VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH THẢO
CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM
CỦA TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH THẢO
CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM
CỦA TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN
PHẨM TRẺ EM........................................................................................................ 7
1.1. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em................................................... 7
1.2. Cơ sở quy định các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em......................................... 10
1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em..........................15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC
TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM Ở TỈNH QUẢNG NAM.................26
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em...............26
2.2. Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em ở tỉnh Quảng Nam.........37
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM................................ 56
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em.........56
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ
em.............................................................................................................................. 61
KẾT LUẬN.............................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
BVTE
: Bảo vệ trẻ em
CTTP
: Cấu thành tội phạm
CULHQVQTE
: Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
ĐCS
: Đảng cộng sản
LTTHS
: Luật tố tụng hình sự
NCTN
: Người chưa thành niên
PLHS
: Pháp luật hình sự
TAND
: Toà án nhân dân
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTATXH
: Trật tự an toàn xã hội
VAHS
: Vụ án hình sự
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
XPNP
: Xâm phạm nhân phẩm
XPNPTE
: Xâm phạm nhân phẩm trẻ em
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là thế hệ mầm non - tương lai của đất nước, cần được chăm sóc, giáo
dục, bảo vệ trong những điều kiện tốt nhất bởi gia đình, nhà trường và xã hội. Pháp
luật Nhà nước CHXHCN Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, xem
trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế
tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời trang bị hành lang pháp luật
để BVTE khỏi sự xâm hại, đặc biệt là xâm hại nhân phẩm.
Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2018 quy mô dân số nước ta đạt
96.963.958 người, trong đó trẻ em dưới 16 tuổi khoảng 34,23 triệu người, chiếm
33,2% dân số. Với xu hướng cơ cấu dân số trẻ, sự phát triển của trẻ em càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Do đó, công
tác chăm sóc, giáo dục và BVTE luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, ưu tiên
hàng đầu trong chiến lược phát triển con người [48].
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đó mang lại những thành tựu to lớn
về kinh tế, xã hội. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong suốt hai thập kỷ
qua, đời sống nhân dân đang ngày một nâng cao, nhận thức và hành động trong
công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của toàn xã hội đã có những chuyển biến
mạnh mẽ. Công tác lập pháp và giám sát về BVTE của Quốc hội được tăng cường.
CULHQVQTE và Luật trẻ em 2016 đang đi vào cuộc sống. Môi trường, điều kiện
sống và phát triển của trẻ em ngày càng được cải thiện nhờ những giải pháp mạnh
mẽ, quyết liệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, trong những
năm qua, những thách thức đối với vấn đề bảo vệ trẻ em lại đang diễn ra phức tạp
trên cả 3 cấp độ: BVTE đang bị xâm hại; BVTE có nguy cơ bị xâm hại và BVTE ở
cộng đồng. Tình trạng trẻ em bị lạm dụng và xâm hại về thể chất, tinh thần, nhân
phẩm với chiều hướng ngày càng gia tăng và phức tạp. Nghị quyết số 09, ngày 31
tháng 7 năm 1998 của Chính Phủ về tăng cường công tác phòng chống tội phạm
1
trong tình hình mới đã nêu XPNPTE là một trong những loại phạm tội gây ra rất
hậu quả nghiêm trọng, khiến dư luận xã hội quan tâm, lo lắng, nên cần tập trung giải
quyết [9]. Vì vậy, đấu tranh phòng chống tội phạm XPNPTE được xác định là 1
trong 4 đề án được quan tâm giải quyết.
Quảng Nam là tỉnh thuộc vùng đồng bằng duyên hải miền Trung, phía Bắc tiếp
giáp với trung tâm hành chính, kinh tế lớn thành phố Đà Nẵng, tình hình tội phạm
XPNPTE trong một thập kỷ (từ 2008-2018) vừa qua diễn biến khá phức tạp, số
lượng các vụ án tăng nhanh, từ 25 vụ 36 bị cáo trong năm 2008 đã tăng lên 36 vụ 47
bị cáo trong năm 2018 với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Diễn biến
gia tăng về số vụ phạm tội một mặt phản ánh công tác đấu tranh, khởi tố điều tra,
truy tố và xét xử các vụ án XPNPTE trong những năm qua tại Quảng Nam đã có
những tiến bộ, nhưng mặt khác cũng cho thấy tình hình tội phạm XPNPTE đã và
đang diễn biến phức tạp, điều đó cũng có nghĩa là công tác đấu tranh, phòng ngừa,
điều tra, truy tố và xét xử các vụ án XPNPTE gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại và
còn một số hạn chế, chưa thực sự chủ động trong việc ngăn chặn và và kiểm soát tội
phạm XPNPTE.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác ngành Tòa án, Học viên thấy rằng
vấn đề xâm phạm nhân phẩm của trẻ em đang là điểm nóng trong xã hội cần được
quan tâm. Vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài “Các tội xâm phạm nhân phẩm
của trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học và luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của Học viện khoa học xã hội .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
* Các sách chuyên khảo:
- “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)”, GS. TSKH. Lê
- Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam”, NXB.
- “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm)”,
của ThS.Đinh Văn Quế, Nxb. TP.HCM, năm 2002, tái bản năm 2010 [24].
2
- Bình luận khoa học “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” của
GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2014 [52].
- So sánh đối chiếu Bộ luật hình sự 1999, 2015 và Bộ luật hình sự sửa đổi
năm 2017 của NXB Hồng Đức, Hà Nội năm 2017 [37].
* Dưới góc độ đề tài khoa học và Luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa “tội phạm xâm hại tình dục trẻ em tại
Hà Nội- thực trạng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, ngăn chặn của lực lượng Cảnh sát Hình sự Công an thành phố Hà
Nội” của Hoàng Tâm, Nguyễn Nhật Quang, Bùi Tiến Đạt năm 2004 [39].
- Luận án tiến sĩ Luật học: "Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người theo pháp luật hình sự Việt Nam", của tác giả Vũ Hải Anh, Học viện khoa
học xã hội, năm 2017 [1].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong Luật hình
sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hương, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội, năm 2014 [17].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người theo Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk
Lắk” của tác giả Nguyễn Đình Cương, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm
2015 [11].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người trong Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Yên Bái” của tác giả Lê Thái Hưng, Khoa luật, Đại học quốc
gia Hà Nội, năm 2015 [16].
- Luận văn thạc sỹ luật học: "Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên)”, của tác giả Dương Văn
Thịnh, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016 [40].
- Luận văn thạc sỹ luật học: "Tội mua dâm người dưới 18 tuổi theo pháp luật
hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Hồng Nhung, Viện hàn lâm, khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2018 [23].
3
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy ở nước ta đã có một
số công trình nghiên cứu cơ bản về tình hình các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ
em. Nhưng đối với việc nghiên cứu các tội phạm về XPNPTE tại một địa phương cụ
thể, thì chưa có một công trình nào nghiên cứu đặc biệt là đề tài “Các tội xâm phạm
nhân phẩm của trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của PLHS
Việt Nam và đánh giá thực tiễn xét xử VAHS về các tội phạm XPNPTE trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam, Luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc xác định tội danh và
áp dụng hình phạt đối với các tội phạm XPNPTE theo PLHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội phạm
XPNPTE, phân biệt từng tội phạm XPNPTE với nhau.
- Nghiên cứu và phân tích về lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam tháng 8
năm 1945 đến ngày 01.01.2018, khi BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 có
hiệu lực) về “Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em”.
- So sánh những quy định của PLHS Việt Nam với một số nước trên thế giới
về các tội phạm XPNPTE.
- Đánh giá thực tiễn xét xử các VAHS về các tội phạm XPNPTE ở tỉnh Quảng
Nam, trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích việc định tội danh và áp dụng hình
phạt.
- Đưa ra các giải pháp đảm bảo việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối
với các tội phạm XPNPTE.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của PLHS Việt Nam về các tội phạm
XPNPTE từ tháng 8 năm 1945 đến nay. Trong đó luận văn tập trung nghiên cứu
một số vấn đề lý luận về các tội phạm XPNPTE trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung
4
2009), so sánh với quy định về các tội phạm XPNPTE trong BLHS 2015 (sửa đổi,
bổ sung 2017, có hiệu lực từ ngày 01.01.2018). Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự về “Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ
em” ở tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2008 - 2018.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn thụ lý xét xử các tội phạm XPNPTE tại Tòa án
nhân dân các cấp tỉnh Quảng Nam từ năm 2008 đến năm 2018 và những văn bản
quy phạm pháp luật về thụ lý và xét xử các vụ án XPNPTE trong khoảng thời gian
từ năm 2008 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà
nước và pháp luật, về đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự nhân phẩm con người nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở kết hợp
giữa phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu thực tiễn lấy
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng thông qua đó có sự phân
tích, tổng hợp theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn cũng sử dụng
các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp lịch sử, so sánh,
hệ thống hóa, logic và thống kê kết hợp với khảo sát thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm đa dạng thêm cơ sở lý luận và
góp ý kiến để nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về “Các tội phạm xâm
phạm nhân phẩm trẻ em”. Bên cạnh đó cũng có thể sử dụng Luận văn này làm tài
liệu học tập và nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả xét xử các VAHS
nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng. Bên cạnh đó có thể dùng làm tài liệu
để trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung những chế định của pháp luật liên quan
đến các tội phạm XPNPTE trong pháp luật hình sự Việt Nam.
5
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được cấu thành bởi các bộ phận như sau:
Mở đầu
Chương 1: Các vấn đề lý luận về các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tội phạm xâm phạm
nhân phẩm trẻ em ở tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử xét xử các tội
phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
6
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM
1.1. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1.1.1. Khái niệm trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam
Quá trình phát triển về thể chất và tâm sinh lý của con người từ khi được sinh
ra đến khi chết đi trải qua các giai đoạn khác nhau, trong đó giai đoạn trẻ em là thời
kỳ phát triển đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người.
Theo quy định tại Điều 1 CULHQVQTE 1989 thì: “Trong phạm vi Công ước
này trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ
em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [19, tr.14]. Nghĩa là, các quốc gia phê
chuẩn hoặc tham gia Công ước này đều phải tuân thủ theo quy định về độ tuổi của
trẻ em là dưới 18 tuổi.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn
CULHQVQTE Trở thành thành viên của Công ước, hệ thống pháp luật trong nước
đã quy định độ tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, cho đến nay trong nền
khoa học pháp lý nước ta có thể nói chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh và thống
nhất về trẻ em, cụ thể là trong việc xác định ranh giới lứa tuổi của trẻ em.
Ở Việt Nam vấn đề quy định độ tuổi được coi là "Trẻ em" được quy định tại
Luật trẻ em 2016, quy định tại Điều 1 “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [36].
Trên thực tế, ở mỗi một ngành luật chuyên ngành khác nhau thì tùy theo mức
độ tiếp cận mà có những quy định liên quan đến độ tuổi và các quyền và nghĩa vụ
của trẻ em là khác nhau, như: BLHS 2015; Luật Lao động 2012, Luật Thanh niên
2005, BLDS 2015, Luật Giáo dục 2009 (dự thảo sửa đổi 2018), Luật Quốc tịch
2008 (sửa đổi bổ sung 2017) cũng có những quy định lứa tuổi được coi là trẻ em
phù hợp với góc độ tiếp cận của ngành luật đó….
Khái niệm "Trẻ em" không được quy định cụ thể trong Pháp luật hình sự Việt
Nam nhưng tại các Điều luật có liên quan nhà làm luật đưa ra nhiều lối tư duy khác
7
nhau để định nghĩa về trẻ em; tương ứng với mỗi CTTP, khái niệm“Trẻ em” cũng
được mô tả không giống nhau và để có thể đưa ra một khái niệm về trẻ em, trước
hết cần tìm hiểu những đặc điểm tâm sinh lý và xã hội, pháp lý của lứa tuổi này.
Các nghiên cứu khoa học ghi nhận lứa tuổi trẻ em có các đặc điểm như sau:
- Về thể chất: Phân kỳ phát triển cơ thể thì giai đoạn trẻ em trải qua nhiều thời
kỳ. Thời kỳ sơ sinh (từ lúc lọt lòng đến 01 tháng tuổi); thời kỳ bú mẹ (từ 1 - 12
tháng tuổi); thời kỳ răng sữa (từ 12- 60 tháng tuổi); thời kỳ thiếu niên (từ 7- 15
tuổi); thời kỳ dậy thì (lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông). Như
vậy, trẻ em là giai đoạn chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, các cơ quan trong cơ
thể đang trong quá trình xác lập, phân định và hoàn thiện về chức năng sinh lý, do
đó sức đề kháng và khả năng chống chọi với các tác động bất lợi của môi trường,
điều kiện sống của trẻ còn thấp hơn so với người trưởng thành. Vì vậy, những tác
động xấu của môi trường lên cơ thể trẻ em thường gây nên những hậu quả bất lợi
cho sự phát triển bình thường của cơ thể, thậm chí gây ra những di chứng cho giai
đoạn phát triển tiếp theo.
- Về tâm lý: Lứa tuổi trẻ em là thời kỳ lĩnh hội, tiếp nhận những tác động của
môi trường và điều kiện sống, những kinh nghiệm xã hội, lịch sử để định hình lên
những phẩm chất tâm lý nói chung và đặc điểm nhân cách nói riêng. Những phẩm
chất, đặc điểm này ở trẻ được hình thành qua quá trình giáo dục ở gia đình, nhà
trường và sự tác động của môi trường xã hội xung quanh trẻ. Khi đã được định
hình, chúng có ảnh hưởng rất lớn trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Nên ảnh
hưởng tích cực hay tiêu cực của môi trường sống là nhân tố quan trọng, trực tiếp tác
động tới quá trình hình thành phẩm chất tâm lý và nhân cách ở trẻ em.
- Đặc điểm về xã hội - pháp lý: Vì chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm
lý, trẻ không có hoặc chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Nghĩa là, bằng hành
vi của mình, trẻ không thể, hoặc chưa thể xác lập được một cách đầy đủ quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình khi tham gia các quan hệ dân sự. Nên cần có người giám
hộ đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ, đồng thời gánh chịu thay những
hậu quả pháp lý do hành vi của trẻ gây nên ở lứa tuổi này, hoạt động xã hội của trẻ
8
em chủ yếu vẫn trong phạm vi nhà trường và sinh hoạt tại nơi cư trú. Trẻ thường
sống phụ thuộc gia đình, tuy nhiên do các lý do khác nhau mà có cháu phải tự lập
kiếm sống, không được đi học, thiếu sự chăm sóc, giáo dục và bảo vệ của gia đình
và nhà trường.
Từ các đặc điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về trẻ em như sau:“Trẻ em
là người dưới 16 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm lý, không có
hoặc chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, thiếu khả năng tự bảo vệ nên dễ bị
tội phạm xâm hại, cần có sự bảo vệ đặc biệt của pháp luật”.
Theo học viên khái niệm về Trẻ em trong PLHS Việt Nam là: "Trẻ em trong
pháp luật hình sự Việt Nam là người từ khi sinh ra đến dưới 16 tuổi".
1.1.2. Khái niệm nhân phẩm trẻ em
Nhân phẩm con người là gì? Nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi cá nhân,
do vậy nhân phẩm không những phụ thuộc vào mỗi cá nhân mà nó còn phụ thuộc
vào quan niệm của xã hội và của giai cấp.
Ở mỗi con người chúng ta luôn có những phẩm chất nhất định, những phẩm
chất này làm nên giá trị của cá nhân (con người), gọi là nhân phẩm, là toàn bộ
những phẩm giá, giá trị làm người của mỗi con cá nhân.
Từ những phân tích đánh giá nêu trên về Khái niệm nhân phẩm và Khái niệm
trẻ em được quy định tại Điều 1 Luật trẻ em Việt Nam 2016. Học viên xin mạnh
dạn đưa ra Khái niệm nhân phẩm trẻ em: "Nhân phẩm trẻ em là phẩm giá, giá trị
tinh thần, lương tâm trong sáng của người dưới 16 tuổi".
1.1.3. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
Tội phạm là gì? Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và chịu các hình
phạt theo quy định của BLHS - Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 [28].
Khái niệm các tội phạm XPNPTE được nghiên cứu nhằm để chỉ một nhóm
hành vi tội phạm cụ thể, xâm hại quyền, lợi ích một loại đối tượng cụ thể là trẻ em.
Các loại hành vi XPNPTE được quy định tại các Điều luật cụ thể như: Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS); Dâm ô với người dưới 16 tuổi (Điều 146
BLHS); Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
9
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS); Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 144 BLHS); Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
(Điều 147 BLHS) và Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Vậy tội phạm
XPNPTE nghĩa là người phạm tội đã thực hiện những hành vi như: cố ý cưỡng bức,
lợi dụng sự kém hiểu biết trẻ em để xâm phạm đến nhân phẩm của trẻ em.
Từ những phân tích trên đây, học viên xin đưa ra khái niệm về các tội phạm
XPNPTE như sau: “Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em là các hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người không ở trong tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm
đến các quyền, lợi ích cấu thành nhân phẩm của trẻ em”.
Tội phạm nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng diễn ra trên thực tế rất
đa dạng, xâm hại đến nhiều loại khách thể khác nhau, BLHS 2015 không đặt ra một
chương riêng về tội phạm XPNPTE, nhưng căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể
phân chia các tội phạm XPNPTE thành hai nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, các tội được quy định bằng Điều luật cụ thể: Tội “Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi" (Điều 142); tội “Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi” (Điều 144); tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dùng khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" (Điều 145); tội "Dâm ô đối với người dưới 16
tuổi" (Điều 146) và tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm" (Điều
147) v.v. [28].
Nhóm thứ hai, các tội quy định XPNPTE là tình tiết định khung tăng nặng:
Tội "Mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục" (điểm b khoản 1 Điều 151);
Tội“Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”(điểm b, khoản 2, Điều 329).
1.2. Cơ sở quy định các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1.2.1. Cơ sở chính trị - xã hội
- Chăm lo, giáo dục và BVTE luôn là một ưu tiên trong chiến lược phát triển
con người ở nước ta. Đảng và Nhà nước luôn xác định chăm lo cho thế hệ trẻ là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm, là mục tiêu của mọi thời kỳ cách mạng và mang
dấu ấn đặc thù của tư tưởng Hồ Chí Minh, Người nói: “Bồi dưỡng thế hệ cách
10
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” và: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Tại Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đặc biệt là Chỉ thị số 197/CT-TW
19/3/1960 về công tác thiếu niên, nhi đồng của Đảng - lần đầu tiên công tác thiếu
niên, nhi đồng được đề cập một cách toàn diện và đầy đủ trong một văn kiện của
Đảng, thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với việc đào tạo,
bồi dưỡng lớp người mới phục vụ cho sự nghiệp xây dựng XHCN. Từ đó đến nay
Đảng đã có rất nhiều chỉ thị về công tác thiếu niên, nhi đồng. Đến năm 1979 Đảng
và Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em - đây
chính là nền tảng pháp lý đầu tiên để BVTE.
Đại hội Đảng lần thứ tư (1986), Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi
mới trên nhiều phương diện, trong đó chính thức nhắc đến các quy định pháp luật về
quyền trẻ em. Như vậy nghĩa vấn đề BVTE cũng là một bộ phận quan trọng của
công cuộc đổi mới này. Từ đó, quyền trẻ em với tư cách là quyền con người được
thảo luận công khai và rộng rãi và được ghi nhận, quy định cụ thể các quyền của trẻ
em trong pháp luật Việt Nam. Đầu tiên về thành tựu lập pháp, hàng loạt các văn bản
có hiệu lực pháp lý cao đó ra đời, nhằm thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
về trẻ em vào trong hệ thống pháp luật cho phù hợp với điều kiện mới, đó là BLHS
1985, Luật Hôn nhân gia đình 1986, Luật Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân
1988. Đặc biệt là khi CUQTVQTE ra đời, nhằm cụ thể hoá các quy định của Công
ước vào hệ thống pháp luật quốc gia, Nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em 1991, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học 1991, Luật Giáo dục
1998. Ngày 30/5/1994 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra Chỉ thị số
38/CT-TW về “tăng cường công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em”; phát
động “tháng hành động vì trẻ em” từ ngày 15/5 đến ngày 30/6 hàng năm. Sau khi sơ
kết 04 năm thực hiện chỉ thị 38/CT- TW, Bộ Chính trị đã ra Thông tri số 04/TT-TW
về: “tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đặt trước
những thách thức mới, Đảng đã ban hành những văn bản quan trọng giúp định
11
hướng hành động cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Ngày 28 tháng 6 năm 2000 Bộ
Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 55, trong đó trong tâm nêu rõ các cơ sở Đảng phải
nâng cao công tác BVTE. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiện nay nhiều Chương trình
hành động Quốc gia vì trẻ em trên các lĩnh vực như giáo dục, y tế, dinh dưỡng được
tổ chức thực hiện, ví dụ như “Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 20012010”; “Chương trình hành động quốc gia vỡ trẻ em giai đoạn 2001-2010”; Chiến
lược chăm sóc sức khoẻ sinh sản quốc gia 2001-2010”.
Như vây, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam đã thấy rõ vai trò của trẻ
em trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cho nên Đảng và Nhà nước
qua nhiều giai đoạn lịch sử, luôn coi trọng BVTE bà đề ra những đường lối, chính
sách cụ thể tạo nên một quá trình đồng bộ, nhất quán và toàn diện hướng tới một
chế độ chính trị, pháp lý hoàn chỉnh cho công tác BVTE.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
- Ngày 20/02/1990 Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã phê chuẩn
CULHVQTE 1989. Từ đó hệ thống pháp luật quốc gia ở nước ta đã tích cực “nội
luật hoá” tinh thần và nội dung của Công ước này. Hàng loạt văn bản pháp luật
quan trọng như Hiến pháp; Luật trẻ em; Luật Quốc tịch; Luật Phổ cập giáo dục tiểu
học; Luật Lao động; Luật Dân sự, được ban hành và sửa đổi, đều quan tâm thích
đáng đến quyền lợi của trẻ em. Có thể tìm hiểu quyền trẻ em được quy định trong
một số ngành luật sau:
Hiến pháp là đạo luật gốc, quy định những vấn đề quan trọng mang tính
nguyên tắc, làm cơ sở cho các ngành luật khác. Các quyền cơ bản nhất của trẻ em đã
được quy định trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013, chẳng hạn như khoản 1
Điều 37 Hiến pháp 2013 quy định: "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm
xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em".
Tại Điều 5 Luật trẻ em Việt Nam năm 2016 đã quy định tập trung nhất về các
quyền cơ bản của trẻ em và trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc
12
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em như: Không được phân biệt đối xử đối với trẻ em
… Và tại Điều 6 Luật này lại quy định các hành vi bị nghiêm cấm: Không xâm hại
tình dục trẻ em…; Còn tại Chương II của Luật trẻ em đã dành 24 Điều (từ Điều 12
đến Điều 36) để quy định các quyền dành cho trẻ em như: quyền được khai sinh và
có quốc tịch .v.v. Còn tại Chương III và Chương IV của thì về trách nhiệm chăm
sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; thực hiện quyền của trẻ em; các hành vi bị nghiêm
cấm; trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.v.v..
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong Luật này, trẻ em được sự
bảo hộ pháp lý đặc biệt. Điều 2 Luật này quy định Nhà nước và xã hội không thừa
nhận sự phân biệt đối xử giữa các con; Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm
BVTE. Điều 68 và 69 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Các Điều
75; 76; 77 Luật này ghi nhận về quyền có tài sản riêng, việc quản lý tài sản riêng và
định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên. Tại Điều 90 quy định về quyền
nhận cha, mẹ của con.
Qua những quy định trên, ta thấy trong chính sách pháp luật nước ta, quyền
của trẻ em luôn được đề cao, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Xuất phát từ truyền
thống, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, với bản chất ưu việt của Nhà nước
XHCN, hệ thống pháp luật nước ta đã quy định một cách thống nhất và đồng bộ về
quyền của trẻ em, cũng như quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ
chức và mọi công dân bảo đảm cho các quyền của trẻ em được thực hiện trên thực
tế, hợp với những chuẩn mực giá trị nhân văn của nhân loại.
1.2.3. Cơ sở thực tiễn
Vì trẻ em là con người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể chất cũng như
tâm sinh lý, nên khi trẻ bị XPNP sẽ dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng tác
động trực tiếp đến tâm sinh lý của trẻ em khiến trẻ em dễ bị mặc cảm, phát triển
không bình thường, khó hoà nhập với xã hội, tổn thương về sức khoẻ thể chất, và
gây ra những tổn thương nặng nề về tinh thần ... nhất là đối với trẻ em nữ bị xâm
13
hại tình dục có thể làm nạn nhân có thai khi chưa phát triển đầy đủ thể trạng và
chưa có sự hiểu biết về sức khỏe sinh sản dẫn đến việc phải nạo phá thai ngoài ý
muốn hoặc sinh ra những em bé phát triển không bình thường. Những trường hợp
XPNPTE đi kèm với bạo lực có thể dẫn tới tử vong.
Theo số liệu thống kê, dân số Việt Nam tính đến hết năm 2018 có 96.963.958
người, trong đó trẻ em dưới 16 tuổi khoảng 34,23 triệu người, chiếm 33,2% dân số
[48]. Ý thức được tầm quan trọng của công tác BVTE, Chính phủ đã tích cực đề ra
nhiều giải pháp để hạn chế sự lạm phát trong các loại tội phạm có đương sự là trẻ
em nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng. Nhưng do tình hình tội phạm
XPNPTE có xu hương ngày diễn biến phức tạp do sự phát triển của khoa học công
nghệ, điện tử tin học giúp cho tội phạm dễ dàng trong việc đưa ra những vỏ bọc
ngụy trang, che dấu tinh vi các thủ đoạn phạm tội và phương thức tiếp cận để lôi
kéo, dụ dỗ trẻ em thậm chí sau khi tội phạm XPNPTE đã có những hành vi dùng
mạng xã hội (Internet) để không chế các em. Do vậy đòi hỏi công tác nghiên cứu
lập pháp nhất là trong lĩnh vực hình sự cần phải đượcr sửa đổi, bổ sung, thay thế kịp
thì mới có thể góp phần nhanh chóng xử lý và có chế tài đủ mạnh đối với tội phạm
XPNPTE.
1.2.4. Hội nhập quốc tế
Từ năm 1986 đến nay nước ta đã tích cực mở rộng mối quan hệ với nhiều
quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Trung Quốc …, không còn bó hẹp trong phạm
vi các nước XHCN. Đặc biệt là việc sau khi Việt Nam ký kết CUQTVQTE, Chính
Phủ Việt Nam đã nhanh chóng đưa quyền trẻ em vào hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà CUQTVQTE và luật pháp quốc tế liên
quan đến quyền trẻ em tuy đã được quy định trong Luật trẻ em 2016 và một số Luật
khác của Việt Nam nhưng chỉ mang tính nguyên tắc, chưa được thể hiện một cách
cụ thể và thiếu các quy định về biện pháp thúc đẩy thực hiện, dẫn đến có nhiều cách
hiểu khác nhau và rất khó thống nhất trong việc thể chế hóa trong các văn bản
hướng dẫn thực hiện luật. Một số vấn đề quan trọng liên quan đến thực hiện quyền
14
được bảo vệ, quyền tham gia của trẻ em mới được cộng đồng quốc tế đề cập đến
trong thời gian từ 2008 đến nay và đang được thực hiện ở Việt Nam chưa được đề
cập đầy đủ.
Pháp luật về các tội phạm XPNPTE là phương tiện để thực hiện sự cam kết và
hòa nhập giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo đảm việc bảo vệ quyền
trẻ em ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Trong điều kiện hiện nay, nhiều nội
dung cụ thể của quyền trẻ em cũng như việc bảo vệ quyền trẻ em đòi hỏi phải có sự
đấu tranh, hợp tác giải quyết, phối hợp của nhiều quốc gia hoặc cộng đồng quốc tế.
Những nội dung này đều là những vấn đề đòi hỏi cần có sự hợp tác, phối hợp của
các quốc gia với nhau trong cộng đồng thế giới.
1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1.3.1. Khách thể của tội phạm:
Tội phạm XPNPTE xâm hại trực tiếp đến quyền bất khả XPNP, danh dự,
quyền tự do, quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, quyền được phát triển và
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của trẻ em được pháp luật bảo hộ; gây ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phát triển bình thường về thể chất, tâm, sinh lý, thậm chí gây ra hậu
quả là những di chứng nguy hại cho quá trình phát triển tiếp theo của các em; đi
ngược lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc, giáo
dục và bảo vệ trẻ em; gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với tình hình
TTATXH. Khách thể trực tiếp của mỗi một tội phạm XPNPTE cụ thể được xác định
căn cứ vào quyền, lợi ích cụ thể bị hành vi phạm tội đó xâm hại. Như hành vi hiếp
dâm người dưới 16 tuổi xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người
dưới 16 tuổi (trẻ em).
Đối tượng của tội phạm (bị hại) là người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, tuỳ theo tội
phạm cụ thể mà độ tuổi bị hại có khác nhau: đối tượng của tội hiếp dâm, tội dâm ô,
tôi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiếu dâm là người dưới 16 tuổi; đối
tượng của tội cưỡng dâm, tội giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục, tôi mua dâm
là người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi…
15
- Xem thêm -