Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các biện pháp tự vệ trong tm- tt sd ở một số nước trên tg và vn...

Tài liệu Các biện pháp tự vệ trong tm- tt sd ở một số nước trên tg và vn

.PDF
109
201
66

Mô tả:

Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI : CÁC BIỆN PHÁP TỰ VỆ TRONG THƯƠNG MẠI- THỰC TIỄN SỬ DỤNG Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện Lớp : PGS.TS. HOÀNG NGỌC THIẾT : VŨ THỊ PHƯƠNG THẢO : PHÁP 1- K38E Hà Nội, 2003 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa kinh tế Ngoại Thương, Thầy chủ nhiệm khoa TS. Vũ Sỹ Tuấn đã tạo điều kiện cho em được học tập và nghiên cứu trong một môi trường khoa học thuận lợi. Em cũng xin cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bản Khoá luận tốt nghiệp này! Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Phương Thảo BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN. APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á. ASEM : Diễn đàn hợp tác Á-ÂU. CEPT : Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung khu vực EU : Liên minh Châu âu. GATS : Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATT : Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. MOFTEC : Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế (Trung Quốc ). METI : Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (Nhật). MOF : Bộ Tài Chính. TRIPS : Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của ASEAN quyền sở hữu trí tuệ. SETC : Uỷ ban Kinh tế và Thương mại nhà nước Trung Quốc . USITC : Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ. WTO : Tổ chức Thương mại thế giới. Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương MỤC LỤC Trang Lời nói đầu ....................................................................................................... 1 Chương 1: Khái quát chung về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế............................................................................................................... 4 1.1. Khái niệm, lịch sử phát triển và vai trò của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế............................................................................. 4 1.1.1. Khái niệm ............................................................................................ 4 1.1.2. Lịch sử phát triển của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.....12 1.1.2.1 Theo quy định của GATT 1947 ...................................................... 12 1.1.2.2 Theo quy định của WTO ............................................................... 14 1.1.3. Vai trò của các biện pháp tự vệ ........................................................ 15 1.2. Các biện pháp tự vệ theo hiệp định đa biên của WTO.......................... 17 1.2.1. Biện pháp thuế quan.......................................................................... 17 1.2.2. Biện pháp phi thuế quan.................................................................... 19 1.3. Nguyên tắc và thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ ............................. 22 1.3.1. Điều kiện để áp dụng các biện pháp tự vệ ....................................... 22 1.3.2. Nguyên tắc áp dụng........................................................................... 24 1.3.2.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử................................................. 24 1.3.2.2 Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ trong phạm vi và mức độ cần thiết ...........................................................................................................25 1.3.2.3 Nguyên tắc đảm bảo việc bồi thường tổn thất thương mại ............ 26 1.3.3. Thủ tục, thời hạn và một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng biện pháp tự vệ ....................................................................................... 27 1.3.3.1 Thủ tục điều tra .............................................................................. 27 a. Căn cứ tiến hành điều tra .......................................................................... 27 b. Thủ tục điều tra ........................................................................................ 28 1.3.3.2 Áp dụng các biện pháp tự vệ .......................................................... 30 1.3.3.3 Thời hạn áp dụng ........................................................................... 31 1.3.3.4 Đình chỉ, rà soát, gia hạn và tái áp dụng các biện pháp tự vệ ...... 32 Đình chỉ..................................................................................................... 32 Rà soát....................................................................................................... 33 Gia hạn ...................................................................................................... 33 Vấn đề tái áp dụng .................................................................................... 34 Chương 2: Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực trên thế giới ..................................................................................... 35 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương 2.1. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Mỹ .................... 35 2.1.1. Lịch sử ra đời của các biện pháp tự vệ ở Mỹ.................................... 35 2.1.2. Thủ tục điều tra và áp dụng các biện pháp tự vệ ............................. 37 2.1.3. Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ .................................................... 40 2.1.4. Thực tế một số trường hợp cụ thể về việc áp dụng các biện pháp tự vệ ở Mỹ ............................................................................................... 42 2.2. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở EU .................... 48 2.2.1. Sơ lược về Quy chế 3285/94/EC- Quy chế về các biện pháp tự vệ của EU..................................................................................................... 48 2.2.2. Thủ tục áp biện pháp tự vệ của EU................................................... 49 2.2.2.1 Thủ tục cung cấp thông tin và tham vấn ........................................ 49 2.2.2.2 Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ ................................. 50 2.2.3. Áp dụng và thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ ................................. 52 2.2.4. Thực tế một số trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ ở EU .............. 54 2.3. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Trung Quốc và Nhật bản............................................................................................... 57 2.3.1. Khái quát về chính sách tự vệ thương mại của Trung Quốc ........... 57 2.3.1.1 Điều kiện để tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ .............. 58 2.3.1.2 Điều tra để xác định sự tồn tại của thiệt hại .................................. 60 2.3.1.3 Áp dụng các biện pháp tự vệ .......................................................... 61 2.3.1.4 Thời hạn áp dụng và thủ tục rà soát các biện pháp tự vệ .............. 62 2.3.2. Khái quát về chính sách tự vệ của Nhật Bản .................................... 62 2.3.2.1 Theo Quy tắc về các biện pháp khẩn cấp ....................................... 62 2.3.2.2 Theo Sắc lệnh liên bộ về thuế quan nhập khẩu đặc biệt................. 65 2.3.3. Thực tế một số trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ ở Trung Quốc và Nhật .......................................................................................... 66 Chương 3: Thực tiễn về tự vệ thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ............................................................................................. 70 3.1. Thực trạng về tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua........ 70 3.1.1. Về chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ............................................................................... 70 3.1.1.1 Khái quát về chủ trương và sự cần thiết phải thực hiện chính sách tự vệ thương mại của Nhà nước Việt Nam .................................. 70 3.1.1.2 Thực tế tiến hành tự vệ thương mại của Việt Nam ........................ 72 3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng trên ...................................................... 74 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương 3.1.2.1 Nguyên nhân nhận thức .................................................................. 74 3.1.2.2 Nguyên nhân thực tiễn .................................................................... 75 3.1.3. Thực trạng pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam ................ 76 3.1.3.1 Sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật về tự vệ thương mại ........................................................................................................ 76 3.1.3.2 Một số vấn đề cơ bản của Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ..................................................... 77 3.1.3.3 Tác động của việc ban hành Pháp lệnh về tự vệ ............................ 79 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam .................................................................................................. 80 3.2.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tự vệ trong thương mại..................................................................................... 80 3.2.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam ............................................................................................... 80 3.2.1.2 Phương hướng triển khai và hoàn thiện công tác tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới....................................................... 82 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ........................... 83 3.2.2.1 Đối với Nhà nước............................................................................ 83 3.2.2.1.1 Hoàn thiện hệ thống luật pháp điều chỉnh thương mại đặc biệt là pháp luật về tự vệ thương mại ....................................................... 83 3.2.2.1.2 Nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp về công tác tự vệ thương mại ................................................................. 85 3.2.2.1.3 Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ thương mại ................................................................. 87 3.2.2.1.4 Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ thương mại ......................................................................................... 88 3.2.2.2 Đối với doanh nghiệp ..................................................................... 88 3.2.2.2.1 Tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong tự vệ thương mại ............................................................ 88 3.2.2.2.2 Chủ động tiếp cận và chuẩn bị đầy đủ kiến thức về tự vệ thương mại để sử dụng khi cần thiết tiến hành tự vệ ......................... 89 3.2.2.2.3 Khẩn trương tìm hiểu và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bằng chứng để tiến hành yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ và biện pháp trả đũa thương mại.............................................................................. 90 3.2.2.3 Một số kiến nghị khác ..................................................................... 91 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương Kết luận .......................................................................................................... 93 Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................... 95 LỜI NÓI ĐẦU Tổ chức thương mại thế giới - WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 sau kết quả của vòng đàm phán Uruguay. Mục đích khi thành lập tổ chức này là tạo một diễn đàn, là nơi để cho các Quốc gia đàm phán thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua việc dỡ bỏ các hàng rào làm trở ngại đến tiến trình này. Là một cơ chế quốc tế bao gồm các Hiệp định đa biên và nhiều bên về thương mại, tổ chức thương mại thế giới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các Quốc gia khác nhau có thể xâm nhập thị trường nước ngoài một cách tự do, bình đẳng và không bị hạn chế nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận một cách hợp pháp. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC, tham gia vào CEPT và khu vực mậu dịch tự do AFTA của khu vực Đông Nam Á và đang tích cực tiến hành đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc ký kết các Hiệp định thương mại song phương cũng như tham gia các Hiệp định thương mại đa phương đã mở ra những cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Thời gian vừa qua, trong tiến trình đổi mới, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn trong việc xây dựng và điều chỉnh chính sách pháp luật quốc gia cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Luật doanh nghiệp 1999, Luật đầu tư nước ngoài 1996 sửa đổi bổ sung năm 2000, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi năm 1998, Luật Hải quan năm 2001 lần lượt ra đời đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu của tiến trình cải cách hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế quốc tế nói riêng. Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, dần dần hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo độc lập tự chủ thì việc xây dựng một văn bản pháp lý có giá trị cao để điều chỉnh các nguyên tắc cơ bản khi tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tạo Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia tích cực vào hoạt động ngoại thương là cần thiết. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra cho nền kinh tế chuyển đổi và đang từng bước hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực như Việt Nam là nghiên cứu một cách nghiêm túc các quy định quốc tế, học tập kinh nghiệm của các nước đi trước để vận dụng vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mình. Thực tiễn thương mại của Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh nhu cầu áp dụng biện pháp tự vệ trong trường hợp cần thiết để hạn chế sự gia tăng đột biến của một loại sản phẩm cụ thể nào đó. Gần đây chúng ta đã kịp thời ban hành Pháp lệnh về đối xử Tối hụe quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế và Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 5 năm 2002 và chính thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 9 năm 2002. Sự ra đời của hai Pháp lệnh này, đặc biệt là Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam đã phần nào khắc phục được những thiếu sót của Pháp luật Việt Nam về thương mại quốc tế, tạo ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi và là bước chuyển linh hoạt cho việc Việt Nam đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Xuất phát từ thực tiễn thương mại về bảo hộ hàng hoá nói chung và tự vệ thương mại nói riêng ở Việt Nam, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này trên cơ sở đó có thể đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hộ tự vệ thương mại cũng như của pháp luật về tự vệ thương mại ở Việt Nam, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế- Thực tiễn sử dụng ở một số nước trên thế giới và Việt Nam” làm đề tài Khoá luận của mình. Công việc nghiên cứu bắt đầu từ việc tìm hiểu nội dung chế định về tự vệ thương mại theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới, tìm hiểu lý thuyết và thực tiễn áp dụng biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực điển hình trên thế giới qua đó sẽ làm rõ nội dung các quy định của pháp luật quốc tế cũng như các quy định của luật pháp Việt Nam về vấn đề này để từ đó đề xuất ra những giải pháp khắc phục, hoàn thiện Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương hơn nữa cũng như góp phần minh bạch hoá chính sách và các quy định pháp luật của Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã sử dụng phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp dựa trên sự vận dụng kết quả các công trình khoa học đã công bố, các văn bản pháp luật, các tài liệu tham khảo…vv. Tuy vậy, đây là một đề tài còn rất mới và chưa được nghiên cứu sâu, nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế nên bài khoá luận này không tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự phê bình, nhận xét và đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn. Bài Khoá luận tốt nghiệp này bao gồm có Lời nói đầu và ba chương: Chương I : Khái quát chung về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế Chương II: Thực tiễn sử dụng biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực trên thế giới Chương III: Thực tiễn về tự vệ thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Cuối cùng là phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP TỰ VỆ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm, lịch sử phát triển và vai trò của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. 1.1.1.Khái niệm về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Tổ chức thương mại thế giới WTO được thành lập dựa trên cơ sở Hiệp định Marakesh năm 1994, chính thức đi vào hoạt động từ năm 1995 sau kết quả của vòng đàm phán Uruguay. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong việc thành lập và hoạt động của tổ chức này là đảm bảo cho tự do hoá thương mại được diễn ra một cách thuận lợi. Vậy tự do hoá thương mại là gì? Tự do hoá thương mại là việc dỡ bỏ những hàng rào thương mại do các nước lập nên nhằm làm cho luồng hàng hoá, dịch vụ, tư bản (vốn) và thể nhân được di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Trên cơ sở lý thuyết về lợi thế so sánh, lợi ích lớn nhất của tự do hoá thương mại là thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán trao đổi hàng hoá quốc tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với người tiêu dùng, hàng hoá lưu thông dễ dàng hơn đem lại cho họ cơ hội lựa chọn hàng hoá tốt hơn với giá rẻ hơn. Người tiêu dùng ở đây có thể hiểu là những nhà sản xuất nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất ra những hàng hóa khác. Ngoài những lợi thế khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào luật chơi chung của thế giới, các nước cũng phải chấp nhận những nhượng bộ và chịu những rủi ro nhất định. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà các nước lại dựng lên những hàng rào làm cản trở đến sự lưu thông của hàng hoá. Lý do để các nước làm việc này là nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hoá bên ngoài. Điều này có ý nghĩa lớn vì sản xuất trong nước suy giảm sẽ làm ảnh hưởng lớn đến công ăn việc làm và qua đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình ổn định xã hội của một quốc gia.Mặt khác, việc bảo hộ thuơng mại một cách tràn lan, không hạn chế sẽ làm cho các ngành sản xuất nội địa Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương hoạt động trì trệ và sẽ ngăn cản sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việc tự do hoá thương mại ở những mức độ khác nhau sẽ làm yếu đi hoặc mất dần các hàng rào nói trên. Qua đó, các quy tắc chung của WTO đặt ra những ngoại lệ cho phép các doanh nghiệp trong nước và Chính phủ của họ thực hiện những hành động nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi của mình khi bị tác động bởi chính sách tự do hoá thương mại. Đó chính là các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế có thể được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, các biện pháp tự vệ bao gồm các biện pháp mà một nước sử dụng nhằm bảo hộ cho các nhà sản xuất hay hàng hoá của nước đó trước sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài. Các biện pháp tự vệ theo nghĩa trên là rất rộng, được áp dụng trong nhiều trường hợp khác nhau và chịu sự giám sát của các Hiệp định đa biên của WTO, chẳng hạn như các biện pháp kiểm dịch thực vật, các biện pháp trợ cấp, các biện pháp chống bán phá giá…Cần lưu ý là các Hiệp định đa biên tương ứng chịu trách nhiệm giám sát việc thực thi các biện pháp trên trong những điều kiện chặt chẽ chứ không nhằm mục đích tạo điều kiện cho các nước thành viên sử dụng thường xuyên các biện pháp bảo hộ trên nhằm làm cản trở đến tự do hoá thương mại. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì các biện pháp tự vệ là các biện pháp thương mại khẩn cấp do một nước áp dụng tạm thời để giúp làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngành công nghiệp nội địa của mình khi ngành này bị tổn hại do hàng nhập khẩu gia tăng. Trong những điều kiện nhất định, một nước có thể áp dụng những biện pháp thương mại nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu của một sản phẩm nào đó để bảo vệ ngành sản xuất nội địa đó của mình. Đôi khi người ta còn gọi đó là “ điều khoản giải thoát” bởi vì nó giúp cho một nước “thoát khỏi” nghĩa vụ của mình trong những trường hợp đặc biệt. Theo cách hiểu này thì khi tiến hành mở cửa thị trường và thực thi chính sách tự do hoá thương mại, ngành sản xuất trong nước có thể bị suy yếu và gặp khó khăn nghiêm trọng do gặp phải sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài. Do vậy, ngành sản xuất đó có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước mình về khả năng áp dụng các biện pháp tự vệ để ngành này có thể thích nghi được với Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương sự cạnh tranh. Các biện pháp tự vệ trong trường hợp này chịu sự điều chỉnh của Hiệp định về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO. Các nguyên tắc về các biện pháp tự vệ đầu tiên được quy định trong Điều XIX, GATT 1947, hiện nay đã được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ - một trong các Hiệp định đa biên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Lời nói đầu của Hiệp định này đã ghi nhận rằng các Quốc gia thành viên thừa nhận sự cần thiết phải làm rõ và củng cố các định chế của GATT 1994, đặc biệt là điều XIX của GATT 1994 nhằm thiết lập một sự giám sát đa phương trên cơ sở các biện pháp tự vệ và triệt tiêu các biện pháp nhằm né tránh sự giám sát này. Theo đó, nếu do hậu quả của những diễn biến không lường trước được của các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện tới mức gây tổn hại hay đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay cạnh tranh trực tiếp trong nước thì bên ký kết có thể dừng hay trì hoãn thực hiện toàn bộ hay một phần các cam kết theo các Hiệp định của WTO về hàng hoá, có thể rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để dự liệu và khắc phục tổn hại đó. Trên cơ sở của Điều XIX của GATT 1947 và sau này Tổ chức thương mại thế giới WTO đã kế thừa, Điều II, Hiệp định đa biên về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO cũng đã quy định rằng một thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi thành viên đó đã xác định được, theo những điều khoản trong Hiệp định, là sản phẩm đó được nhập vào lãnh thổ mình khi có sự gia tăng nhập khẩu tương đối hay tuỵêt đối so với sản phẩm nội địa, và theo đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Vậy nội dung của các quy tắc trên được hiểu ra sao? Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương Các quy tắc trên thừa nhận rằng khi thực hiện các cam kết của mình liên quan đến chính sách tự do hoá thương mại, một số ngành sản xuất nội địa có thể gặp phải những khó khăn và phải đối phó lại với những vấn đề cần điều chỉnh theo sự cạnh tranh tăng lên của hàng hoá nhập khẩu. Việc nhập khẩu hàng hoá này gia tăng với số lượng tuyệt đối hoặc tương đối so với ngành hàng sản xuất nội địa mà họ không thể dự đoán được tình huống này vào thời điểm thực hiện các cam kết. Sự gia tăng này tác động đến các ngành sản xuất nội địa, gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại cho ngành chuyên sản xuất những hàng hoá giống với hàng hoá nhập khẩu về chức năng, công dụng, tính năng kỹ thuật và các thuộc tính cơ bản khác hoặc có thể là hàng hoá được người mua chấp nhận thay thế cho hàng hoá thuộc phạm vi áp dụng các biện pháp tự vệ do ưu thế về giá và mục đích sử dụng. Nhằm mục đích thực hiện các cam kết trong khuôn khổ của GATT, các bên ký kết cũng thừa nhận tầm quan trọng của việc điều chỉnh cơ cấu và sự cần thiết phải tăng cường chứ không phải là hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế1. Hiệp định đa biên về các biện pháp tự vệ có phạm vi áp dụng cho tất cả các loại hàng hoá nhưng cũng đưa ra hai ngoại lệ không thuộc phạm vi áp dụng chung của Hiệp định. Ngoại lệ thứ nhất là điều khoản về tự vệ đặc biệt trong khuôn khổ Hiệp định về nông nghiệp đối với một vài sản phẩm đặc biệt trong những tình huống nhất định2. Ngoại lệ thứ hai là về cơ chế tự vệ tạm thời áp dụng cho một vài mặt hàng dệt may chưa được tự do hoá theo Hiệp định về hàng dệt và may mặc3. Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam năm 2002 cũng khẳng định Chính Phủ Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp một loại hàng hoá được nhập khẩu quá mức vào Việt Nam và gây ra thiệt hại hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa. Cũng giống như Hiệp định về các biện pháp tự vệ, Pháp lệnh cũng đã giải thích một số thuật ngữ như: nhập khẩu hàng hoá quá mức, thiệt hại nghiêm trọng, ngành sản xuất trong nước, hàng hoá tương tự và hàng hoá cạnh tranh trực 1 Lời nói đầu Hiệp định về các biện pháp tự vệ Xem điều V Hiệp định đa biên về hàng nông nghiệp- GATT 1994 3 Xem điều VI Hiệp định đa biên về hàng dệt may- GATT 1994 2 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương tiếp… đồng thời cũng đưa ra những tiêu chí xác định làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp tự vệ. Để hiểu rõ hơn về các biện pháp tự vệ, chúng ta phải đặt việc nghiên cứu các trường hợp của việc áp dụng các biện pháp tự vệ với các biện pháp khác có liên quan đến việc bảo hộ hàng hoá trong thương mại quốc tế như là các biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp hay biện pháp trả đũa trong thương mại quốc tế. Các biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp của Chính Phủ và các biện pháp tự vệ đều có chung mục đích là bảo vệ hàng hoá sản xuất trong nước trước việc tự do hoá thương mại mà hệ quả là sự xuất hiện của hàng hoá nước ngoài trên thị trường nội địa. Trước đây, khi vấn đề tự do hoá thương mại chưa được đặt ra, các nước thường xuyên sử dụng các công cụ thuế quan và phi thuế quan rất cao để ngăn chặn thậm chí là triệt tiêu số lượng hàng hoá nhập khẩu. Cùng với tiến trình tự do hoá thương mại và dỡ bỏ các rào cản thương mại thì các biện pháp thuế quan và phi thuế quan vẫn được sử dụng nhưng chỉ ở mức độ thấp, hạn chế và tuỳ thuộc vào từng trường hợp. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta thường nhầm lẫn bản chất của các biện pháp tự vệ với các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp của Chính phủ. So với biện pháp tự vệ, các biện pháp bảo hộ này có những điểm khác biệt chủ yếu sau đây: Thứ nhất, về bản chất và mục đích áp dụng, các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp đều là những biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế hoặc do bán phá giá (bán hàng hoá thấp hơn giá trị sản xuất hoặc thấp hơn giá trị thông thường nhằm xâm nhập thị trường một nước khác, tiến tới triệt tiêu đối thủ cạnh tranh trong thị trường đó) hoặc do được trợ cấp của Chính phủ (các ưu đãi về miễn thu, thoái thu hoặc giảm những khoản thu đáng ra phải đóng hoặc giao vốn trực tiếp). Hành vi bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất phát từ phía các doanh nghiệp, còn hành vi trợ cấp là hành vi xuất phát từ phía Chính Phủ. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh này gây ảnh hưởng tới hoạt Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương động của các doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh khác và xa hơn là ảnh hưởng tới người tiêu dùng, do vậy các nước đặt ra các biện pháp nhằm chống lại các hành vi này. Còn các biện pháp tự vệ được áp dụng nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước sự nhập khẩu hàng hoá quá mức, không thể lường trước vào thị trường nội địa và đang gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc có bằng chứng cho thấy sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành sản xuất nội địa. Khác với các quy định về cạnh tranh không lành mạnh do bán phá giá và do được trợ cấp, biện pháp tự vệ xuất phát từ việc hàng hoá nhập khẩu gia tăng đột biến nhưng không bị quy là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nhà cung cấp nước ngoài. Về bản chất, các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp đều có mục đích là đưa cạnh tranh trở lại vị thế cân bằng trong khi đó biện pháp tự vệ lại có mục đích hạn chế cạnh tranh trong điều kiện đặc biệt và chỉ mang tính chất tạm thời để cho ngành sản xuất trong nước có thể tồn tại, cạnh tranh sẽ không bị thủ tiêu và quan hệ thương mại được duy trì lâu dài. Thứ hai, sự khác biệt giữa các biện pháp này nằm ở điều kiện áp dụng theo đó mức độ tổn hại của ngành sản xuất được nêu lên để chứng minh hành động tự vệ của Chính phủ cao hơn nhiều so với mức đòi hỏi của việc đánh thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá. Trong trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ thì thiệt hại đối với ngành sản xuất phải là nghiêm trọng. Trong khi đó, bên yêu cầu áp dụng các biện pháp chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế chỉ cần chứng minh có hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi đó đã gây ra thiệt hại vật chất là đủ. Thứ ba, để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nhà sản xuất nước ngoài, nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp thuế quan. Tức là họ chỉ được sử dụng thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá hay đánh thuế bổ sung vào số lượng hàng hoá nhập khẩu nhằm triệt tiêu sự gian lận trong thương mại quốc tế mà không được sử dụng các biện pháp phi thuế quan như trong trường hợp tự vệ thương mại. Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương Thứ tư, về nguyên tắc áp dụng, để chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh của bên cung cấp hàng hoá nước ngoài thì nước nhập khẩu chỉ được đánh thuế chống phá giá hay thuế đối kháng vào số lượng hàng của nước cung cấp hàng hoá có hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó mà không đánh thuế vào các mặt hàng của các nước khác không liên quan và không là đối tượng của thuế chống phá giá hay thuế đối kháng. Còn trong trường hợp áp dụng các biện pháp tự vệ thì nước nhập khẩu, theo quy định của WTO, phải tuân thủ nguyên tắc Tối huệ quốc, không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hàng hoá: Nghĩa là một khi đã áp dụng biện pháp tự vệ đối với loại hàng hoá nhập khẩu từ nước nào thì cũng phải áp dụng các biện pháp đó cho loại hàng hoá cùng loại nhập khẩu từ các nước khác. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là vì các biện pháp tự vệ là biện pháp đánh vào hàng hoá nhập khẩu nhằm mục đích hạn chế chứ không nhằm mục đích trừng phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh của hàng hoá nhập khẩu. Thứ năm, khác với các biện pháp chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải cam kết đảm bảo đưa ra một mức bồi thường thoả đáng đối với các nước chịu thiệt hại phát sinh từ hệ quả của việc áp dụng các biện pháp tự vệ. Khi áp dụng các biện pháp tự vệ, bên áp dụng phải đưa ra mức đền bù thoả đáng trên cơ sở tham vấn, đàm phán với nước cung ứng hàng hoá và trong trường hợp không đạt được mức bồi thường thoả đáng, bên bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu cơ quan giải quyết tranh chấp cho phép được tiến hành hành động trả đũa. Vậy trả đũa là gì, nó có phải là các biện pháp tự vệ không? Trả đũa được áp dụng trong trường hợp nào, việc áp dụng nó sẽ có hệ quả gì, và trả đũa có liên quan gì đến các cuộc chiến tranh thương mại? Biện pháp trả đũa cũng được xem là một trong những biện pháp bảo hộ hàng hoá trong thương mại quốc tế và là biện pháp tự vệ nếu hiểu theo nghĩa rộng. Còn nếu xét cụ thể về mặt bản chất, mục đích áp dụng, điều kiện áp dụng hay mức độ áp dụng thì biện pháp trả đũa và biện pháp tự vệ là hoàn toàn khác nhau. Biện pháp trả đũa là hệ quả của việc vi phạm các nghĩa vụ trong thương mại, không chỉ từ việc các bên không thoả thuận được mức bồi Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương thường khi áp dụng biện pháp tự vệ mà còn do việc áp dụng các biện áp chống cạnh tranh không lành mạnh không có căn cứ và bên kia không tuân thủ các khuyến nghị của các cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều này có nghĩa là: chẳng hạn khi một bên vi phạm nghĩa vụ nêu trong GATT hay các Hiệp định kèm theo, cơ quan giải quyết tranh chấp có thể cho phép bên bị ảnh hưởng nâng thuế suất đánh vào sản phẩm nhập khẩu từ nước vi phạm với kim ngạch mua bán của các sản phẩm này sẽ phải tương đương với kim ngạch bị ảnh hưởng bởi các biện pháp đang bị khiếu kiện1. Các biện pháp trả đũa thông thường phải được cơ quan giải quyết tranh chấp cho phép và trong cùng một lĩnh vực của GATT, GATS hay TRIPS. Tuy nhiên, nếu cơ quan giải quyết tranh chấp xem xét thấy không thể áp dụng biện pháp trả đũa trong cùng một lĩnh vực thì có thể cho phép trả đũa ở các lĩnh vực khác của cùng một Hiệp định. Một ví dụ cụ thể về trả đũa trong thương mại quốc tế: Mới đây, Uỷ ban Châu Âu đã kiện Hoa kỳ ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO về việc Hoa kỳ nâng mức thuế thép nhập khẩu từ 8% lên 30% gây ra thiệt hại cho Liên minh Châu âu. Do không đạt được thoả thuận về mức bồi thường với Hoa kỳ nên cơ quan giải quyết tranh chấp đã cho phép Uỷ ban Châu âu áp dụng các biện pháp trả đũa lại Hoa Kỳ bằng cách đánh thuế cao vào một số mặt hàng nông sản nhập khẩu vào Châu Âu từ Hoa kỳ. Trả đũa có thể đánh vào một mặt hàng cùng loại hoặc có thể không đánh vào mặt hàng đó mà đánh vào những mặt hàng khác có vị trí quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của nước đã áp dụng biện pháp tự vệ với mình trước đó. Người ta gọi đó là biện pháp trả đũa chéo. Chỉ trong rất ít các trường hợp đặc biệt và là phương sách cuối cùng, cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO mới cho phép trả đũa chéo giữa các Hiệp định, có nghĩa là áp đặt thuế suất cao hơn đối với hàng hoá do có sự vi phạm nghĩa vụ của Hiệp định GATS hay của Hiệp định TRIPS. Như vậy có thể hiểu trả đũa trong thương mại quốc tế là quyền tự vệ của nước cung cấp hàng hoá bị áp dụng biện pháp tự vệ, sử dụng các công cụ của 1 Xem cuốn Hướng dẫn doanh nghiệp về hệ thống thương mại thế giới, bản dịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam , Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2001 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương chính sách thương mại quốc tế nhằm gây ảnh hưởng tới hàng hoá của một nước khác vì mục đích gây ra một thiệt hại nhất định cho nước đó. Theo quy định của Điều XIX khoản 3b của GATT thì “ nếu như các biện pháp tự vệ đã áp dụng theo tinh thần của Điều XIX, đoạn 2, không tham vấn trước, gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước, trên lãnh thổ của một bên ký kết khác chịu tác động của các biện pháp đó, khi mỗi sự chậm trễ có thể gây ra thiệt hại khó có thể khắc phục được, bên ký kết này có quyền ngừng cho hưởng các nhân nhượng hay ngừng các nghĩa vụ khác trong thời hạn cần thiết để ngăn ngừa hay khắc phục thiệt hại đó. Trên thực tế, việc áp dụng các biện pháp trả đũa chỉ thực sự diễn ra giữa các nước có nền kinh tế mạnh và tỷ trọng thương mại lớn. Việc trả đũa nhau giữa các nước lớn về kinh tế thực chất là những cuộc chiến thương mại mà chúng ta thường thấy trong thời gian gần đây. Đối với các nước mà tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu trong thương mại quốc tế không đáng kể thì việc trả đũa trong thương mại quốc tế là không thực tế, không hiệu quả và có thể gây ra những bất lợi trong quan hệ thương mại với các nước có nền kinh tế lớn mạnh hơn. 1.1.2. Lịch sử phát triển của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. 1.1.2.1 Theo quy định của GATT 1947. Tự do hoá thương mại không phải lúc nào cũng diễn ra một cách suôn sẻ, trên thực tế đã xuất hiện không ít những trở ngại. Việc mở cửa biên giới, nếu như nó tạo ra những lợi ích cho người tiêu dùng và những nhà sản xuất phải nhập khẩu nguyên liệu, sản phẩm là đầu vào thì ngược lại, nó gây ra cho những nhà sản xuất nội địa những khó khăn nhất định, thị trường của họ bị đe doạ rơi vào tay các tư bản nước ngoài. Như vậy, ở đây diễn ra hai xu hướng một ủng hộ tự do hoá thương mại, một tìm cách hạn chế. Quốc gia là chủ thể điều hoà những lợi ích đối lập trên khi hoạch định và xây dựng chính sách thương mại của mình1. 1 Xem Patrick & Dominique Carreau, Manuel Droit international économique, Bản tiếng Pháp, NXB Paris 1998 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương Tư tưởng tự do hoá thương mại kết hợp với việc cơ cấu lại ngành sản xuất nội địa bằng cách giúp đỡ các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng từ việc cạnh tranh thay đổi hướng đi thích hợp từ đó có thể tận dụng những ưu thế của cạnh tranh và giải quyết được những vấn đề khác trong đó có vấn đề việc làm. Việc chuyển đổi lại cơ cấu nâng cao năng lực cạnh tranh cần có một khoảng thời gian thích hợp và một cơ chế thương mại toàn cầu cho phép các nước tạm thời rút lui các cam kết của mình thông qua các biện pháp bảo hộ. Các biện pháp bảo hộ thông qua con đường tự vệ thương mại có nguồn gốc từ Hoa kỳ. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong đạo luật về tự do hoá chính sách thương mại của Mỹ vào năm 1934 và được sử dụng trong Hiệp định thương mại giữa Mỹ và Mêhicô năm 1943. Tổng thống Mỹ Truman đã đưa ra đề xuất về điều khoản miễn trừ nghĩa vụ trong các Hiệp định thương mại của Mỹ mà chúng ta hiểu ngày nay đó là việc cho phép dựng lên những rào cản tạm thời đối với hàng hoá nhập khẩu gia tăng gây thiệt hại cho các ngành sản xuất nội địa2. Năm 1947, Mỹ và 21 quốc gia khác đã thoả thuận đàm phán về văn kiện GATT trong đó có chứa đựng điều khoản về hành động trong trường hợp khẩn cấp. Thông qua Điều XIX trong GATT 1947 về thương mại hàng hoá, Chính phủ các nước đã nhất trí về những điều khoản miễn trừ nghĩa vụ tạm thời khi xảy ra tình thế cấp thiết.Theo đó, GATT 1947 quy định rằng nếu do hậu quả của những diễn biến không lường trước được của các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, khi một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện gây tổn hại hay đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay cạnh tranh trực tiếp trong nước thì bên ký kết có thể dừng toàn bộ hay một phần các cam kết, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để dự liệu và khắc phục tổn hại đó. Tuy nhiên , GATT 1947 mới chỉ là bước mở đầu cho quan hệ giao thương được tự do phát triển. Cùng với quá trình phát triển chung của thương mại 2 Xem cuốn Về hệ thống thương mại thế giới, Luật lệ và chính sách về quan hệ kinh tế quốc tế, John.H.Jackson, bản dịch của Phạm Viên Phương & Huỳnh Thanh, NXB Thanh niên 2001 Khoá luận tốt nghiệp Thảo Vũ Thị Phương toàn cầu nó đã dần bộc lộ những hạn chế nhất định làm cơ sở cho một số Quốc gia lợi dụng để từ bỏ các nghĩa vụ trong các cam kết của họ: Thứ nhất GATT 1947 chỉ có duy nhất điều XIX quy định về tự vệ trong việc nhập khẩu hàng hoá và do thiếu các quy định giải thích nên các thuật ngữ được sử dụng trong GATT 1947 như sự gia tăng quá mức và không thể lường trước được, thiệt hại nghiêm trọng, ngành sản xuất trong nước…vv được sử dụng một cách tuỳ tiện bởi các nước nhập khẩu. Những đánh giá của các nước này thường mang tính chủ quan. Thứ hai, các điều khoản miễn trừ nghĩa vụ được bên nhập khẩu áp dụng một cách đơn phương mà không cân nhắc đến quyền lợi của các bên xuất khẩu do không có quy định về thủ tục kiểm tra và giám sát việc thực hiện các biện pháp tự vệ. Hơn nữa, các biện pháp tự vệ được áp dụng không hạn chế về thời gian nên hệ quả là được sử dụng một cách thường xuyên và liên tục. Thứ ba, việc thực thi quy chế Tối huệ quốc không mang ý nghĩa tích cực do bên nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ “vùng xám” hay còn gọi là biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện dẫn đến việc đối xử không công bằng trong quan hệ thương mại giữa các Quốc gia. Điều này đi ngược lại nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của WTO nói chung và GATT nói riêng. Sự tồn tại của các hạn chế nói trên dẫn đến hệ quả là thương mại bị cản trở, các nước sử dụng tối đa quy định về tự vệ trong thời gian không hạn chế. Theo thống kê của cơ quan giải quyết tranh chấp thì cho đến trước khi diễn ra vòng đàm phán Uruguay đã có hơn 150 vụ tranh chấp1 liên quan đến việc vận dụng điều XIX của GATT 1947. Tại vòng đàm phán Tokyo trước đó, các quốc gia cũng đã thất bại khi những cố gắng của họ về việc soạn thảo một Hiệp định về các biện pháp tự vệ bổ sung cho quy định của GATT đã không được thông qua. 1.1.2.2 Theo quy định của WTO. Năm 1994, cùng với việc thành lập ra tổ chức thương mại thế giới(WTO), một hệ thống các quy tắc thương mại đa biên đã được thiết lập và ngày càng 1 Xem Patrick Juillard & Dominique carreau, Manuel Droit international économique, Bản tiếng pháp, NXB Paris 1998
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan