Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố...

Tài liệu Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố hội an, tỉnh quảng nam

.DOC
90
8
68

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hải. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu và ví dụ nêu trong Luận văn đảm bảo độ chính xác, khách quan và trung thực. Các kết luận khoa học của các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ trong Luận văn. Tác giả luận văn MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 4 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI.................................................17 1.1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...........................................................................................................17 1.2. Pháp luật hình sự một số nước về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...............................................................................................30 CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM............................................................................................... 37 2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................... 37 2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam..................................................... 45 CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI.................................................62 3.1. Các yếu tố đảm bảo áp dụng đúng quy định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015........................62 3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...............................................................................................65 3.3. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội......................................................................67 KẾT LUẬN....................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử TAND: Tòa án nhân dân THAHS: Thi hành án hình sự TNHS: Trách nhiệm hình sự VAHS: Vụ án hình sự DANH MỤC CÁC BẢNG Số bảng Tên bảng hiệu Trang Phân biệt biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 Bảng 1.1 tuổi phạm tội và hình phạt đối với người dưới 18 tuổi 18 phạm tội Tình hình áp dụng biện pháp tư pháp đối với người Bảng 2.1 dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An và tỉnh 33 Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với Bảng 2.2 người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An từ 35 năm 2015 đến năm 2019 Các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện bị áp Bảng 2.3 dụng biện pháp tư pháp trên địa bàn thành phố Hội 37 An từ năm 2015 đến năm 2019 Thống kê số bị cáo là người dưới 18 tuổi theo giới Bảng 2.4 tính, nhóm tuổi và trình độ học vấn tại thành phố Hội An từ năm 2015 đến năm 2019 38 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu lớn về khoa học, kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị. Tuy nhiên, việc phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội cũng mang đến những mặt tiêu cực, lối sống cực đoan và kết quả tất yếu là tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, trong đó, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng về số lượng và tính chất nguy hiểm của hành vi. Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện về thể chất, tâm sinh lý, nhân cách sống. Người ở độ tuổi này chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần, nhân cách; có sự hạn chế về kinh nghiệm sống, kiến thức pháp luật, dễ bị tác động, chi phối bởi điều kiện sống; chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, khả năng tự kiềm chế chưa tốt. Trong tư duy của người ở độ tuổi này bắt đầu hình thành ý thức độc lập trong việc quyết định cuộc sống riêng của mình, bắt đầu tự độc lập trong hành động, suy nghĩ, ứng xử và thiết lập các mối quan hệ riêng biệt, dễ bị người khác kích động, dụ dỗ, lôi kéo vào việc thực hiện những hành vi trái pháp luật. Chính vì vậy, vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Là đạo luật quan trọng quy định những vấn đề liên quan đến tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS năm 2015 đã dành nhiều điều khoản quy định về chính sách xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng vì lợi ích tốt nhất của họ. Theo đó, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định và phải nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành người có ích cho xã hội và cho gia đình. Việc truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải được cân nhắc trên cơ sở đánh giá đầy đủ các đặc điểm tâm sinh lý, các yếu tố gia đình và xã hội, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Ngay cả khi người dưới 18 tuổi phạm tội bị truy cứu TNHS thì họ vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt, việc áp dụng hình phạt được xem là biện pháp cuối cùng. Thay vào đó, Tòa án ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp hoặc biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn TNHS nếu việc áp dụng các biện pháp này vẫn đảm bảo mục đích giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong những năm qua, quá trình áp dụng các quy định của BLHS liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội đã phát huy hiệu quả đáng kể mục đích giáo dục, cải tạo cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong tư pháp hình sự. Tuy nhiên, tình hình tội phạm xâm hại người dưới 18 tuổi diễn ra khá nghiêm trọng, các tội về hiếp dâm, mua bán trẻ em cũng đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm, trong khi đó, việc áp dụng quy định có liên quan của BLHS đối với người dưới 18 tuổi vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, việc nước ta ký kết Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã đặt ra yêu cầu bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, do đó, các biện pháp tư pháp hình sự áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải có những sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn. BLHS cần phải quy định những chế tài xử lý riêng đối với người dưới 18 tuổi, thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi này nhằm thể hiện tính nhân đạo trong đường lối, chính sách xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội của Đảng và Nhà nước. Cần phải đảm bảo các chế tài xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi cũng cần phải đủ mạnh để đảm bảo tính ren đe, phòng ngừa họ tiếp tục phạm tội cũng như có sức ren đe đối với cộng đồng. Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” để làm Luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này. Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Phần thứ nhất, Nxb. Thông tin và truyền thông, Hà Nội; 2) TS. Phạm Mạnh Hùng (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 3) Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong Khoa học Luật hình sự (phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; 4) Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; 5) Trịnh Tiến Việt (2012), Hoàn thiện các quy định của phần chung Bộ luậthình sự trước yêu cầu đổi mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 6) Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 - Phần chung, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh; 7) Nguyễn Đức Mai (2009), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 phần chung, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; 8) Đinh Văn Quế (2006), Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Phương Đông, Hà Nội; 9) Nguyễn Xuân Yêm (2004), Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội Trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; 10) Trịnh Tiến Việt (2013), Pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học có một số công trình ở cấp độ luận văn thạc sĩ, tiến sĩ luật học như: 1) T.S Nguyễn Gia Viễn (2019), Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng, Luận văn Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; 2) Th.S Đỗ Thị Bảo Ngọc (2019), Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; 3) Th.S Lưu Ngọc Cảnh (2010), Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 4) Th.S Nguyễn Thị Tố Nga (2011), Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 5) Th.S Đỗ Văn Hùng (2016), Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 6) Th.S Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2016), Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 7) Th.S Lưu Thị Thu Hương (2014), Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 8) Th.S Trần Hồng Nhung (2017), Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Ngoài ra, có một số nghiên cứu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật như: 1) Th.S Trần Văn Dũng (2008), “Chế định thẩm phán vị thành niên trong Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Luật học, số 5, tr. 54-59; 2) Th.S Hà Lệ Thủy (2016), “Các biện pháp tư pháp trong Luật hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4, tr. 32-36; 3) PGS.TS Lê Thị Sơn (2015), “Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí luật học, số 3, tr. 55-64; 4) Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20; 5) Nguyễn Đình Gấm (2002), “Nguyên nhân tâm lý xã hội của tội phạm vị thành niên”, Tạp chí Tâm lý học, số 5; 6) Phạm Văn Hùng (2008), “Hệ thống điều tra thân thiện với người chưa thành niên”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 20; 7) TS. Trần Đình Thắng (2020), “Biện pháp tư pháp - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 09. Có thể thấy, do phạm vi và mục đích nghiên cứu nên các công trình khoa học chưa đi sâu nghiên cứu một các có hệ thống, đồng bộ và toàn diện các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên một địa bàn cụ thể là thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chính vì vậy, việc làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đồng thời đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện các chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi, đặc biệt là các biện pháp tư pháp, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam và phân tích pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời, luận văn tiến hành tổng kết và đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp này tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, trên cơ sở đó, nêu ra những vướng mắc, hạn chế, khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng biện pháp tư pháp này trên thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu, phân tích để làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, phân biệt giữa biện pháp tư pháp với hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới về các biện pháp này. - Tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, từ đó nêu ra những vướng mắc, bất cập, khó khăn trong việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này trên thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó: Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành cũng như phân tích những nội dung xoay quanh việc áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp này trên cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em cũng như các chính sách hình sự, phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên một tổng thể các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đúc kết các nội dung pháp lý về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã được đánh giá, phân tích; tổng hợp các số liệu thu thập được từ tổng kết áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hội An. - Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu, làm rõ sự khác biệt trong việc quy định các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trước và sau khi BLHS năm 2015 ban hành; so sánh giữa biện pháp tư pháp với hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Phương pháp liệt kê, thống kê được sử dụng để tìm ra số liệu áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hội An. - Phương pháp phỏng vấn được sử dụng để thăm hỏi ý kiến Thẩm phán, Kiểm sát viên về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hội An. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và đánh giá thực tiễn áp dụng cán biện pháp này trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, luận văn đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện các chế định hình sự về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết, phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập khoa học pháp luật hình sự cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành hình sự và tố tụng hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trên cơ sở phân tích, đánh giá việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội An, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp này trên thực tiễn có ý nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là tài liệu có thể làm căn cứ sửa đổi pháp luật hiện hành và tiến đến hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự trong tương lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Để có thể đưa ra khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trước hết cần phải làm rõ người dưới 18 tuổi được hiểu như thế nào, các đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng này, từ đó đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo Điều 1 Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có nêu: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn.” Theo đó, độ tuổi trẻ em được xác định trong Công ước 1989 chỉ mang tính định hướng trên cơ sở tôn trọng tuyệt đối hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em cũng như tập quán xã hội ở mỗi quốc gia đó. Như vậy, độ tuổi của người chưa thành niên được xác định không giống nhau tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia thành viên. Nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhiều văn bản pháp luật ở nước ta quy định thống nhất độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi, riêng Luật trẻ em năm 2016 quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Có thể thấy rằng, mỗi văn bản pháp luật có mỗi phạm vi điều chỉnh riêng phù hợp với từng chế định pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể nên có những quy định khác nhau khi xác định độ tuổi được coi là người chưa thành niên, trẻ em. BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015) ra đời đã sửa đổi cụm từ “người chưa thành niên” theo quy định của BLHS năm 1999 thành “người dưới 18 tuổi” nhưng vẫn giữ nguyên độ tuổi góp phần làm rõ quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Có thể thấy, khái niệm người dưới 18 tuổi tương đồng với khái niệm người chưa thành niên, trên cơ sở căn cứ vào sự phát triển về thể chất, tinh thần cũng như đặc điểm tâm sinh lý, có thể hiểu người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Ở độ tuổi này, người dưới 18 tuổi đang trong quá trình hoàn thiện về thể chất, tâm sinh lý nên họ thường tò mò, sôi nổi, muốn thể hiện là người lớn, nhưng lại dễ nổi giận, cáu ghét, không kiềm chế được hành vi, cảm xúc,… nên dễ bị chi phối bởi những tác động bên ngoài, họ tự cho mình quyền tự do nhưng đôi khi lại tự do hành động một cách tùy tiện và thực hiện các hành vi thiếu suy nghĩ chín chắn. Sự tùy tiện vô kỷ luật này là hành vi vi phạm pháp luật và có thể dẫn đến sự mất tự do của họ. Từ đặc điểm về lứa tuổi, các đặc trưng nêu trên của người dưới 18 tuổi nên pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới đều có những chế định pháp luật, đường lối, chính sách phù hợp để giáo dục, xử lý đối với người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật cũng như bảo vệ, phòng ngừa các hành vi xâm phạm người dưới 18 tuổi. Ở Việt Nam, thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội được đề cập chủ yếu trong BLHS và BLTTHS; trong đó, BLHS dành Chương XII và BLTTHS dành Chương XXVIII để quy định riêng chính sách hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, BLHS và BLTTHS không đưa ra một định nghĩa chính thức về người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng thì người chưa thành niên phạm tội được hiểu là “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [6, tr. 9]. Xét toàn cục, quan điểm này chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý khi phân tích tương đối bao quát các dấu hiệu đặc trưng về người chưa thành niên phạm tội như: Độ tuổi, năng lực TNHS, mức độ lỗi, hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Tuy nhiên, khái niệm này không còn phù hợp với sự thay đổi, bổ sung của BLHS 2015 khi các chế định hình sự được quy định đều liên quan đến thuật ngữ “người dưới 18 tuổi phạm tội”. Còn theo Th.S Đinh Văn Quế, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm” [24, tr. 367]. Định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi, bổ sung của BLHS năm 2015 khi sửa đổi cụm từ “người chưa thành niên phạm tội” thành “người dưới 18 tuổi phạm tội” cũng như phù hợp với các chế định hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định trong BLHS, BLTTHS và các văn bản pháp luật liên quan. Tuy nhiên, khái niệm này còn quy định chung chung, chưa nêu rõ các dấu hiệu đặc trưng về người dưới 18 tuổi phạm tội. Do đó, trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học nêu trên, tác giả cho rằng, người dưới 18 tuổi phạm tội có thể định nghĩa như sau: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do bị hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm với lỗi cố ý hoặc vô ý. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bên cạnh hệ thống các hình phạt thì pháp luật hình sự nước ta còn quy định một biện pháp cưỡng chế hình sự khác ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt đó là biện pháp tư pháp. Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội: “Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt” [41, tr. 194]. Tác giả cho rằng, quan điểm này còn quy định chung chung, chưa phản ánh đầy đủ các dấu hiệu của biện pháp tư pháp, chẳng hạn như bản chất của biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế hình sự. Ngoài ra, quan điểm trên ghi nhận đối tượng bị áp dụng là người có hành vi nguy hiểm cho xã hội là không chính xác. Bởi chỉ những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm thì mới có thể bị áp dụng biện pháp tư pháp. Còn đối với những người cũng thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải là tội phạm thì không được áp dụng biện pháp tư pháp theo quy định của BLHS. Ngoài ra, giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung của trường Đại học kiểm sát Hà Nội, các biện pháp tư pháp được hiểu là “các biện pháp cưỡng chế hình sự do Bộ luật hình sự quy định, được áp dụng đối với người phạm tội có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt” [12, tr. 276]. Quan điểm này là phù hợp nhưng chưa đầy đủ. Do đó, để đảm bảo phản ánh đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của biện pháp tư pháp, tác giả cho rằng cần bổ thêm vào định nghĩa này thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì “biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế hình phạt” [5, tr. 679]. Có thể thấy, quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm đã định nghĩa cụ thể biện pháp tư pháp với các dấu hiệu đặc trưng mà nhìn vào đó, người đọc có thể hiểu rõ biện pháp tư pháp là gì và phân biệt được biện pháp tư pháp với hình phạt. Do đó, tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Như vậy, có thể thấy, so với hình phạt thì biện pháp tư pháp là một chế tài hình sự ít nghiêm khắc hơn, chỉ mang tính hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt chứ không mang tính trừng trị như hình phạt. Vậy, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là gì? Hiện nay, BLHS cũng như các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thi hành BLHS chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS hiện hành quy định nguyên tắc chủ đạo khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ và nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội chứ không nhằm mục đích trừng trị. Khi xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải ưu tiên miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 với tính chất là biện pháp giáo dục, phòng ngừa thay thế cho hình phạt. Do đó, trên cơ sở những định nghĩa về biện pháp tư pháp và người dưới 18 tuổi phạm tội được nêu trên cũng như quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan