ 23 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về vấn đề phụ nữ và các cam kết của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN),... Chính vì sự quan tâm sát sao của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng nỗ lực của các cơ quan chức năng cũng như của bản thân phụ nữ mà Việt Nam trở thành quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á” (Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở Việt Nam, tháng 12/2006 của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Vụ phát triển quốc tế Anh (DFID) và Cơ quan phát triển quốc tế Canađa (CIDA)). Như vậy, giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng đối với phụ nữ, quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ vươn lên tự khẳng định mình trong công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, quản lý Nhà nước là quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và được cụ thể hoá trong các chủ trương, chính sách của Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước của Đảng ta. Với việc thông qua Luật Bình đẳng giới, Chính phủ Việt Nam đang tiến hành những bước đi quan trọng để giải quyết những vấn đề này. 1.2. Phụ nữ trong vai trò Cán bộ chủ chốt cấp phƣờng 1.2.1. Cán bộ chủ chốt cấp phường Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) nhận định: Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế -xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. [7, tr. 166]. Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở đô thị, là cấp chấp hành, là cầu nối trực tiếp giữa hệ thống chính trị với nhân dân. Chính quyền phường không quản lý toàn diện hoạt động sản xuất như chính quyền xã, thị trấn mà chủ yếu thực hiện chức năng quản lý và hướng dẫn thi hành pháp luật với nhiệm vụ cụ thể trong các lĩnh vực: - Quản lý dân cư, hộ tịch, hộ khẩu và các chính sách khác của Nhà nước có liên quan đến biến động dân số; - Quản lý đất đai, trật tự xây dựng, trật tự đô thị;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan