Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các dòng tu kỵ sĩ trong phong trào viễn chinh thập tự ở tây âu thời kỳ trung đại...

Tài liệu Các dòng tu kỵ sĩ trong phong trào viễn chinh thập tự ở tây âu thời kỳ trung đại

.PDF
137
5
110

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LỊCH SỬ  CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG NĂM 2012 Tên công trình: CÁC DÒNG TU KỴ SĨ TRONG PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ Ở TÂY ÂU THỜI KỲ TRUNG ĐẠI. Sinh viên thực hiện: Chủ nhiệm: Nguyễn Phạm Đông Đức, Lớp K35, Khóa 2009 – 2013. Thành viên: Nguyễn Thị Hương, Lớp K35, Khóa 2009 – 2013. Người hướng dẫn: GV Trần Tịnh Đức, Phòng Đào Tạo, ĐHKHXH&NV. TP.Hoà Chí Minh Thaùng 2 - 2012 MỤC LỤC TÓM TẮT ........................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 2 CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ VÀ CÁC NHU CẦU CHO SỰ RA ĐỜI CÁC DÒNG TU KỴ SĨ ........................................................ 8 1.1 Phong trào viễn chinh Thập tự - Bối cảnh ra đời của các dòng tu kỵ sĩ . 8 1.2. Những nhu cầu từ phong trào viễn chinh Thập tự làm tiền đề cho sự ra đời những Dòng tu kỵ sỹ. .............................................................................. 17 CHƯƠNG 2: CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BA DÒNG KỴ SĨ TÔN GIÁO ............................................................................................ 20 2.1. Khái niệm chung về tầng lớp kị sĩ. ........................................................ 20 2.2 Tầng lớp kỵ sĩ tôn giáo ............................................................................ 25 2.3 Cơ cấu, tổ chức, hoạt động của các dòng tu kỵ sĩ .................................. 31 CHƯƠNG 3: VAI TRÒ BA DÒNG TU KỴ SĨ TRONG PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN SAU NÀY. ........................ 79 3.1. Vai trò về kinh tế. ................................................................................... 79 3.2. Vai trò về quân sự. ................................................................................. 83 3.3 Vai trò văn hóa-xã hội............................................................................. 90 3.4 Vai trò quản lý các Dòng tu khác ........................................................... 94 CHƯƠNG 4: CÁC DÒNG TU KỴ SĨ TỪ SAU PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ ĐẾN NGÀY NAY ............................................................. 95 4.1 Hoạt động của các dòng tu ..................................................................... 96 4.2 Vai trò .................................................................................................... 117 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 121 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 123 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 126 1 TÓM TẮT CÁC DÒNG TU KỴ SĨ TRONG PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ Ở TÂY ÂU THỜI KỲ TRUNG ĐẠI.  Tóm tắt nội dung đề tài: Ba Dòng kỵ sĩ tôn giáo Templar, Hospitaller và dòng Teuton ra đời trong thời kỳ đỉnh cao của phong trào viễn chinh Thập tự. Những Dòng tu này là những lực lượng tôn giáo hùng mạnh nhất thời trung cổ ở Châu Âu. Hoạt động của ba dòng này đạt đỉnh cao trong thời kỳ viễn chinh Thập tự và suy yếu dần sau khi phong trào viễn chinh Thập tự kết thúc, có Dòng phải giải tán, có Dòng phải chuyển căn cứ, có Dòng phải phục vụ cho mục đích khác. Với cơ cấu tổ chức vô cùng chặt chẽ như các đạo quân viễn chinh, các Dòng tu này có những đóng góp rất lớn trong phong trào viễn chinh Thập tự và kể cả các thời kỳ lịch sử sau và tận cho tới nay với các mặt về kinh tế, quân sự và văn hóa – xã hội. 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Nhiều người cho rằng, sự đột phá tiến bộ của nền văn minh phương Tây thời Trung cổ là có sự đóng góp của to lớn của Cơ Đốc giáo. Đây là thời kỳ của phương thức sản xuất phong kiến với nền văn minh nông nghiệp phát triển. Xã hội phân chia thành hai giai cấp chính là địa chủ và nông nô. Trong khi đó, đạo Cơ Đốc thống trị trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Sự xung đột về tôn giáo là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh trong thời kỳ này ở Châu Âu. Có thể nói, đây là một thời kỳ xáo trộn về chính trị và các cuộc xung đột về tôn giáo giữa những cuộc tấn công của đoàn quân Công giáo đến từ Châu Âu với những người Hồi giáo. Mâu thuẫn gay gắt giữa Cơ Đốc giáo với Hồi giáo và Do Thái giáo là nguyên nhân dẫn đến các cuộc Thập tự chinh đẫm máu và tàn khốc. Bản thân Cơ Đốc giáo cũng bị phân hóa thành hai giáo phái là Chính Thống giáo (Đông La mã) và Công giáo (Tây La mã). Cơ Đốc giáo trở thành trụ cột của Đế quốc La Mã, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội, thậm chí là công cụ thống trị xã hội. Từ sự ảnh hưởng này mà xã hội Tây Âu xuất hiện thêm một tầng lớp mới đó là các kị sĩ tôn giáo. Họ là những người bảo vệ Giáo Hội và nhân dân đồng thời bảo vệ sự an toàn cho chính bản thân họ. Họ có một địa vị đặc biệt đến nỗi không bị bất cứ quyền lực nào chi phối, miễn là họ tránh phạm vào các tội. Với những xuất phát điểm trên đây, đề tài nhằm hướng đến một cái nhìn khách quan, đúng đắn vai trò lịch sử của ba Dòng Kị sĩ tôn giáo Tây Âu thời Trung Cổ. Từ đó bước đầu rút ra một số vấn đề có tính cơ bản và cấp bách trong việc cung cấp thêm thông tin để hiểu biết hơn về lịch sử Tây Âu dưới tác động của tôn giáo cụ thể là các Dòng Tu Kị sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về ba Dòng Kỵ sĩ ở Châu Âu. Trong giáo trình “Lịch sử thế giới Trung Đại” của các tác giả 3 Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La ở trang 51 đến trang 52 có nhắc đến rất khái quát về ba Dòng này. Trên các trang web Wikipedia Tiếng Việt thì có nhắc đến ba Dòng này tương đối chi tiết nhưng còn rất lộn xộn. Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu về ba Dòng tu kỵ sĩ này như: 1. Malcolm Barber (2005), Die Templer, Geschichte und Mythos (Dòng Đền, Lịch sử và huyền thoại), Winkler, Düsseldorf. 2. Manfred Barthel(2006), Die Templer, Reichtum, Macht und Fall eines Ritterordens (Dòng Đền, giàu có, quyền lực và suy sụp của một dòng tu hiệp sĩ),Casimir Katz Verlag, Gernsbach. 3. Alain Demurger (2003), Die Ritter des Herrn, Geschichte der geistlichen Ritterorden (Hiệp sĩ của Chúa, Lịch sử của các dòng tu hiệp sĩ), Beck, München. 4. Alain Demurger (2005), Der letzte Templer, Leben und Sterben des Großmeisters Jaques de Molay (Hiệp sĩ dòng Đền cuối cùng, Cuộc đời và cái chết của đại giáo chủ Jaques de Molay), Beck, München. Và nhiều công trình khác chủ yếu là của các nhà nghiên cứu Anh và Đức. Ngay cả trong các trường phổ thông học sinh cũng được học về các hiệp sĩ của các Dòng tu này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài: Với mục đích là cung cấp tư liệu về lịch sử thế giới Tây Âu thời Trung Đại trên khía cạnh tôn giáo (vì đây là đề tài mới tại Việt Nam mà tư liệu thì lại rất hiếm hoi), đề tài có nhiệm vụ là làm rõ được sự ra đời, phát triển và cơ cấu tổ chức của ba Dòng Kị sĩ trong việc phân tích những sự kiện lịch sử qua các cuộc Thánh chiến trong bối cảnh của sự chuyển biến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội trong thời Trung Cổ. Trong đó chú ý phân tích đâu là bản chất thuần túy của các cuộc Thánh chiến, đâu là sự lợi dụng của các thế lực chính trị phong kiến. Từ đó khẳng định đóng góp của các Dòng tu Kị sĩ trong thời đại phong kiến ở Tây 4 Âu. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ bản chất của các thế lực phong kiến lợi dụng tôn giáo để đàn áp nhân dân, phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Tây Âu thế kỷ IX đến thế kỷ XV đã tác động đến những quy định của Giáo Hội Công giáo trong dòng chảy tất yếu của lịch sử loài người. Từ đó xem xét Công giáo với tư cách là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, một yếu tố trong kiến trúc Thượng tầng có vai trò gì trong quá trình phát triển xã hội được thể hiện cụ thể trên vùng đất Tây Âu trong thời kỳ phong kiến. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: Để làm rõ mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, đề tài phải dựa vào thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Duy Vật biện chứng và chủ nghĩa Duy Vật lịch sử, nhằm xác định bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành và hoạt động của ba Dòng Kị sĩ tôn giáo. Từ đó phân tích sự biến đổi của xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Từ phương pháp luận này, sẽ là cơ sở để vận dụng có hiệu quả những phương pháp đặc thù chuyên biệt. Đề tài có quan hệ mật thiết và là bộ phận cấu thành của Cơ Đốc giáo, có liên quan nhiều mặt đến con người và xã hội trong nhiều lĩnh vực như quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, nên việc thực hiện đề tài còn sử dụng phương pháp triết học nhằm làm sáng tỏ sự phụ thuộc của Cơ Đốc giáo vào đời sống xã hội, quy luật tồn tại, bản chất cũng như chức năng xã hội của nó. Ngoài việc khai thác sử dụng tài liệu và công trình nghiên cứu đã có cũng như hệ thống mạng thông tin điện tử, đề tài còn sử dụng nhiều phương pháp truyền thống như phương pháp so sánh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử - logic và phương pháp xử lý thông tin… 5. Giới hạn của đề tài: Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời, tổ chức, hoạt động và vai trò của ba dòng kị sĩ Tây Âu : dòng kị sĩ Templar, dòng kị sĩ Teuton, dòng kị sĩ Hospitaller. 5 Phạm vi nghiên cứu: Không gian: Tây Âu (Pháp, Đức, Tây Ban Nha), Ý, vùng Địa Trung Hải (các đảo Cyprus, Manta, Rhodes), Trung Đông (quan trọng nhất là ở Arce, Jerusalem), Bắc Phi (Ai Cập, Tuynidi) và Đông Âu. Thời gian: chủ yếu trong khoảng thời gian diễn ra các cuộc Thập tự chinh thời trung đại, suốt thời kì cận đại và mở rộng cho đến ngày nay. 6. Đóng góp mới của đề tài: Từ việc nghiên cứu các tổ chức tôn giáo là các Dòng kỵ sĩ Tây Âu kèm theo đó là các cuộc Thánh chiến, đề tài nhằm đem đến cho độc giả một cái nhìn mới về Châu Âu (trung tâm của Thế giới) thời Trung đại đặc biệt là từ góc nhìn Kitô giáo. 7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn: Đề tài “Các Dòng Kị sĩ trong phong trào viễn chinh Thập tự ở Tây Âu thời Trung Đại” đối với thế giới mà nói thì đây không phải là đề tài quá mới mẻ, nhưng đối với nước ta thì đây là đề tài còn rất xa lạ. Việc chọn đề tài với mong muốn góp phần vào việc làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn. Thấy được cái tinh thần chiến đấu hy sinh của các Dòng tu kỵ sĩ, thấy được những vai trò to lớn mà nhiều người không ngờ đến của các Dòng tu kỵ sĩ. Và từ đó có cái nhìn khác về các tầng lớp kỵ sĩ Châu Âu nói chung và ba Dòng tu này nói riêng, đồng thời có cái nhìn mới về Ki tô giáo cũng như về lịch sử Châu Âu. 8. Kết cấu đề tài CHƯƠNG 1 PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ VÀ CÁC NHU CẦU CHO SỰ RA ĐỜI CÁC DÒNG TU KỴ SĨ 1.1 Phong trào viễn chinh Thập tự - Bối cảnh ra đời của các dòng tu kỵ sĩ 1.2 Những nhu cầu từ phong trào viễn chinh Thập tự làm tiền đề cho sự ra đời những Dòng tu hiệp sỹ. 6 CHƯƠNG 2 CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BA DÒNG KỴ SĨ TÔN GIÁO 2.1. Khái niệm chung về tầng lớp kị sĩ. 2.1.1. Khái niệm, vai trò và những điều kiện của kị sĩ. 2.1.2. Các loại kị sĩ ở Châu Âu. 2.1.2.1. Theo tiêu chí về phong cách sống 2.1.2.2.Theo tiêu chí về xuất thân 2.1.2.3.Theo tiêu chí về đẳng cấp 2.1.2.4. Theo tiêu chí về khả năng kế thừa chức phong kị sĩ 2.2 Tầng lớp kỵ sĩ tôn giáo 2.3 Cơ cấu, tổ chức, hoạt động của các dòng tu kỵ sĩ 2.3.1 Dòng Templar 2.3.1.1 Sự ra đời của dòng Templar 2.3.1.2 Tổ chức của dòng Templar 2.3.1.3 Sự hoạt động của dòng Templar 2.3.2 Dòng Hospitaller. 2.3.2.1 Sự thành lập của dòng Hospitaller 2.3.2.2 Sự tổ chức của dòng Hospitaller 2.3.2.3 Sự hoạt động của dòng Hospitaller 2.3.3 Dòng Teuton 2.3.3.1 Sự thành lập của dòng Teuton 2.3.3.2 Tổ chức của dòng Teuton 2.3.3.3 Sự hoạt động của dòng Teuton 7 Chương 3 VAI TRÒ BA DÒNG TU KỴ SĨ TRONG PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN SAU NÀY. 3.1. Vai trò về kinh tế. 3.2. Vai trò về quân sự. 3.3. Vai trò văn hóa-xã hội. 3.4. Vai trò quản lý các Dòng tu khác Chương 4 CÁC DÒNG TU KỴ SĨ TỪ SAU PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ ĐẾN NGÀY NAY 4.1 Hoạt động của các dòng tu 4.1.1 Dòng Templar 4.1.2 Dòng Hospitaller 4.1.3 Dòng Teuton 4.2 Vai trò của các dòng tu Kết luận 8 CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO VIỄN CHINH THẬP TỰ VÀ CÁC NHU CẦU CHO SỰ RA ĐỜI CÁC DÒNG TU KỴ SĨ 1.1 Phong trào viễn chinh Thập tự - Bối cảnh ra đời của các dòng tu kỵ sĩ Các dòng tu kỵ sĩ ra đời trong giai đoạn đỉnh cao của phong trào viễn chinh Thập tự. Do đó các cuộc chiến tranh Thập tự là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các dòng tu kỵ sĩ. Thực tế lịch sử cho thấy, vào thời kỳ đỉnh cao của phong trào Thập tự chinh (ngay sau cuộc Thập tự chinh thứ nhất đến Thập tự chinh thứ tư), các tầng lớp hiệp sĩ tham gia đã hình thành một tầng lớp mới: tầng lớp quân đội – tôn giáo. Những phẩm chất như sự cống hiến, kỷ luật và kinh nghiệm tu hành được kết hợp vào các mục đích quân sự của các cuộc chiến tranh thập tự. Tầng lớp này cung cấp các đội bảo vệ vũ trang cho những đoàn hành hương đến đất Thánh, bảo vệ dân cư cũng như đóng góp quan trọng trong Giáo hội Thiên Chúa giáo và xã hội Châu Âu thời kỳ này. Sau khi phong trào viễn chinh thất bại, do không còn điều kiện phát triển và cũng do sự tha hoá trong cơ cấu tổ chức, các dòng tu này suy yếu dần và bị giải tán (Templar), bị thu hẹp ảnh hưởng và chuyển căn cứ (Hospitaller), rời tổng hành dinh và rời bỏ Giáo Hoàng (Teuton). Như vậy, sự tồn tại và phát triển của Dòng tu hiệp sĩ là phụ thuộc vào phong trào viễn chinh Thập tự. Phong trào này đã đưa ra những nhu cầu bức thiết cho các Giáo Hoàng, hoàng đế các công quốc Thập tự quân, buộc họ phải thành lập các Dòng tu này. Muốn biết những yêu cầu đó là gì trước hết phải nhìn lại lịch sử của các cuộc thập tự chinh. Nguyên nhân của phong trào viễn chinh Thập tự: Khoảng thế kỷ thứ VII, những người đứng đầu đạo Hồi tiến hành các cuộc trường chinh xâm chiếm các vùng đất mới. Từ năm 660 đến năm 710, các giáo sĩ Hồi giáo đã chiếm được một lãnh thổ rộng lớn ở Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ. Đến năm 720, kỵ binh Hồi giáo chiếm Tây Ban Nha rồi thọc sâu vào đến tận lãnh thổ Pháp; từ năm 830 đến năm 976 Sicilia và miền Nam Ý rơi vào tay người Hồi giáo. Lúc 9 này, những đoàn hành hương của tín đồ Ki tô giáo về các miền Đất Thánh mà trong đó Palestine là nơi thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ IV và đến thế kỷ XI đã trở nên rất thịnh hành. Người Thổ Seliuk Hồi giáo không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng Ki tô giáo. Cũng sang thế kỷ XI, Đế quốc Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở Châu Âu. Lúc này, nguy cơ người Hồi giáo tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người Kitô giáo đặc biệt là sau khi quân đội Seliuk đánh bại quân Byzantine trong trận Manzikert năm 1071 và bắt được cả Hoàng đế Romanus IV thì con đường tiến về Constantinople đã được khai thông. Suleyman, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ và các chiến binh của ông thậm chí còn định cư ngay tại Niacea, chỉ cách Constantinople vài dặm. Để giành lại các vùng đất đã mất ở Tiểu Á, Hoàng đế Byzantine kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu gọi sự giúp đỡ từ Giáo Hoàng và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa Chính thống giáo Đông phương và Công giáo La mã xảy ra năm 1054. Ngày 27 tháng 11 năm 1095 tại Hội nghị giám mục, Giáo Hoàng Urban II (tại vị 1088-1099) kêu gọi các hiệp sĩ, hoàng tử phương Tây và tín đồ Kitô giáo đến giúp đỡ tín hữu Kitô giáo Đông phương đồng thời giành lại những vùng Đất Thánh đã mất. Mặc dù những cuộc Thánh chiến mang đậm màu sắc tôn giáo, nhưng giới sử học cho rằng bên trong nó còn có các động cơ kinh tế, chính trị, xã hội. Tôn giáo: việc Thánh chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người Kitô giáo được hậu thuẫn bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo Hội đang diễn ra. Trước khi Giáo Hoàng Urban II phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Công cuộc cải cách của Giáo Hội đã dẫn đến một thay đổi quan trọng: chính nghĩa là không chỉ là chịu đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa chúng. Các đạo quân Thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo Hội đang cải tổ mạnh mẽ. 10 Kinh tế, chính trị: những cuộc Thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số Châu Âu phát triển mạnh mẽ và các học giả cho rằng trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như cuộc tấn công của người Đức vào phương Đông cũng như cuộc xâm chiếm của người Tây Ban Nha. Những cuộc Thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở rộng sự bành trướng của phương Tây với các quốc gia Địa Trung Hải. Tuy nhiên Thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người Đức và người Tây Ban Nha ở chỗ nó chủ yếu giành cho tầng lớp hiệp sĩ và nông dân du cư ở Palestine. Xã hội: tầng lớp hiệp sĩ đặc biệt nhạy cảm với sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số Châu Âu trong giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành chiến tranh và trong bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, những cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy ra. Giáo Hoàng Urban II đã nói với các hiệp sỹ của nước Pháp như sau: Đất đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau. Như vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên góc độ nào đó các cuộc Thập tự chinh là phương tiện bạo lực nhằm rút bạo lực ra khỏi đời sống thời Trung cổ cũng như đem lại lợi ích kép như lời Thánh Bernard thành Clairvaux đã nói: Sự ra đi của họ làm cho dân chúng hạnh phúc, và sự đến của họ làm phấn khởi những người đang thúc giục họ giúp đỡ. Họ giúp cả hai nhóm, không những bảo vệ nhóm này mà còn không áp bức nhóm kia. Diễn biến của phong trào viễn chinh Thập tự:  Thập tự chinh thứ nhất (1095 - 1099) Tháng 9 năm 1095, Giáo Hoàng Urban II đã có một bài thuyết giảng tại Clermonte, miền Nam nước Pháp kêu gọi giới quý tộc đảm nhiệm cuộc viễn chinh vào Đất Thánh. Lời kêu gọi này đã gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội phương Tây và dẫn đến một cuộc Thập tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của nông dân và người nghèo ở miền Bắc Pháp và châu thổ sông 11 Hrine cùng với một số hiệp sĩ và tu sĩ vào tháng 2 năm 1096, được lãnh đạo bởi một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là Piere l'Ermite. Đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức tốt này tấn công người Do Thái, từ Cologne (Đức) vượt qua Bulgaria, Hungari rồi kéo đến Contantinople. Sau khi được Hoàng đế Alexios I của Byzantine đưa qua eo Bosphorus, họ nhanh chóng bị quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đánh tan. Ngay sau đó, một đội quân thực sự được tổ chức tốt do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường tiến hành cuộc Thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Những chỉ huy gồm có: Robert xứ Normandy (con trai của Willism Conqueror); Godfrey xứ Bouillon cùng hai anh trai là Baldwin xứ Boulogne, Robert xứ Flanders; Raymon xứ Toulouse; Bohemund, Tancred ở miền Nam nước Ý... Họ dẫn đầu 4 đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến Constantinople năm 1096 và 1097 để từ đó tấn công nhà Seljuk ở Rum. Cuối tháng 4 năm 1097, đội quân Thập tự chinh tiến vào lãnh thổ của người Seljuk và giành được thắng lợi đầu tiên trong trận Dorylaeum ngày 1/7/1097. Chiến thắng có tính chất bước ngoặt của Thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng Antioch và đã giành được thắng lợi sau cuộc vây hãm kéo dài 8 tháng, mở thông đường tiến về Jerusalem. Ngày 7/6/1099, Thập tự quân tới Jerusalem và bắt đầu vây hãm thành phố. Ngày 15/7/1099, Thập tự quân đột kích chiếm Jerusalem và tàn sát các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo. Trong khi đoàn quân chủ yếu tiến đến Antioch và Jerusalem thì Baldwin xứ Boulogne tách đội quân của mình ra để chiếm nơi ông thiết lập Công quốc Thập tự quân đầu tiên ở phương Đông. Sau đó với sự giúp đỡ của hạm đội của Venice và Genoa, Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ Đông Địa Trung Hải và thiết lập bá quốc Tripoli và 1 số tiểu quốc khác. Kết quả của Thập tự chinh thứ nhất là đã lập ra một loạt những Công quốc Thập tự quân: Adessa, Antioch, Tripoli... và đặc biệt là Jerusalem trải rộng trên khắp vùng Cận Đông. 12  Thập tự chinh thứ hai (1147 - 1149) Năm 1144, việc quân Hồi giáo tái chiếm Edessa và uy hiếp Jerusalem đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ hai do Thánh Bernard thành Clairvaux tích cực phát động. Đoàn Thập tự chinh gồm hai đội quân, một do vua Louis VII của Pháp, một do vua Konrad III (Hohenstaufen) của Đức chỉ huy lên đường chiếm Damascus (Syria) để tạo tiền đồn phòng thủ tốt hơn cho Jerusalem. Cuộc đột chiếm Damascus thất bại, thành phố này rơi vào tay vua Nur ad-Din, vị tiểu vương Hồi giáo đã dẫn quân đến cứu viện theo đề nghị của Damascus. Đội quân Thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào ngoại trừ việc Thập tự quân Bắc Âu dừng lại ở Lisboa và cùng với người Bồ Đào Nha chiếm lại thành phố này từ người Hồi giáo.  Thập tự chinh thứ ba (1189 – 1192) Cuộc Thập Tự chinh lần thứ ba (1190-1192) còn được gọi là cuộc Thập tự chinh của các vua chúa, là nỗ lực của người Châu Âu nhằm chiếm lại Đất Thánh vốn đã rơi vào tay quân Hồi giáo của Saladin (Salāh ad-Dīn Yūsuf ibn Ayyūb). Sau khi cuộc Thập tự chinh thứ hai thất bại, vương triều Zengid của người Thổ kiểm soát lãnh thổ Syria và xung đột với triều đại Fatimid tại Ai Cập, với kết cục là lực lượng Ai Cập và Syria thống nhất dưới tay Saladin, được dùng để chinh phạt các tiểu quốc Thiên Chúa giáo trong vùng và tái chiếm Jerusalem năm 1187. Với lòng nhiệt thành tôn giáo, Henry II của Anh và Philip II của Pháp chấm dứt tranh chấp, và lãnh đạo một cuộc Thập tự chinh mới (dù Henry chết năm 1189, nhưng con trai ông là Richard I Sư tử tâm nắm quyền lãnh đạo cánh quân Anh tiếp tục cuộc viễn chinh). Hoàng đế Đức Quốc La Mã Thần thánh Fredrick Barbarossa lúc này đã già cả, nhưng vẫn hưởng ứng lời kêu gọi Thánh chiến, đưa một cánh quân lớn vượt qua Anatolia, nhưng không may bị chết đuối trước khi quân của ông tới được Đất thánh. Rất nhiều chiến sỹ của ông nản chí và trở về nhà. Sau khi giành được một số thắng lợi ban đầu, các thủ lĩnh quân Thiên Chúa giáo bắt đầu tranh giành chiến lợi phẩm với nhau. Bực dọc với Richard, người kế 13 nhiệm Hoàng đế Frederick là Leopold V của Áo và Philip rời bỏ Đất thánh vào tháng 8/ 1191. Ngày 2 tháng 9 /1192, Richard và Saladin thỏa thuận một hòa ước, theo đó Jerusalem tiếp tục nằm trong tay người Hồi giáo, nhưng khách hành hương Thiên Chúa giáo được quyền viếng thăm thành phố. Richard rời Đất Thánh ngày 9 tháng 10. Thất bại trong việc tái chiếm Jerusalem là nguyên nhân người Thiên Chúa giáo kêu gọi tổ chức cuộc Thập tự chinh thứ tư chỉ sáu năm sau. Bối cảnh Đối với Do Thái giáo và Ki-tô giáo thì Jerusalem là thánh địa duy nhất của họ. Đối với người Hồi giáo thì thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của nước Ả Rập Saudi). Thánh địa thứ hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca 250 dặm về phía bắc. Và Jerusalem là Thánh địa thứ ba của Hồi giáo vì tương truyền rằng Muhammat đã lên trời từ thành phố này. Quân Thập tự của Vatican chiếm Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và đau đớn cho thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo đã phải nuốt hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ hội phục thù. Cái nhân của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế giới, đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc người Kurd theo giáo phái Sunni. Ông được dân Ai Cập và Syria tôn lên làm quốc vương. Nhân vật Saladin trở nên một nhân vật huyền thoại trong nhiều tác phẩm văn chương của các nước Âu châu thời đó. Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem và nhiều phần đất khác của vương quốc Latine vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi giáo Ả-rập vui mừng vì Thánh địa thứ ba đã được tái chiếm và danh dự của Hồi giáo đã được phục hồi. Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatican và Giáo hội Công giáo càng thấm thía và ê chề bấy nhiêu. Do rút tỉa của những kinh nghiệm thất bại trước đây, lần này Vatican chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba ông vua đầy quyền lực tại Châu Âu là vua Pháp Philippe II Auguste, Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh Fredrick Barbarossa và đặc biệt là vua Anh Richard I– người được mệnh danh là “Richard 14 Sư tử tâm” (Richard The Lionhearted). Diễn biến Cuộc Thập tự chinh thứ ba có tới 3 vị đế vương của Âu Châu điều khiển nên các sử gia thường gọi cuộc Thập tự chinh này là “Cuộc Thập tự chinh của các vua” (The Crusade of the Kings). Vua Anh đích thân điều khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào năm 1191. Trong hai năm chinh chiến, Thập tự quân tái chiếm hầu hết lãnh thổ của Vương quốc Latine Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là Thánh địa Jerusalem thì lại không chiếm được. Quân Hồi chận đứng Thập tự quân của Richard I tại thành phố Acre ở phía bắc Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua Anh Richard Sư tử tâm ra lệnh chém đầu tập thể trên 3000 người Hồi giáo Ả-rập. Để trả đũa, Saladin hạ lệnh hành quyết các tù binh Thiên Chúa giáo rơi vào tay mình. Tuy nhiên, trong cuộc Thập tự chinh này, quan trọng nhất là vua Richard của Anh đã chiếm được đảo Cyprus. Đây chính là nơi mà dòng Templar sẽ lấy làm căn cứ khi mà căn cứ cũ ở Jerusalem bị mất cùng với căn cứ ở Acre. Hình 1. Bản đồ các địa danh ở Trung Đông liên quan tới cuộc Thập tự chinh lần 3 và các Dòng kị sĩ. 15  Thập tự chinh thứ tư (1202 – 1204) Cuộc Thập tự chinh thứ tư bắt đầu năm 1202 do Giáo Hoàng Innocent III phát động với mục tiêu chiếm Ai Cập để từ đó tấn công Jerusalem. Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy thập tự quân đã thỏa thuận với Venezia nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc hành quân sang Ai Cập, để đổi lại, người Venezia sẽ nhận một nửa đất chiếm được và Thập tự quân phải trả 85000 đồng mác bằng bạc. Sau đó, Venezia đề nghị đội quân Thập tự chinh đánh chiếm Zara, địch thủ thương nghiệp của Venezia, một thành phố cũng của người Kitô giáo. Bởi còn thiếu 34000 mác, Thập tự quân đã tấn công và đánh chiếm Zara vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người Venezia lại thuyết phục Thập tự quân tấn công Constantinople, thủ đô của Đế quốc Byzantine theo Chính thống giáo Đông phương. Thành phố vốn đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày 12/4 năm 1204. Mặc dù Giáo Hoàng Innocent III cố gắng ngăn chặn các đạo quân thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố. Sau đó người Venezia và Thập tự quân phân chia đế quốc Byzantine thành các công quốc và thống trị cho đến năm 1261. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà Thập tự quân không tiếp tục tiến về Đất thánh.  Thập tự chinh thứ năm (1217 – 1219) Thập tự chinh thứ năm do Giáo Hoàng Honorrius III tổ chức, Thập tự quân năm 1217 gồm các đạo quân do Leopold VI (công tước Áo) và Andras II của Hungary dẫn đầu, đến năm 1218, quân đội của Oliver thành Cologne và một đội quân hỗn hợp của vua Hà Lan Wilem I cũng tham gia. Mục tiêu của Thập tự quân lần này là tấn công Ai Cập. Năm1218, John thành Brienne, vua Jerusalem bị thay thế. Năm 1219, Thập tư quân công chiếm Damietta và Giáo Hoàng cử đại diện là Pelagius thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Người Hồi giáo đã đề nghị đổi quyền kiểm soát giữa Damietta và Jerusalem nhưng Pelagius từ chối. Năm 1219, Thập tự quân định tấn công Cairo nhưng không vượt qua được sông Nin đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui do hậu cần không đảm bảo. Trên đường rút lui, những 16 cuộc tấn công vào ban đêm của quân đội Hồi giáo đã gây nhiều thiệt hại cho Thập tự quân và Damietta bị tái chiếm.  Thập tự chinh thứ sáu (1228 – 1229) Đoàn quân do Hoàng đế Friedrick II (Đế quốc La Mã Thần thánh) đứng đầu tiến hành Thập tự chinh thứ sáu năm 1228 nhưng nhanh chóng quay trở về và Friedrick II đã bị Giáo Hoàng rút phép thông công. Sau đó Friedrick II quay sang đàm phán, năm 1229 ông đạt được với người Hồi giáo một hiệp ước hòa bình trong mười năm, khôi phục lại quyền kiểm soát Jerusalem, Nazareth và Bethlehem cùng với một hành lang từ Jerusalem ra biển cho những người Kitô giáo. Trước sự chống đối của các giáo trưởng ở Jerusalem, Friedrick II (Đế quốc La Mã Thần thánh) đã tự phong mình làm vua ở đây năm 1229. Năm 1244, Jerusalem thất thủ trước sự tấn công ồ ạt của lính đánh thuê Hồi giáo và người Kitô giáo chỉ trở lại kiểm soát được thành phố này vào năm 1917.  Thập tự chinh thứ bảy (1248 - 1254) Sau khi Jerusalem bị chiếm, vua Pháp Louis IX (Thánh Louis) đã chuẩn bị một cuộc Thập tự chinh vào năm 1247, mục tiêu lần này vẫn là Ai Cập. Mặc dù đội quân không được tổ chức tốt, năm 1248 ông vẫn chiếm được Damietta một cách dễ dàng và tiến quân về Cairo năm 1249. Tuy nhiên, Thập tự quân nhanh chóng bị quân Hồi giáo của Baybars I và Emir Fakr ed-Din đánh bại trong trận Mansoura ngày 8/2 năm 1250, Damietta lại rơi vào tay người Hồi giáo. Vua Louis IX của Pháp bị bắt làm tù binh và được thả sau khi đã trả tiền chuộc.  Thập tự chinh thứ tám (1270) Các sự kiện Jaffa và Antioch bị người Hồi giáo chiếm lại đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh do Vua Louis IX tiến hành. Cuộc viễn chinh lần này nhằm đến Tunis, Thập tự quân tấn công Tunisia nhưng ngày 25/8 năm 1270, Louis IX chết ở gần Tunis vì bệnh dịch hạch. Sau đó đội quân của Louis IX cùng với đoàn Thập tự quân do Hoàng tử Anh Edward tiếp tục tiến hành cuộc Thập tự chinh nhưng không 17 đạt kết quả nào. Cuộc tấn công Tunis ngừng lại còn Hoàng tử Edward dẫn quân tới Arce. Những hoạt động của đội quân do Hoàng tử Edward chỉ huy trong những năm 1271 - 1272 có tài liệu gọi là Thập tự chinh thứ chín, có tài liệu lại ghép vào cùng với Thập tự chinh thứ tám. Trong hai năm này, Hoàng tử Edward cũng không đạt được kết quả nào đáng kể cho đến khi ông đình chiến và quay trở về Anh để kế thừa ngôi báu sau cái chết của nhà vua Henry III. Đây cũng là cuộc viễn chinh cuối cùng trong thời Trung Cổ của người Kitô giáo tới miền Đất thánh. Năm 1289, Tripoli bị người Hồi giáo chiếm và tới năm 1291, khi Arce cũng rơi vào tay họ thì giai đoạn của các cuộc Thập tự chinh thời Trung Cổ kết thúc. Kết quả của phong trào: Trong tám cuộc Thập tự chinh nói trên chỉ có cuộc Thập tự chinh đầu tiên là giành được thắng lợi. Các cuộc Thập tự chinh đã lập được các quốc gia phong kiến của quân Thập tự như là Antioch, Tripoli, Edessa và Jerusalem. Nhưng các quốc gia này chỉ tồn tại được vài chục năm, sau đó các vương quốc này đều bị đế quốc Ottoman (đế quốc Hồi giáo mạnh nhất lúc bấy giờ) chinh phạt, năm 1244 Jerusalem bị người Hồi giáo chiếm đóng và từ nay trở đi vĩnh viễn thuộc về Hồi giáo. Năm 1291, căn cứ cuối cùng của Thập tự chinh là thành Acre bị thất thủ, cuộc Đông chinh của Thập tự quân đánh dấu chấm hết. Các cuộc Thập tự chinh đã hình thành nên ba dòng kỵ sĩ tôn giáo, nhưng khi phong trào Thập tự chinh kết thúc thì vai trò của ba dòng này tàn lụi dần hoặc đảm đương những vai trò khác. 1.2. Những nhu cầu từ phong trào viễn chinh Thập tự làm tiền đề cho sự ra đời những Dòng tu kỵ sỹ. Nhu cầu về quân sự: Qua cuộc viễn chinh lần thứ nhất quân Thập tự đã chiếm được Jerusalem và lập ra ba công quốc Edissa, Tripoli, Antitoch. Đây là những vùng đất do quân Thập tự kiểm soát. Tuy nhiên những vùng đất do người Hồi giáo và các lực lượng ngoại đạo vẫn còn rất lớn nên các công quốc này bị bao 18 vây hầu hết các mặt. Việc quân Thập tự chiếm Jerusalem đã làm cho người Hồi giáo mất đi một Thánh địa thiêng liêng của mình. Những người hành hương Hồi giáo không được viếng thăm đất Thánh nữa nên lòng căm thù của người dân (người Hồi giáo và người ngoại đạo) càng tăng, nhất là sau khi vua Richard I ra lệnh chém đầu tập thể 3000 người Hồi giáo ở Acre trong cuộc Thập tự chinh lần ba càng làm cho mâu thuẫn và thù hằn đối với Thập tự quân càng lớn. Sau khi chiếm Jerusalem và lập đế quốc La Tinh Jerusalem, số lượng người Châu Âu, người Thiên Chúa giáo hành hương đến đất Thánh càng tăng lên nhiều. Tuy nhiên, vì đường xa và khí hậu khắc nghiệt nên nhiều người trên đường đi bị bệnh và chết rất nhiều. Ngoài ra những toán quân Hồi giáo, ngoại đạo lại hay quấy rối cướp bóc những người hành hương khiến cho cuộc hành trình trở nên khó khăn. Điều đó khiến cho những công quốc của Thập tự quân càng bị cô lập với Châu Âu hơn. Hơn nữa trong các cuộc Thập tự chinh, do mâu thuẫn giữa các chỉ huy Thập tự chinh nên những cuộc tiến quân thường bị chậm lại. Một số đạo quân rút về nước không tham gia giải phóng đất Thánh nữa. Một số vua và lãnh chúa tham gia không vì lợi ích của Giáo Hoàng mà vì mục đích cá nhân. Khi giành được một số thắng lợi nhất định các vua và lãnh chúa lại tranh giành công lao với nhau. Trong lúc tranh giành một số chỉ huy thoả thuận với các chỉ huy của lực lượng Hồi giáo và các lực lượng ngoại đạo khác. Một số thì ra sức kích động những chỉ huy tối cao của Thập tự chinh mở các cuộc tiến công khác hoặc các cuộc chiến tranh không cần thiết giữa đế quốc Jerusalem với các quốc gia Hồi giáo khác. Điều này dẫn đến sự cần thiết phải có một đội quân đông đảo, tinh nhuệ, thống nhất dưới sự chỉ huy của Đức Giáo Hoàng mới đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ các quốc gia tôn giáo ở đây và cũng để mở các cuộc tiến công khác. Hay nói tóm lại Giáo Hội Thiên Chúa giáo nói chung và Đức Giáo Hoàng nói riêng cũng muốn có một đạo quân cho riêng mình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan