ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VŨ THỊ THU HẰNG
CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ LỆ PHỤ NỮ
TRONG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP PHƯỜNG
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60. 31. 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGÔ HUY ĐỨC
Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VŨ THỊ THU HẰNG
CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ LỆ PHỤ NỮ
TRONG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP PHƯỜNG
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60. 31. 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2009
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ tham gia chính trị là một trong những con đường chủ yếu dẫn tới
sự bình đẳng về giới và mở ra cơ hội quyết định các chính sách và kế hoạch vì
lợi ích của phụ nữ. Vì vậy, tăng cường vai trò của phụ nữ trong chính trị là một
mục tiêu phấn đấu vì sự bình đẳng, phát triển và khả năng làm chủ xã hội của
phụ nữ.
Đối với công dân nói chung và phụ nữ nói riêng, quyền chính trị là một
trong những quyền quan trọng và nhạy cảm nhất, thường được đề cập đầu tiên
trong hệ thống các quyền mà họ có. Theo Công ước CEDAW thì phạm vi các
quyền về chính trị của phụ nữ bao gồm: quyền tham gia bỏ phiếu trong mọi
cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân; quyền ứng cử; quyền tham gia xây dựng và thực
hiện các chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ nhà nước; quyền tham
gia các tổ chức và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời sống cộng đồng và
chính trị của đất nước.
Trong quan hệ giữa bình đẳng giới và pháp luật có mối quan hệ biện
chứng hai chiều: phụ nữ vừa là người hưởng thụ các quyền và lợi ích do pháp
luật mang lại, vừa là chủ thể tham gia tạo lập, kiểm soát và hoàn thiện môi
trường pháp luật vì sự tiến bộ của phụ nữ và của xã hội. Cương lĩnh hành động
của hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ 4 tại Bắc Kinh (Cương lĩnh Bắc Kinh)
đã khẳng định: “Không có sự tham gia tích cực của phụ nữ và với sự hợp tác
chặt chẽ của phụ nữ ở các cấp ra quyết định và ở các cơ quan pháp luật thì
mục tiêu Bình đẳng, Phát triển và Hoà bình không thể thực hiện được”.
Như vậy, quyền chính trị là quyền cơ bản của công dân, là quyền bình đẳng
có tính nền tảng để xác lập vị thế pháp lý của công dân - phụ nữ trong đời sống
chính trị, đời sống cộng đồng, là hình thức pháp lý thể hiện bản chất dân chủ, bình
đẳng của xã hội.
Thước đo cơ bản về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại là sự
tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý. Dù có nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề này nhưng một điểm thống nhất ở đây là vai trò của phụ nữ
trong chính trị tỷ lệ thuận với tỉ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Điều này
giải thích tại sao Chiến lược và Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ
đặt ra mục tiêu tăng cường số lượng và tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý các
cấp.
Tăng cường tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt nói chung và nữ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở nói riêng là một việc làm cần thiết nhằm đảm bảo bình đẳng nam nữ
trong lĩnh vực chính trị. Tăng cường tỷ lệ nữ trong cán bộ chủ chốt trên cơ sở
khoa học và hợp lý sẽ góp phần làm tăng uy tín, vai trò và vị thế của phụ nữ
trong hệ thống chính trị; tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở
và đặc biệt là đảm bảo tạo nguồn cán bộ nữ có chất lượng cho hệ thống chính trị
các cấp cao hơn. Tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các
cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương không chỉ là tăng lên về số
lượng phụ nữ ở vị trí hay vị thế quyền lực, mà ở việc tăng cường quyền hạn và
tiếng nói của phụ nữ.
Mặc dù ủng hộ quan điểm tăng tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị, song chúng tôi cho rằng tỷ lệ nữ cán bộ trong hệ thống chính trị cũng
chỉ là một trong những chỉ số thể hiện sự bình đẳng giới trong chính trị bởi lẽ tỷ
lệ 50 – 50 xét cho cùng chỉ là con số bình quân. Bình đẳng nam nữ trong chính
trị không có nghĩa phải đảm bảo tỷ lệ ngang bằng về giới trong tham chính là
đủ, mà điều quan trọng là phải tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội và khả năng
đóng góp nhiều nhất trí tuệ và tài năng của mình cho nền chính trị xã hội. Đôi
khi, nếu cứ bắt phụ nữ tham chính lại là sự bất bình đẳng đối với phụ nữ vì bắt
họ phải gánh vác thêm những việc mà họ không muốn làm hoặc chưa làm được
vì nhiều yếu tố cả sinh học lẫn xã hội. Tăng cường tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị nói chung và ở cấp cơ sở nói riêng là một việc làm cần
thiết và có ý nghĩa đối với sự phát triển của mỗi quốc gia cả về phương diện
kinh tế - văn hoá - chính trị - xã hội.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất cơ bản trong quá trình tiến tới
bình đẳng giới. Chỉ số phát triển giới của Việt Nam luôn đạt mức cao so với
một số quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, phụ nữ giữ các
chức vụ cán bộ chủ chốt ở các cấp chính quyền nhìn chung chiếm tỷ lệ thấp và
không đồng đều, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt có xu hướng
thấp dần ở cấp phường/xã và tỷ lệ này có xu hướng cao dần ở địa bàn thành thị,
thấp dần ở nông thôn.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng cường đội ngũ nữ
cán bộ quản lý, lãnh đạo, trong những năm vừa qua, Đảng bộ, chính quyền
thành phố Hà Nội đã có những cố gắng tích cực trong việc nâng cao tỷ lệ phụ
nữ trong hệ thống chính trị. Đội ngũ cán bộ nữ Hà Nội đã tăng rõ rệt trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của thành phố đạt
gần 20%, nữ đại biểu Hội đồng nhân dân (HÐND) 3 cấp là 31%, nữ tham gia
cấp uỷ 3 cấp đạt 21%. Trong đó có 2 nữ cán bộ chủ chốt trong Thành uỷ,
HÐND, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố, 11 nữ phó Chủ tịch HÐND và
UBND quận, huyện, 23 nữ giám đốc, phó giám đốc các sở, ngành, 6 nữ Bí thư
Ðảng uỷ quận, huyện. Ðặc biệt, hai đơn vị có nữ cán bộ cao nhất là quận Hai
Bà Trưng với 3 cán bộ chủ chốt cấp quận và 11/20 Chủ tịch phường, quận
Hoàn Kiếm có 8/18 Chủ tịch phường là nữ. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ nữ
cán bộ trong hệ thống chính quyền nói chung và trong đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp phường nói riêng chưa đồng đều giữa các đơn vị và chưa tương xứng với
tiềm năng của phụ nữ Thủ đô.
So với các địa phương khác, Hà Nội là một trong những đơn vị có tỷ lệ
nữ cán bộ chủ chốt cao, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp phường, trong đó, quận
Hai Bà Trưng là một trong những quận điển hình. Tuy nhiên, ngay ở đơn vị
điển hình này thì tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt giữa các đơn vị cũng vẫn có sự chênh
lệch. Vấn đề đặt ra là tại sao lại có sự khác biệt như vậy, yếu tố nào quyết định
tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường? Hơn nữa, liệu sự khác biệt đó có thực sự
phản ánh sự khác biệt về vai trò của phụ nữ nói riêng, và sự bình đằng chính trị
nói chung trong đời sống chính trị nước ta. Nói cách khác, liệu tỷ lệ cán bộ chủ
chốt nữ có phải chỉ mang tính hình thức?
Đây là các vấn đề nghiên cứu lớn và không dễ trả lời, trong điều kiện và
khuôn khổ của luận văn này, việc nhìn nhận các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ cán
bộ chủ chốt nữ hy vọng sẽ góp thêm một phần cho sự lý giải các vấn đề quan
trọng đó. Từ những suy nghĩ như trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Các
yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phƣờng” làm đề
tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có không ít các nhà khoa học, các học giả nghiên cứu về vấn đề phụ
nữ tham gia chính trị, tiêu biểu như:
- Phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân (trường hợp Thành phố Hải
Phòng), của nhóm tác giả PGS. TS. Lê Thị Quý, Nguyễn Tuyết Nga (Trung tâm
nghiên cứu Giới và phát triển Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội). Đây là một nghiên cứu trường hợp với mục đích tìm
hiểu các yếu tố tác động đến sự tham gia của phụ nữ vào Hội đồng nhân dân
các cấp của Thành phố Hải Phòng nhằm thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào
công tác lãnh đạo, quản lý. Dựa trên việc phân tích các tài liệu sẵn có của địa
phương và các phỏng vấn sâu cán bộ Hội đồng nhân dân các cấp và cử tri, bài
viết phân tích nguyên nhân chủ quan và khách quan của tình trạng ít nữ đại biểu
Hội đồng nhân dân và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng tỷ lệ nữ tham gia Hội
đồng nhân dân;
- TS. Võ Thị Mai. Vai trò của nữ cán bộ trong công tác quản lý Nhà
nước (trường hợp tỉnh Quảng Ngãi). Đây là đề tài nghiên cứu mô tả rõ thực
trạng vai trò của nữ cán bộ trong hoạt động quản lý Nhà nước trên cơ sở phân
tích, khảo cứu thực tiễn. Đề tài đã chỉ rõ vai trò của nữ cán bộ trong quản lý
Nhà nước, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của nữ cán bộ trong công tác
quản lý và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nữ cán bộ trong
quản lý, lãnh đạo.
Bên cạnh đó, có một số đề tài nghiên cứu về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở như:
- TS. Nguyễn Duy Hùng. Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay, nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Hà Nội. 2008. Đây là một đề tài khoa học được tiến hành nhằm tổng kết
thực tiễn, phân tích những cơ sở lý luận của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
phường, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng tình hình, làm cơ
sở cho việc đề xuất một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, hệ thống
chính trị ở loại hình phường, góp phần phục vụ công tác xây dựng Đảng và xây
dựng hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Nội dung cuốn sách tập trung tìm
hiểu cơ sở khoa học và giải pháp cho hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường với những nét đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển
đã được khảo sát trong đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ thuộc địa bàn phường ở
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng từ năm 2000 đến 2008.
Tác giả tìm hiểu các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, cán bộ cấp cơ sở và công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, từ đó rút ra chức năng, nhiệm vụ, vai trò
của cán bộ lãnh đạo phường và những căn cứ khoa học của công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường. Từ cơ sở thực tiễn của việc xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo phường, tác giả đưa ra 3 nhóm giải pháp về công tác tổ chức,
về công tác cán bộ và về thực hiện mô hình thí điểm, trong đó đáng chú ý là
nhóm giải pháp về công tác cán bộ, gồm: xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ
lãnh đạo phường; chủ động tạo nguồn và xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo
phường; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường; tăng cường luân chuyển cán bộ phường để đào tạo, rèn luyện cán bộ;
quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và cán bộ dự nguồn; đổi mới việc lựa
chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo phường; bổ sung, hoàn thiện chính sách, chế độ đối
với cán bộ phường; phát huy vai trò của cấp uỷ, tổ chức đảng và các đoàn thể
trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường; đề cao trách nhiệm và tăng
cường sự chỉ đạo của cấp ủy đối với đội ngũ này; trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường.
- PGS.TS. Trần Xuân Sầm (chủ biên), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán
bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. 1998. Cuốn sách trình bày các luận cứ khoa học của việc xác định cơ
cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị, phân tích
thực trạng hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Xác định cơ cấu,
tiêu chuẩn cơ bản đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi
mới hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ
nữ trong hệ thống chính trị” do đồng chí Nguyễn Đức Hạt, Uỷ viên Trung
ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương làm Chủ
nhiệm được Hội đồng cấp nhà nước nghiệm thu ngày 12-11-2006, đạt loại xuất
sắc. Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo của
cán bộ nữ trong hệ thống chính trị (HTCT), đưa ra hệ thống các giải pháp nâng
cao năng lực lãnh đạo cán bộ nữ: Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc nâng cao
nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ; hoàn thiện
khuôn khổ chiến lược bình đẳng giới, mô hình bình đẳng giới; xây dựng mô
hình lãnh đạo hài hòa giới; nâng cao năng lực của hội liên hiệp phụ nữ và các
cơ quan tổ chức chuyên trách về công tác phụ nữ; xây dựng bộ phận chuyên
trách về công tác cán bộ nữ trong các cơ quan tổ chức cán bộ của hệ thống
chính trị (HTCT); các giải pháp tạo nguồn, xây dựng quy hoạch cán bộ nữ trong
tổng thể quy hoạch cán bộ của Đảng và Nhà nước; nâng cao chất lượng đào tạo
cán bộ nữ; bố trí, sử dụng và luân chuyển hợp lý cán bộ lãnh đạo nữ các cấp,
các ngành; hoàn thiện chính sách phù hợp với từng đối tượng cán bộ nữ trong
các cơ quan, tổ chức thuộc HTCT các cấp. Đề tài kiến nghị: cần nâng cao nhận
thức trong HTCT và trong xã hội về bình đẳng giới, thu hút ngày càng đông
phụ nữ tích cực tham gia hoạt động trong lĩnh vực chính trị; quy định rõ trách
nhiệm của các cấp uỷ đảng, của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức của
HTCT trong việc đảm bảo bình đẳng giới, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ nữ của cơ quan, đơn vị, tạo điều kiện để phụ nữ phấn đấu và trưởng
thành; đổi mới tư duy về chính sách đối với cán bộ nữ trong HTCT; đổi mới
công tác phát hiện, đào tạo, quy hoạch và luân chuyển cán bộ nữ; xây dựng bộ
phận cán bộ chuyên trách về công tác cán bộ nữ trong cơ quan tổ chức các cấp
của HTCT; xây dựng và từng bước thực hiện mô hình lãnh đạo hài hoà giới
trong các tổ chức của HTCT ở nước ta
- Đề tài KHBĐ (2004)-09 về “Nâng cao phẩm chất, năng lực của người
cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cấp cơ sở theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương khoá IX” do TS. Nguyễn Danh Mộc, Viện Khoa học tổ
chức, Ban Tổ chức Trung ương làm Chủ nhiệm. Qua tổng hợp tài liệu và
nghiên cứu thực tế tại tỉnh Thái Bình và thành phố Hà Nội, đề tài đã góp phần
làm rõ thêm thực trạng phẩm chất, năng lực của đội ngũ Bí thư đảng ủy và
Chủ tịch UBND cấp xã hiện nay. Bên cạnh đa số cán bộ đứng đầu tổ chức
đảng và chính quyền cấp cơ sở được rèn luyện, thử thách, giữ được phẩm chất
đạo đức, có lối sống lành mạnh, gương mẫu, trách nhiệm, vẫn còn một bộ
phận cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện sa sút về đạo đức, tham
nhũng, tiêu cực. Số cán bộ đứng đầu Tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở
chưa qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ còn chiếm trên 80%, số cán bộ
chưa qua đào tạo lý luận chính trị còn hơn 14,5%, trình độ sơ cấp chính trị
chiếm hơn 11%; số cán bộ được đào tạo về quản lý mới đạt tỉ lệ 31,31%.
Để góp phần nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ đứng đầu
tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở, nhóm tác giả đề tài đưa ra 9 giải pháp:
(1) Nâng cao nhận thức trong Đảng và toàn xã hội về vị trí, vai trò của hệ
thống chính trị cơ sở, về đội ngũ cán bộ cơ sở, đặc biệt vai trò và trách nhiệm
của cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở trong thời kỳ mới.
(2) Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng về đường lối chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống, thái độ phục vụ nhân dân cho cán bộ đứng đầu tổ chức đảng
và chính quyền cấp cơ sở.
(3) Tiếp tục hoàn thiện tiêu chuẩn cụ thể đối với từng chức danh cán bộ
đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cấp cơ sở.
(4) Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với các chức danh
cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cơ sở.
(5) Hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
(6) Đa dạng hoá việc cung cấp thông tin lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ
cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở.
(7) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chế công tác của hệ thống
chính trị cơ sở.
(8) Nâng cao hiệu quả công tác cán bộ và từng bước đổi mới chế độ bầu
cử các chức danh cán bộ đứng đầu tổ chức đảng và chính quyền cơ sở.
(9) Tăng cường sự kiểm tra của cấp trên và sự giám sát trực tiếp của nhân
dân đối với đội ngũ cán bộ, nhất là với những người đứng đầu tổ chức đảng và
chính quyền cơ sở v.v…
Mặc dù đã có không ít công trình nghiên cứu về chủ đề phụ nữ với chính
trị và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, song chưa có một công trình nào nghiên cứu
làm rõ các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
phường. Thực tế đó đòi hỏi cần phải có một nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề
này nhằm tìm ra các yếu tố quyết định tỷ lệ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp
phường để từ đó có biện pháp chính sách phù hợp, góp phần nâng cao vị thế,
vai trò và hiệu quả tham gia chính trị của phụ nữ ở cấp cơ sở nói chung và ở các
phường trên địa bàn Thủ đô Hà Nội nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là phân tích các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ
trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường, trên cơ sở đó đưa ra một số giải
pháp góp phần thúc đẩy các yếu tố tích cực, hạn chế yếu tố tiêu cực nhằm
tăng tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của phụ nữ trong chính trị, phụ nữ trong
vai trò cán bộ chủ chốt và các yếu tố quyết định tỷ lệ nữ cán bộ lãnh đạo;
- Chỉ ra thực trạng tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường, trên
cơ sở đó, phân tích các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp
phường;
- Đề xuất một số giải pháp tăng tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các cán bộ chủ chốt cấp phường bao gồm 6 nhóm:
Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường; Bí thư, Phó Bí thư đảng ủy
phường; Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường.
- Phạm vị nghiên cứu:
* Phạm vi thời gian: từ 2003 – 2008
* Phạm vi không gian: phường Bạch Mai, Đồng Tâm và Trương Định
của quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cở sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng
cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu: các phương pháp cụ thể tiến hành nghiên
cứu chủ yếu là: Phân tích tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu,
phương pháp chuyên gia.
- Phân tích, tổng hợp tài liệu: phân tích các nguồn tư liệu, số liệu sẵn có
về địa bàn và đối tượng nghiên cứu
- Phỏng vấn bằng bảng hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn sâu 05 trường hợp là cán bộ
chủ chốt cấp phường, trong đó có 3 nữ, 02 nam
- Phương pháp chuyên gia: phỏng vấn một số chuyên gia về giới và chính
trị để từ đó có những đề xuất giải pháp, kiến nghị khả thi.
6. Đóng góp của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề
lý luận về các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường.
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khách quan, khoa học trong việc hoạch
định chính sách xây dựng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt cấp phường nói riêng và
đội ngũ nữ cán bộ nói chung.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần mô tả thực trạng tham gia của
phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường, từ đó chỉ ra các yếu tố quyết định tỷ
lệ phụ nữ trong cán bộ chủ chốt cấp phường. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao số lượng và chất lượng nữ trong cán bộ chủ chốt cấp
phường.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục
lục, phụ lục, nội dung luận văn gồm có 03 chương, 09 tiết.
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỤ NỮ TRONG CHÍNH TRỊ
VÀ CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TỶ LỆ PHỤ NỮ TRONG
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP PHƢỜNG
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam về phụ nữ trong chính trị
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, loài người muốn tồn tại và phát triển
thì trước hết phải lao động để tạo ra của cải vật chất. Trong điều kiện tất yếu đó,
phụ nữ là một lực lượng quan trọng duy trì sự tồn tại của loài người bởi họ là
một nửa xã hội, là một lực lượng quan trọng trong đội ngũ những người lao
động. Bằng lao động của mình, phụ nữ đã góp phần to lớn trong việc xây dựng
và cải tạo xã hội.
Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn đánh giá cao vai trò của
phụ nữ trong xã hội. Trong ý tưởng của họ, việc giải phóng phụ nữ, thực hiện
nam nữ bình quyền là một mục tiêu lớn của cách mạng do Đảng cách mạng
lãnh đạo. Theo họ, “nhiệm vụ đầu tiên của giai cấp vô sản và của Đảng Cộng
sản - đội tiên phong của mình là phải triệt để giải phóng phụ nữ” [4, tr. 147].
Lênin từng khẳng định: “lôi cuốn quần chúng tham gia sinh hoạt chính
trị mà không lôi cuốn được phụ nữ tham gia sinh hoạt chính trị là không được”
[4, tr. 122]. Vì vậy, theo Lênin cần phải làm cho nữ công nhân tham gia đông
đảo vào việc quản lý sự nghiệp công cộng và quản lý Nhà nước.
Chủ nghĩa Mác đánh giá cao vai trò của những người lãnh đạo, quản lý những con người biết vận dụng lực lượng thực tiễn trong đó có phụ nữ; luôn coi
vấn đề giới là vấn đề quan trọng gắn với các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội
như phương thức sản xuất, cách mạng xã hội, giải phóng con người, giải phóng
giai cấp...Sự phát triển của học thuyết Mác-Lênin trong thời đại ngày nay đã
được làm phong phú và sâu sắc hơn bởi các quan điểm nữ quyền (thuyết nữ
quyền mácxít, nữ quyền xã hội chủ nghĩa) coi vấn đề giới là vấn đề cơ bản.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh
Trong Hồ Chí Minh toàn tập với tổng số gần hai nghìn bài nói và viết, có
gần 100 bài viết Bác hơn một lần nhắc đến phụ nữ. Là học trò xuất sắc của Các
Mác và V.I.Lênin, lại là người am hiểu lịch sử dân tộc và trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của phụ nữ
Việt Nam trong quá trình dựng nước, giữ nước.
Cũng như các lãnh tụ đi trước là Mác và Lênin, Hồ Chí Minh thấy rõ vai
trò của phụ nữ thế giới nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Người nhận định
rằng: "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt
thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" [52, tr. 6].
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội.
Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu
không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa" [52, tr.
15].
Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã có dịp tìm hiểu
nhiều cuộc cách mạng diễn ra trên thế giới. Người rút ra kết luận chỉ có cách
mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng "đến nơi" hay còn gọi là cuộc cách mạng
triệt để, nghĩa là đem lại quyền làm chủ xã hội thực sự cho người dân. Vì vậy,
Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản, nhằm giành lại độc lập
hoàn toàn cho dân tộc, ấm no tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân và để thực
sự giải phóng phụ nữ thoát khỏi cả ách áp bức dân tộc lẫn ách áp bức xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ luôn gắn với sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Vì vậy, trong văn kiện thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng
không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nông dân nghèo, các sản
nghiệp lớn cho công nhân, các quyền dân chủ tự do cho nhân dân, mà còn nhằm
"thực hiện nam nữ bình quyền".
Đánh giá cao vai trò của phụ nữ khi nhìn nhận phụ nữ là một lực lượng
lao động đông đảo của xã hội, Người còn thấy rõ khả năng làm việc không thua
kém nam giới của phụ nữ. Người chỉ rõ: "dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
Cộng sản, người phụ nữ dũng cảm có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của người
đàn ông dũng cảm có thể làm, dù nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài năng và
nghị lực" [27, tr. 97].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cũng như nam giới, phụ nữ có thể đảm nhận
và hoàn thành tốt những công việc lớn của đất nước, của cách mạng. Quan niệm
như vậy, Người luôn quan tâm đến vị trí của phụ nữ trong các tổ chức của hệ
thống chính trị, mong muốn ngày càng có nhiều chị em tham gia công tác trong
các cấp uỷ Đảng, chính quyền cũng như trong các tổ chức quần chúng nhân dân
do Đảng tổ chức, lãnh đạo. Tháng 8 năm 1949, trong bức thư gửi đồng bào
Nghệ An, Hồ Chí Minh đã viết: "Tôi rất vui lòng rằng xã nào cũng có phụ nữ
tham gia Hội đồng nhân dân. Phụ nữ phải tham gia chính quyền nhiều hơn và
thiết thực hơn" [23, tr. 673].
Một lần nói chuyện với cán bộ và đồng bào xã Đại Nghĩa (Hà Đông), Hồ
Chí Minh không hài lòng khi thấy xã này đảng viên nữ quá ít, Người nói : "Vai
trò của phụ nữ trong sản xuất rất quan trọng. Các chú không dìu dắt, giúp đỡ
chị em, tổ chức chị em vào Đảng là không đúng" [26, tr. 403].
Quan tâm tới vị trí của phụ nữ trong xã hội, đồng thời Hồ Chí Minh cũng
luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, một trong những nhiệm vụ của phụ nữ
dưới chế độ ta là phải Hăng hái tham gia chính quyền. Người còn chỉ ra rằng
nếu cán bộ lãnh đạo là nữ mà ít, đấy cũng là một thiếu sót của Đảng. Về nguyên
nhân của tình trạng phụ nữ ít được tham gia lãnh đạo quản lý, theo Hồ Chí
Minh đó là vì "Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay
thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai" [28, tr. 208].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đã là người - cán bộ thì ai cũng có chỗ hay,
chỗ dở, phụ nữ làm lãnh đạo cũng không tránh khỏi cái tất yếu đó. Theo Người,
cái quan trọng của việc dùng cán bộ là phải biết được cái hay cái dở của cán bộ
mà bố trí, sử dụng cho hợp lí, “dụng nhân như dụng mộc”. Như vậy, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, vai trò của phụ nữ trong xã hội rất to lớn không chỉ vì họ
là lực lượng lao động to lớn, mà còn vì họ là những người tham gia xây dựng,
cải tạo xã hội. Ngoài thiên chức làm vợ, làm mẹ, thì khả năng làm việc, sức
sáng tạo khi làm việc cho cộng đồng của phụ nữ không thua kém đàn ông, thậm
chí cán bộ nữ còn có những ưu điểm so với nam giới “ít mắc tệ tham ô, lãng
phí, không hay chè chén, ít hống hách mệnh lệnh như một số cán bộ nam” [52,
tr. 208].
Theo Người, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội sẽ không
mang tính cách mạng đầy đủ nếu không thực sự giải phóng phụ nữ, bởi vì, họ là
một nửa nhân loại, một nửa xã hội. Cần phải xoá bỏ tàn dư phong kiến trọng
nam khinh nữ, coi thường, xem nhẹ khả năng làm việc xã hội của phụ nữ; chỉ
có vậy mới thực sự giải phóng phụ nữ, làm cho cách mạng do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo có ý nghĩa cách mạng đầy đủ, có tính nhân văn sâu sắc. Tất
nhiên, để thực hiện cuộc cách mạng "to” và "lớn” này, phụ nữ Việt Nam phải
chủ động và tự tin phấn đấu về mọi mặt, không tự ti trong công tác; tích cực
đấu tranh với tư tưởng phong kiến, hẹp hòi, lạc hậu đối với phụ nữ trong giới
"mày râu", đồng thời chống chủ nghĩa cá nhân "níu áo nhau" trong nội bộ giới
mình.
Có thể nhận thấy Hồ Chí minh đánh giá cao lực lượng chính trị của phụ
nữ và rất quan tâm đấu tranh giải phóng phụ nữ về chính trị. Giải phóng phụ
nữ về chính trị, theo Người phải bắt đầu từ việc trang bị cho họ công cụ lý
luận, tổ chức cho họ tự giác tham gia các hoạt động chính trị, tham gia các tổ
chức chính trị, trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách bình đẳng với nam
giới.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhận thức rõ vai trò to lớn của phụ nữ trong xã hội nói chung và trong
lĩnh vực chính trị nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng công tác cán
bộ nữ. Bình đẳng nam nữ là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta ngay từ khi mới thành lập. Quyền bình đẳng của phụ nữ trong đời sống
chính trị - xã hội đã được khẳng định xuyên suốt từ Hiến pháp năm 1946 đến
nay. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của phụ nữ, Đảng và Nhà nước
đã chủ trương phát huy khả năng đóng góp mọi mặt của phụ nữ trong đời sống
xã hội, đặc biệt là trong công tác quản lý, lãnh đạo.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đã khẳng định: phụ nữ nước
ta là một lực lượng quan trọng trong cách mạng và trong sản xuất, do đó, toàn
dân phải có trách nhiệm lớn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Chỉ thị số 44/CT-TW ngày 07-6-1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ đã khẳng định công lao to
lớn đóng góp của phụ nữ trong ba cuộc cách mạng và chỉ rõ cách thức tăng
cường vai trò của cán bộ nữ.
Điều 53 Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định: “Công dân có quyền tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu
dân ý”. Nguyên tắc cơ bản này chính là sự thể hiện tập trung quan điểm của Đảng ta
đối với vai trò của người phụ nữ trong việc tham gia đời sống chính trị và cộng đồng
của đất nước. Để nâng cao vai trò của người phụ nữ trong lĩnh vực này, cần tăng
cường đội ngũ cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, các đơn vị
kinh tế, các tổ chức.
Chính sách tăng cường đội ngũ cán bộ nữ còn thể hiện bằng một số văn
bản pháp luật của Chính phủ như: Quyết định số 72/TTg ngày 25/02/1993 của
Thủ tướng Chính phủ về Ủy ban quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ, Chỉ thị số
646/TTg ngày 07/11/1994 về tổ chức và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở
các Bộ, nghành và địa phương, Nghị định số 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 07/03/2003 quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các
cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia
quản lý nhà nước. Có thể nhận thấy, chủ trương tăng cường công tác các bộ nữ
của Đảng tương đối rõ ràng và vấn đề nâng cao vai trò, vị trí của phụ nữ trong
việc tham gia bộ máy lãnh đạo và ra quyết định đã được đưa vào kế hoạch hành
động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến vấn đề tuyển
chọn, bổ nhiệm nhân sự vào các cương vị công tác trong hệ thống cơ quan nhà
nước không có điều khoản nào ngăn cản, hạn chế hoặc phân biệt đối xử với phụ
nữ. Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 (được sửa đổi bổ sung năm 2000 và
2003), Pháp lệnh về hàm cấp ngoại giao 1995 hay các văn bản pháp luật quy
định về những tiêu chuẩn làm một số nghề tương đối đặc biệt trong bộ máy nhà
nước (một số nước trên thế giới chỉ cho phép nam giới được làm) như: thẩm
phán, kiểm sát viên (Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân
năm 2002, Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân). Tuy nhiên quy
định bình đẳng giới mang tính pháp lý về vấn đề này, chỉ đến Luật Bình đẳng
giới là văn bản pháp luật đầu tiên quy định bình đẳng nam, nữ về tiêu chuẩn
chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo
của cơ quan, tổ chức.
Nghị quyết 04 ngày 12/7/1993 của Ban chấp hành TW Đảng về đổi mới
và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới và Chỉ thị 37 ngày
16/5/1994 của Ban Bí thư TW Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong
tình hình mới đã đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có tính
chiến lược trong toàn bộ công tác cán bộ nữ của Đảng và Nhà nước; có quy
hoạch, tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ các
ngành, các cấp, có chính sách khuyến khích tài năng nữ. Chỉ thị 37/CT-T.Ư
ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác
cán bộ trong tình hình mới khẳng định: "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực
hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài
năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ". Phụ nữ tham gia QLNN là một
sự bảo đảm để các vấn đề giới được phản ánh trong quá trình ra quyết định, là
sự khẳng định về năng lực, trí tuệ của phụ nữ. Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ
của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 do Thủ tướng chính phủ phê duyệt đã đề ra
mục tiêu: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nhiệm kỳ 2004-2009 là 28%; cấp quận, huyện là 23%; cấp xã,
phường là 18%. Gần đây nhất, Luật Bầu cử đại biểu HĐND sửa đổi đã được
thông qua, trong đó Điều 14 quy định bảo đảm số lượng thích đáng đại biểu
HĐND là phụ nữ; Quyết định số 49/QĐ-TTG ngày 8/1/2004 của Thủ tướng
Chính phủ hướng dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu HĐND các cấp và quy
trình công tác nhân sự HĐND, UBND nhiệm kỳ 2004-2009 quy định có tỷ lệ
thích đáng đại biểu HĐND là phụ nữ; tăng tỷ lệ người ứng cử đại biểu HĐND
là phụ nữ; phấn đấu đạt tỷ lệ chung không dưới 25% đại biểu là phụ nữ, riêng
các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng phấn đấu đạt
tỷ lệ 27%...
Tại Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định: "Tạo điều kiện để phụ nữ thực
hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên
của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào
các hoạt động của xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp" [8, tr.
120].
Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam đã cam kết trước cộng đồng quốc tế
tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội
một cách đầy đủ và bình đẳng như nam giới thông qua việc ký Công ước Liên
Hợp Quốc về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) từ
năm 1980, tham gia Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ của Liên Hợp Quốc
(Bắc Kinh, 1995), Khoá họp đặc biệt lần thứ 23 của Đại Hội đồng Liên Hợp
Quốc về vấn đề phụ nữ và các cam kết của Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN),...
Chính vì sự quan tâm sát sao của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng nỗ lực
của các cơ quan chức năng cũng như của bản thân phụ nữ mà Việt Nam trở
thành quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách
giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á” (Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở
Việt Nam, tháng 12/2006 của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB), Vụ phát triển quốc tế Anh (DFID) và Cơ quan phát triển quốc tế
Canađa (CIDA)).
Như vậy, giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng đối với phụ nữ,
quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ vươn lên tự khẳng định mình trong công tác
lãnh đạo, quản lý xã hội, quản lý Nhà nước là quan điểm nhất quán và xuyên
suốt của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và được cụ thể hoá
trong các chủ trương, chính sách của Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước
của Đảng ta. Với việc thông qua Luật Bình đẳng giới, Chính phủ Việt Nam
đang tiến hành những bước đi quan trọng để giải quyết những vấn đề này.
1.2. Phụ nữ trong vai trò Cán bộ chủ chốt cấp phƣờng
1.2.1. Cán bộ chủ chốt cấp phường
Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính
trị, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) nhận định:
Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú,
sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong
việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát
triển kinh tế -xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
[7, tr. 166].
Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở đô thị, là cấp chấp hành, là cầu nối
trực tiếp giữa hệ thống chính trị với nhân dân. Chính quyền phường không quản
lý toàn diện hoạt động sản xuất như chính quyền xã, thị trấn mà chủ yếu thực
hiện chức năng quản lý và hướng dẫn thi hành pháp luật với nhiệm vụ cụ thể
trong các lĩnh vực:
- Quản lý dân cư, hộ tịch, hộ khẩu và các chính sách khác của Nhà nước
có liên quan đến biến động dân số;
- Quản lý đất đai, trật tự xây dựng, trật tự đô thị;
- Xem thêm -