ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOAN QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
MÔN : TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài :
CÁC CÔNG CỤ PHỔ BIẾN LƯU THÔNG
TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIÊT NAM
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Trí Thọ
Nhóm SV thực hiện: Trịnh Trung Cương (27)
Vũ Hồng Chuyên (24)
Đỗ huy Diện (39)
Hà nội, 6-2009
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 1
Mục lục
Lời nói
đầu…………………………………………………………………..3
Chương I:các công cụ lưu thông trên thị trường tiền
tệ…………………4
1. Tín phiếu kho
bạc………………………………………………….....4
2. Kỳ phiếu thương
mại…………………………………………………7
3. Hợp đồng mua
lại…………………………………………………….12
Chương II: Các công cụ lưu thông trên thị trường
vốn…………………..15
I .Khái
niệm………………………………………………………………..
15
II.Các công cụ chủ yếu lưu thông tại Viện Nam hiện
nay…………...….15
1.
Trái
phiếu……………………………………………………...……
16
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 2
2. Cổ Phiếu…………….………………………….………..
……………22
3. Các khoản vay thế
chấp…………………………………………...…25
4. Các khoản vay thương mại và tiêu
dùng………………………..….28
Kết
luận………………………………………………………………
…...32
Lời nói đầu
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, nhu cầu
về vốn luôn là vấn đề quan trọng được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt
đầu vào một năm tài khóa mới. Đề cập đến vấn đề này để thấy rằng
việc hình thành một thị trường vốn cho phát triển kinh tế xã hội là vô
cùng quan trọng. Cho nên, việc tìm hiểu thị trường vốn hay thị
trường tài chính là gì và có vai trò to lớn như thế nào đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay là điều hết sức cần thiết, nhưng chúng ta
phải đặc biệt chú trọng các công cụ lưu thông trên thị trường
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 3
này.Việt Nam hiện nay là một quốc gia có thị trường mới phát triển,
các công cụ được du nhập vào trong nước,một số công cụ còn khá
mới mẻ nhưng với tốc độ phát triển hiện này thì các công cụ này đã
thể hiện được tầm quan trọng của nó trong việc cung cấp vốn cho
hoạt động sản xuất và tiêu dùng làm cho các dòng vốn được lưu
thông một cách hiệu quả nhất. Nhằm làm rõ vấn đề này, tiểu luận tập
trung phân tích Các công cụ tài chính chủ yếu lưu thông trên thị
trường Việt Nam.
CHƯƠNG I
Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ
ngắn hạn ( short-term debt securities) có thời gian luân chuyển vốn
không quá 1 năm. Vấn đề chủ yếu mà những người cho vay trên thị
trường tiền tệ quan tâm là an toàn và tính thanh khoản để có thể rút
vốn ngay khi cần. Do đó các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ
(các phương tiện giúp thị trường tài chính lưu chuyển vốn trong ngắn
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 4
hạn) có đặc điểm chung là kỳ hạn thanh toán ngắn, tính thanh khoản
cao và và độ rủi ro thấp. Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ
khá đa dạng như kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), khế ước giao
hàng, tín phiếu kho bạc, tín phiếu của các công ty tài chính, chứng
chỉ tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng,quỹ liên bang…, tuy nhiên
do khuôn khổ bài tiểu luận, chúng em chỉ trình bày về 3 loại công cụ
chủ yếu đó là : tín phiếu kho bạc (Treasury bills), kỳ phiếu thương
mại (thương phiếu-commercial paper) và hợp đồng mua lại
(Repurchase agreement – Repo)
1. Tín phiếu kho bạc (Treasury bills; T-bills)
a. Khái niệm
Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn do Bộ Tài chính
(Kho bạc) phát hành để tài trợ cho những khoản chi tiêu tức thời, các
thâm hụt ngắn hạn thường xuyên của chính phủ hoặc tài trợ các
khoản nợ đến hạn.
b. Kỳ hạn thanh toán
Tín phiếu kho bạc có kỳ hạn thanh toán khoảng 1 năm hoặc ngắn
hơn (thông thường có các kỳ hạn 3,6, 12 tháng).Tín phiếu kho bạc
được bán theo định kỳ hàng tuần (Regular weekly T-bills) thường
được phát hàn với thời hạn là 28 ngày ( tương đương 4 tuần hoặc 1
tháng), 91 ngày (tương đương 13 tuần hoặc 3 tháng), 182 ngày ( 26
tuần hoặc 6 tháng), 364 ngày (52 tuần hoặc 1 năm) thông qua các
cuộc đấu giá đơn giá được tổ chức hàng tuần.
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 5
c. Đặc điểm của tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc phát hành theo từng lô qua Ngân hàng Nhà
nước được thực hiện dưới hình thức đấu thầu (Ngân hàng nhà nước
đứng ra làm cơ quan tổ chức bán số tín phiếu ấy ra ngoài thông qua
thị trường mở dưới hình thức đấu thầu) .Ngân hàng Nhà nước là cơ
quan đại lý cho Bộ Tài chính trong việc phát hành, thanh toán tín
phiếu khi đến hạn, tổ chức và quản lý đấu thầu tín phiếu Kho
bạc.Việc tổ chức và giám sát thị trường thứ cấp (mua bán lại tín
phiếu sau khi đấu thầu) do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện
Tín phiếu Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông
qua đấu thầu có hình thức và đặc điểm như sau
Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Giống
như trái phiếu chiết khấu, đây là loại chứng khoán không được
nhà phát hành trả lãi trước khi đáo hạn (interest prior to
maturity) song lại được bán với giá chiết khấu tức là giá thấp
hơn mệnh giá (par value hay face value). Khi đáo hạn, nhà đầu
tư được nhận lại đủ mệnh giá vì vậy phần chênh lệch giữa
mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi
của nhà đầu tư (lợi tức tính đến ngày đáo hạn (Yield To
Maturity).
Lợi tức chiết khấu được tính theo công thức:
Lợi tức chiết khấu (%) = (Mệnh giá – Giá bán)/Giá bán *
(360/Số ngày đến khi đáo hạn)* 100%
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 6
Thu và thanh toán bằng đồng Việt Nam. Có mệnh giá tối thiểu
là 1.000.000 đồng (một triệu đồng ); các mệnh giá cụ thể cao
hơn do Liên Bộ Ngân hàng Nhà nước - Tài chính quy định và
công bố trong thông báo phát hành
Tín phiếu được phát hành dưới hình thức ghi sổ và chứng chỉ
tín phiếu.
- Đối với hình thức ghi sổ: Do Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và
quản lý sổ sách.
- Đối với hình thức chứng chỉ tín phiếu: Ngân hàng Nhà nước in
theo mẫu do Bộ Tài chính quy định.
Việc đấu thầu tín phiếu là đấu thầu lãi suất.- Tín phiếu Kho bạc
đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước được thực hiện theo những
nguyên tắc sau:
-Bí mật mọi thông tin đấu thầu trước khi công bố kết quả đấu
thầu.
- Tổ chức đấu thầu công khai , bình đẳng về mọi quyền lợi và
nghĩa vụ giữa các đơn vị đấu thầu
-Đơn vị trúng đấu thầu có quyền hạn và trách nhiệm mua tín
phiếu theo khối lượng và lãi suất trúng thầu được thông báo.
Các Đối tượng tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc bao gồm:
Các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam: Các Ngân hàng
thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 7
hàng đầu tư và phát triển; Ngân hàng liên doanh; chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài và các Công ty tài chính;
Các Công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư
Xác định khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc trúng thầu:
Việc xác định khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc trúng thầu
căn cứ vào:
-Khối lượng và lãi suất đặt thầu của các thành viên.
-Khối lượng tín phiếu Kho bạc dự kiến huy động và lãi suất chỉ
đạo.
-Khối lượng tín phiếu Kho bạc trúng thầu được tính theo thứ tự
tăng lên của lãi suất -đặt thầu trong phạm vi lãi suất chỉ đạo.
-Tại mức lãi suất đặt thầu cao nhất trong phạm vi lãi suất chỉ đạo
có khối lượng tín phiếu đặt thầu vượt quá khối lượng tín phiếu dự
kiến huy động thì khối lượng tín phiếu trúng thầu sẽ được phân
chia cho mỗi phiếu đặt thầu theo tỷ lệ thuận với khối lượng tín
phiếu đặt thầu của từng phiếu tại mức lãi xuất đó.
-Lãi xuất phát hành tín phiếu là lãi xuất trúng thầu cao nhất được
áp dụng chung cho tất cả các đối tượng trúng thầu.
Ngoài khối lượng tín phiếu Kho bạc được phát hành qua
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính còn được tiếp tục phát hành
một khối lượng nhất định tín phiếu Kho bạc để bán lẻ trực tiếp
cho dân chúng.
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 8
Các loại tín phiếu Kho bạc do hệ thống Kho bạc trực tiếp phát
hành phải có mẫu chứng chỉ khác với mẫu chứng chỉ tín phiếu
Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông qua đấu thầu.
Mức lãi suất tín phiếu Kho bạc bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà
nước do Bộ Tài chính quy định sau khi có sự thống nhất của Ngân
hàng Nhà nước và phù hợp với mặt bằng lãi suất thị trường.
Như vậy ta có thể thấy được tín phiếu kho bạc không chỉ để
bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước mà còn là một công cụ quan
trọng để ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ.
2 . Kỳ phiếu thương mại (Thương phiếu)
a. Khái niệm
Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất – kinh doanh
giữa các doanh nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và
thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất
yếu. Trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn lại là
nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua
bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều
có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thương mại.
Để đảm bảo người mua chịu trả nợ khi đúng hạn, bên cạnh sự tin
tưởng, người bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó
chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy
chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do con nợ lập
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 9
để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay
“thương phiếu”.
Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa
các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương
phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông
thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện
được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán
thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.
Vậy thương phiếu là những giấy nhận nợ ngắn hạn do các công
ty lớn phát hành để vay vốn ngắn hạn phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh
b. Phân loại
Thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:
Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu
người mua chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở
một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết
trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm
nhất định cho người thụ hưởng.
Như vậy, hối phiếu là lệnh đòi tiền do chủ nợ lập và chỉ sử dụng
trong quan hệ thương mại, còn lệnh phiếu thì do người mua chịu lập,
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 10
được sử dụng không chỉ trong quan hệ thương mại mà còn trong các
quan hệ dân sự khác.
c. Tính chất của thương phiếu
Thương phiếu có 3 tính chất:
tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên
nhân phát sinh khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền
phải trả, thời hạn trả tiền và người trả tiền.
tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho
người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì
hoãn việc trả tiền.
tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người
thụ hưởng sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có
thể chuyển hoá ra tiền khi mang đến ngân hàng xin chiết khấu
hoặc cầm cố. tính chất này khiến thương phiếu trở thành một
loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu
lực và mệnh giá thương phiếu.
d. Ích lợi và nhược điểm của thương phiếu
Những ích lợi của thương phiếu khi vận dụng vào thực tế:
Có thể kể ra một số lợi ích kinh tế chủ yếu của thương phiếu:
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 11
Thứ nhất, nhờ vào tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành
một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt
và góp phần ổn định tiền tệ,
Thứ hai, nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu,
bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ
được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp.
Thứ ba, thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân
hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản
đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể mang đi
tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục nguồn vốn
của mình.
Thứ tư, thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều
kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối
tiền trong lưu thông.
Thứ năm, trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ
bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để
thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân
hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay
của ngân hàng.
Và cuối cùng, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu,
sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của mình.
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 12
Tuy nhiên, thương phiếu khi vận dụng vào thực tế cũng có những
nhược điểm nhất định như:
Nhược điểm thứ nhất, do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn
đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu
khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để
mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã
làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không
thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở
đảm bảo.
Nhược điểm thứ hai, với những nhược điểm sẳn có của tín dụng
thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian
mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn
và thời gian quá lâu.
Nhược điểm thứ ba, quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh
giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với
nhau.
Tuy vậy, do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân
hàng nên những khiếm khuyết nêu trên của tín dụng thương mại và
của sự vận dụng thương phiếu sẽ giảm đến mức xem như không
đáng kể.
Những ích lợi kinh tế nêu trên khi đưa thương phiếu vào đời sống
kinh tế thì đã quá rõ, thế nhưng trong thời gian qua, thương phiếu và
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 13
các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu vẫn chưa đi vào đời sống
kinh tế ở Việt Nam vì những lý do chủ yếu như sau:
- Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu
hàng hoá, người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo
lãnh…) chưa thật sự có lòng tin đối với thương phiếu và khả năng
chuyển hoá ra tiền của thương phiếu khi đến hạn.
- Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ
thể về việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu, chưa
ban hành mẫu biểu cụ thể cho thương phiếu để nó có thể trở thành
một công cụ lưu thông tín dụng pháp định có thể thay thế cho tiền
mặt trong lưu thông
- Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính
khả thi vẫn còn kém.
Giải pháp
Những giải pháp để đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt
Nam trong thời gian trước mắt:
Giải pháp thứ nhất, nhanh chóng tạo dựng một hành lang pháp lý
cho sự tồn tại và cho việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến
thương phiếu được an toàn và thuận lợi. Mặc dù Quốc hội đã thông
qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và
Chính Phủ đã ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 14
hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên nhưng vẫn còn nhiều bất cập như
chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế…
Giải pháp thứ hai, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về
thương phiếu và ích lợi của thương phiếu đến các doanh nghiệp, là
những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương phiếu.
Giải pháp thứ ba, nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông
tin tín dụng (CIC) dể có thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực
chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán thương
phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.
Giải pháp thứ tư, trong thời gian đầu Nhà nước cần có những ưu
đãi hợp lý cho các doanh nghiệp cũng như các Tổ chức tín dụng có
tham gia vào quan hệ thương phiếu.
Và cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông
tư hướng dẫn để các ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các
nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu như bảo lãnh, chiết khấu và
cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh chóng
ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ
chuyển nhượng…
Trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản được đưa ra, tuy nhiên, nếu
thực hiện được, thì việc đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở
Việt Nam chắc chắn sẽ trở thành hiện thực
3. Hợp đồng mua lại
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 15
a.. Khái niệm
Hợp đồng mua lại (repurchase agreement hay repo hay Sale and
Repurchase Agreement) cho phép người đi vay sử dụng một số
chứng khoán tài chính như vật thế chấp cho 1 khoản vay tiền mặt
với 1 mức lãi suất nhất định. Trong một hợp đồng mua lại, người
đi vay thoả thuận sẽ bán cho người cho vay một số chứng khoán
và kèm theo điều khoản mua lại số chứng khoán trên sau 1
khoảng thời gian nhất định(thường không quá 2 tuần) tại một mức
giá cố định (cao hơn mức giá bán đi) . Một hợp đồng mua lại
tương đương với một sự chuyển giao tiền mặt cộng với 1 hợp
đồng kỳ hạn (forward contract).Kết quả của việc chuyển giao này
la việc tiền mặt được chuyển đến người đi vay và việc chuyển
chứng khoán hợp pháp đến người cho vay trong khi hợp đồng kỳ
hạn đảm bảo việc hoàn trả khoản vay tới người cho vay và trả lại
tái sản thế chấp cho người đi vay(là sốchứng khoán đã bán đi).
Điểm khác biệt giữa giá giao sau (forward price) và giá chi trả
ngay lập tức (spot price) là lãi suất của khoản vay, trong khi ngày
chi trả của hợp đồng kỳ hạn chính là ngày đáo hạn của khoản vay.
b. Cấu trúc và thuật ngữ
Về phương diện kinh tế, một hợp đồng mua lại tương tự như một
khoản vay được bảo đảm, với việc người mua nhận được một số
chứng khoán như vật thế chấp khi người đi vay không có khả
năng thanh toán khoản nợ. Trong hợp đồng mua lại hầu hết các
loại chứng khoán đều có thể dùng làm vật thế chấp chẳng hạn như
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 16
tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty, cổ
phiếu (là những khoản vay không có thế chấp).Tuy nhiên, quyền
sở hữu lại chuyển trực tiếp từ người bán đến người mua (nhà đầu
tư).Cu-pon (khoản tiền thanh toán định kỳ trả cho người chủ sở
hữu của chứng khoán) vẫn được trả trực tiếp cho người bán. Điều
này có lẽ ngược so với trực giác thông thường khi quyền sở hữu
chứng khoán thuộc về người mua trong suốt thời gian của thoả
thuận.Để thay cho việc cupon chuyển đến người bán thì 2 bên có
thể thoả thuận về khoản tiền thanh toán khi kết thuc hợp đồng khi
đó cupon có thể được chuyển đến người mua.
Mặc dù bản chất bên trong của việc chuyển giao chứng
khoán này chính là một khoản vay nhưng repo vẫn khác biệt so
với khoản vay thông thường bởi vì người bán sẽ thực sự mua lại
quyền sỡ hữu hợp pháp của số chứng khoán đó sau khi kết thúc
hợp đồng. Vì vậy mặc dù tác dụng của toàn bộ việc chuyển giao
này giống hệt như của 1 khoản vay tiền mặt thế nhưng điều được
chú trọng ở đây chính là việc chuyển quyền sở hữu hợp pháp hiện
thời của chứng khoán thế chấp bởi các bên tương ứng (thông qua
việc sử dụng thuật ngữ “mua lại”)
Phân biệt giữa hợp đồng mua lại (Repo) và hợp đồng mua lại
đảo ngược (Reverse repo)
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 17
Repo
Người
Người tham gia
Reverse repo
đi
Người
vay Người
cho
bán Người
vay
mua
Người nhận tiền
Người cung tiền
Giai đoạn đầu
Bán chứng khoán
Mua chứng khoán
Giai đoạn sau
Mua chứng khoán
Bán chứng khoán
(Trong hợp đồng mua lại đảo ngược, người cho vay sẽ đề nghị mua
một số chứng khoán với 1 mức giá cho trước và có thoả thuận bán
lại số chứng khoán đó với mức giá cao hơn )
c. Các loại hợp đồng mua lại
Có 3 loại thời gian đáo hạn của hợp đồng mua lại : qua đêm, theo
định kỳ và đáo hạn mở. Đáo hạn qua đêm có thời gian đáo hạn của
việc chuyển giao là 1 ngày. Đáo hạn theo định kỳ ứng với hợp đồng
mua lại có ngày đáo hạn nhất định được định sẵn . Đáo hạn mở
không có ngày kết thúc hợp đồng. Mặc dù hợp đồng đáo hạn thông
thường là trong ngắn hạn (thường không quá 2 tuần), nhưng cũng có
những hợp đồng đáo hạn với thời hạn khoảng 2 năm.
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 18
Việc giao dịch hợp đồng đáo hạn thường xảy ra dưới các dạng sau:
cung ứng trên danh nghĩa, hợp đồng đáo hạn qua đêm và hợp đồng
đáo hạn được uỷ thác trong đó loại thứ 3 khá ít thấy trong những thị
trường đang phát triển vì rủi ro cao. Các
+) 1 Hợp đồng mua lại được giám hộ (Due bills, held in custody
bills)
Trong hợp đồng mua lại được uỷ thác, vật thế chấp được cầm cố bởi
người mua không trực tiếp được chuyển giao tới người cho vay mà
được chuyển vào một tài khoản nội bộ (held in custody) bởi người đi
vay dành cho người cho vay trong suốt quá trình của hợp đồng. Tuy
nhiên khi thị trường càng phát triển thì hình thức này ngày càng ít trở
nên phổ biến
+) Hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 ( Tri-party Repo)
Đặc trưng của hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 đó
chính là có sự tham gia của 1 ngân hàng hoặc tổ chức quốc tế đóng
vai trò là người giám hộ, như một trung gian giữa 2 bên của hợp
đồng (bên bán và bên mua). Trách nhiệm của bên thứ 3 là quản lý
việc chuyển giao bao gồm việc phân phối tài sản thế chấp, đưa ra thị
trường và thay thế vật thế chấp.
+) Hợp đồng mua lại toàn bộ khoản vay
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 19
Hợp đồng mua lại toàn bộ khoản vay là loại hợp đồng mua lại mà sự
chuyển giao được thế chấp bằng 1 khoản vay hoặc 1 nghĩa vụ khác
(như văn tự cầm cố) hơn là dùng chứng khoán để thế chấp
+) Hợp đồng mua lại vốn
Chứng khoán được ưu tiên sử dụng trong việc thực hiện hợp đồng
mua lại hầu hết là ở dạng trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu công
ty (hoặc tín phiếu Kho bạc). Hợp đồng mua lại vốn là hợp đồng mua
lại dựa trên vật thế chấp là chứng khoán vốn như các cổ phiếu phổ
thông. Điều này có thể dẫn đến 1 số rắc rối do sự phức tạp trong các
điều khoản thuế đối với cổ tức cũng như đối với cupon.
Tín phiếu kho bạc, thương phiếu và hợp đồng mua lài là 3
công cụ lưu thông rất phổ biến trên thị trường tiền tệ . Nhờ các công
cụ này mà việc lưư chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu
vốn được thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn và có độ rủi ro thấp
cùng tính thanh khoản cao.
Chương II
Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn
Tiểu luận tài chính - tiền tệ
Page 20
- Xem thêm -