Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Bước đầu đánh giá tác dụng hạ đường huyết của viên nang tieukhatling trên bệnh n...

Tài liệu Bước đầu đánh giá tác dụng hạ đường huyết của viên nang tieukhatling trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2

.DOCX
92
116
77

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hoá đặc trưng bằng tình trạng tăng đường huyết mạn tính phối hợp với rối loạn chuyển hóa carbohydrat, lipid và protein. Bệnh khá phổ biến ở các nước trên thế giới và Việt Nam. Tỷ lệ bệnh ngày càng có xu hướng tăng dần theo thời gian và theo tốc độ phát triển của xã hội đặc biệt là ĐTĐ typ 2. Năm 1985, toàn thế giới có 30 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, năm 2010 có 285 triệu người mắc, năm 2011 có 366 triệu người mắc (chiếm 7% dân số thế giới) trong đó 90% là ĐTĐ typ 2 [1]. Dự kiến đến năm 2035 con số này sẽ lên tới 592 triệu người. Điều này ngang mức sẽ có 3 trường hợp mới mắc trong mỗi 10 giây và khoảng 10 triệu trường hợp mới mắc mỗi năm. ĐTĐ được coi là một trong những bệnh có tốc độ gia tăng nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh gia tăng nhanh chóng ở các quốc gia có mức thu nhập thấp và trung bình. Khoảng 80% người mắc ĐTĐ ở các nước có nền kinh tế đang phát triển do có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, môi trường, thói quen ăn uống và dân số già [2]. Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình năm 1990 tỷ lệ ĐTĐ chiếm 1,2% dân số [3]. Năm 2013, tỷ lệ mắc ĐTĐ trong toàn quốc đã là 5,7% [4]. Sự gia tăng nhanh chóng của bệnh đã là gánh nặng lớn về y tế, kinh tế và xã hội. Năm 2013 bệnh ĐTĐ gây tổn thất 548 tỷ đô la Mỹ, chiếm 11% tổng chi tiêu toàn ngành y tế thế giới và hơn 21 triệu trẻ em bị ảnh hưởng bởi mẹ bị ĐTĐ trong thời kỳ mang thai [2]. Bệnh ĐTĐ không được phát hiện sớm và điều trị không đúng sẽ gây nhiều biến chứng và có thể tử vong. Năm 2013 đã có 5,1 triệu người tử vong vì ĐTĐ, cứ mỗi 6 giây có 1 người chết vì bệnh [2]. Vấn đề phòng bệnh, phát hiện bệnh sớm và điều trị có một ý nghĩa rất quan trọng nhằm đề phòng các biến chứng do bệnh gây ra. Hiện nay, điều trị ĐTĐ chủ yếu là dùng thuốc y học hiện đại với các nhóm thuốc uống và insulin. Hầu hết các thuốc này nước ta phải nhập ngoại, khi 2 dùng lâu sẽ có rất nhiều tác dụng không mong muốn, đại bộ phận người bệnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế và điều kiện điều trị. Bởi vậy, một trong những xu hướng hiện nay trong điều trị ĐTĐ là sử dụng thảo dược có nguồn gốc tự nhiên để vừa mang lại hiệu quả điều trị, vừa hạn chế tác dụng không mong muốn cho bệnh nhân và sẽ giảm được chi phí điều trị. Y học cổ truyền không có bệnh danh “đái tháo đường” nhưng đối chiếu với các chứng trạng lâm sàng, căn bệnh này được quy vào phạm vi chứng “tiêu khát” [5], [6], [7], [8] và lần đầu tiên được mô tả trong y văn cổ của y học cổ truyền là sách Nội kinh [9]. Nhiều kinh thư cũng đã ghi các vị thuốc và bài thuốc có tác dụng điều trị tiêu khát như: "Tiêu khát phương" trong "Đan Khê Tâm Pháp", "Ngọc nữ tiễn" trong "Cảnh Nhạc Toàn Thư". Ở nước ta, bài thuốc "Tiêu khát linh" được bào chế dưới dạng viên nén với tên “Tiểu đường Đông Đô" đã được đánh giá có hiệu quả trong điều trị bệnh ĐTĐ. Tuy nhiên, hạn chế của thuốc "Tiểu đường Đông Đô" là số lượng viên phải uống nhiều (24 viên/ngày), có thể bị đổi màu trong quá trình bảo quản, hình thức chưa phù hợp với thị hiếu người sử dụng…Do đó, thuốc đã được nghiên cứu và bào chế dưới dạng viên nang "Tieukhatling" vừa tiện sử dụng, giảm số lượng viên thuốc phải uống trong ngày lại ít sử dụng tá dược, ít tác động của kỹ thuật bào chế. Ngoài ra, nhờ có kỹ thuật bào chế hiện đại nên thuốc có sinh khả dụng cao [10] và đã được cấp phép lưu hành toàn quốc. Để có căn cứ khoa học về tác dụng của dạng thuốc mới này, chúng tôi tiến hành đề tài: "Bước đầu đánh giá tác dụng hạ đường huyết của viên nang "Tieukhatling" trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2” nhằm mục đích: 1. Bước đầu đánh giá tác dụng hạ đường huyết của viên nang “Tieukhatling” trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2. 2. Nhận xét một số tác dụng không mong muốn của thuốc. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. DỊCH TỄ HỌC VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 1.1.1. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới Năm 2010, theo báo cáo của Hiệp hội ĐTĐ quốc tế (IDF), toàn thế giới có khoảng 285 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, dự báo trong 20 năm tới sẽ tăng lên đến 438 triệu người và mỗi năm có thêm khoảng 7 triệu người mắc bệnh [11]. Tỷ lệ mắc ĐTĐ khác nhau ở các nước có nền kinh tế và lãnh thổ khác nhau. Theo IDF (2013), tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ trong độ tuổi 20 - 79 ở một số nước:  Ở Marshall Islands: 34,9% dân số, Australia Aborigines: 30% dân số mắc ĐTĐ. Ở Mỹ có 24,4 triệu người mắc.  Ở Châu Á: Trung Quốc: 98,4 triệu người; Ấn Độ: 65,1 triệu người; Indonexia 8,5 triệu người; Nhật: 7,2 triệu người... [2] 1.1.2. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường ở Việt Nam Theo phân loại của Hiệp hội ĐTĐ quốc tế và Tổ chức y tế thế giới, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ của Việt Nam nằm trong khu vực 2 (2% - 4,99%), giống các nước khác trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia và thấp hơn các nước khu vực 3 (5% - 7,99%) gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia... [12] Theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình (2002), tỷ lệ mắc ĐTĐ trong dân cư thành phố Hà Nội độ tuổi từ 20 - 74 là 2,16% và tỷ lệ mắc ĐTĐ ở độ tuổi từ 30- 64 tuổi là 2,7% trong đó ở thành phố là 4,4%, ở đồng bằng ven biển là 2,2%, ở miền núi là 2,1% [3]. Năm 2005, nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Huyền về tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ tại Hà Nội là 6,7% [13]. Năm 2012, tỷ lệ mắc ĐTĐ trong toàn quốc là 5,7%, cao nhất là Tây Nam Bộ (7,2%) rồi đến Duyên hải miền Trung (6,4%), Đông Nam Bộ (6%), Đồng bằng sông Hồng (5,8%), miền núi phía Bắc (4,8%), Tây Nguyên (3,8%) [4]. 4 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA Y HỌC HIỆN ĐẠI (YHHĐ) VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 1.2.1. Định nghĩa Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hoá do nhiều nguyên nhân, đặc trưng bằng tình trạng tăng đường huyết mạn tính phối hợp với rối loạn chuyển hóa carbohydrat, lipid và protein do thiếu hụt của tình trạng tiết insulin, tác dụng của insulin hoặc cả hai [14]. 1.2.2. Phân loại đái tháo đường 1.2.3.1. Đái tháo đường typ 1 (chiếm khoảng 5-10%) Đái tháo đường typ 1 xuất hiện khi tụy không tiết hoặc tiết ra rất ít insulin do tế bào bêta trong tụy bị phá hủy. Sự phá hủy nhanh thường gặp ở trẻ em, tuổi vị thành niên, một số ít ở người lớn tuổi, sự phá hủy chậm thường gặp ở người lớn tuổi (ĐTĐ tự miễn dịch âm ỉ ở người lớn – LADA) [14], [15], [16]. Giai đoạn đầu, phát hiện tự kháng thể kháng đảo tụy, tự kháng thể kháng insulin, tự kháng thể kháng GAD trong 85- 90% trong ĐTĐ typ 1. Bệnh có tiền căn di truyền liên quan đến kháng nguyên bạch cầu HLA- DR3, HLADR4, HLA- DQ [17]. Một số trường hợp không thấy nguyên nhân tự miễn. 1.2.3.2. Đái tháo đường typ 2 (chiếm khoảng 90-95%) Đặc trưng là kháng insulin nên thiếu insulin tương đối. Bệnh có nhiều nguyên nhân, nguyên nhân đặc hiệu còn chưa rõ nhưng không có hiện tượng hủy hoại tế bào bêta tự miễn. ĐTĐ typ 2 diễn biến chậm, ít có triệu chứng rõ rệt nên BN thường được chẩn đoán muộn. Cơ chế bệnh sinh đái tháo đường typ 2: Bệnh có hai cơ chế cơ bản là kháng insulin và rối loạn tiết insulin. Ngoài ra còn có vai trò của yếu tố gen và môi trường [14] ,[17], [18]. - Rối loạn tiết insulin Tế bào bêta tuỵ bị rối loạn khả năng sản sinh insulin về số lượng và chất lượng để đảm bảo cho chuyển hoá glucose bình thường: Bất thường về nhịp tiết, động học và số lượng bài tiết insulin; chất lượng của những peptid ... 5 - Kháng insulin + Kháng insulin ở cơ: ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 chuyển hoá glucose trong tổ chức cơ kém vì không tổng hợp được glycogen từ glucose và rối loạn quá trình oxy hoá glucose trong các tế bào cơ. + Kháng insulin ở gan có hai yếu tố được đề cập đến là: Vai trò tăng glucagon và tăng hoạt tính men PEP-CK. - Yếu tố di truyền Có vai trò đóng góp gây kháng insulin nhưng chỉ giải thích cho 50% rối loạn chuyển hóa. Béo phì đặc biệt béo bụng (tăng mỡ tạng), tuổi cao, không hoạt động thể lực tham gia có ý nghĩa vào tình trạng kháng insulin [14]. 1.2.3.3. Các loại đái tháo đường khác - Thiếu hụt di truyền chức năng tế bào beta: MODY 1, MODY 2, MODY 3 - Thiếu hụt di truyền về tác động của insulin: hội chứng Leprechaunism... - Bệnh tuyến tụy ngoại tiết: Viêm tụy mạn, xơ sỏi tụy, chấn thương tụy... - Đái tháo đường thứ phát sau bệnh nội tiết, do thuốc, hóa chất, nhiễm khuẩn - Một số hội chứng di truyền kết hợp: Hội chứng Down, Klinefelter... - Đái tháo đường thai kỳ [19]. 1.2.3. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng 1.2.3.1. Đái tháo đường typ 1 Bắt đầu dưới 30 tuổi, tiền sử gia đình có người bị ĐTĐ và/ hoặc các bệnh tự miễn khác với biểu hiện rầm rộ: tiểu nhiều, uống nhiều, hội chứng dị hóa (sút cân, thèm ăn, ăn nhiều, mệt mỏi, suy nhược, thể trạng gầy). Bệnh có biến chứng cấp hay gặp: hôn mê nhiễm toan ceton. Khi điều trị phải tiêm insulin đều để duy trì hoạt động bình thường của cơ thể. - Xét nghiệm: Glucose huyết tăng, thể ceton niệu có thể thấy, định lượng insulin máu thấp hoặc bằng 0, test Glucagon (6 phút sau tiêm, peptid C < 0,3 mmol/l), có thể phát hiện được kháng nguyên HLA-DR3, HLA- DR4, HLADQ, kháng thể kháng tiểu đảo tụy, kháng thể kháng insulin [14], [17], [20]. 6 1.2.3.2. Đái tháo đường typ 2 Thường gặp ở người trên 30 tuổi, thể trạng béo. Triệu chứng lâm sàng không rầm rộ (phát hiện tình cờ). Ở nữ tiền sử có thể có ĐTĐ thai kỳ. Bệnh có đặc tính di truyền. Một số gia đình có đột biến gen, phần lớn di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường [21], [22]. - Xét nghiệm + Glucose huyết tăng; lipid và lipoprotein huyết, HbA1c có thể tăng. + Glucose niệu có khi glucose huyết vượt quá ngưỡng thận (8,9- 10mmol/l) + Ceton niệu hiếm khi xuất hiện + Protein niệu: BN ĐTĐ có thể bị tổn thương thận vì xơ hóa mạch máu tại cầu thận, viêm đài bể thận dẫn tới protein niệu tăng [17], [18]. + HLA DR3- DR4, kháng thể kháng đảo tụy âm tính; Peptid C > 1 mmol/l; định lượng insulin máu bình thường hoặc tăng. 1.2.4. Chẩn đoán xác định 1.2.4.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán Theo ADA 2014, chẩn đoán khi có 1 trong các tiêu chuẩn dưới đây [23]: - Có các triệu chứng của bệnh ĐTĐ về mặt lâm sàng; mức glucose huyết tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl). - Mức glucose huyết tương lúc đói (nhịn ăn > 8-14 giờ) ≥ 7 mmol/l (126 mg/dl) trong 2 buổi sáng khác nhau. - Mức glucose huyết tương ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl) ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose máu bằng đường uống 75g đường. - HbA1c (định lượng bằng phương pháp sắc ký lỏng) ≥ 6,5% Như vậy sẽ có người chẩn đoán là ĐTĐ nhưng lại có glucose huyết lúc đói bình thường nên phải ghi vào chẩn đoán bằng phương pháp cụ thể. Ví dụ: Đái tháo đường typ 2 (Nghiệm pháp tăng đường huyết) [24]. 1.2.4.2. Chẩn đoán sớm đái tháo đường Chủ yếu là ĐTĐ typ 2 với các yếu tố nguy cơ: 7 - Người ở các quốc gia, dân tộc có tỷ lệ mắc ĐTĐ cao. - Người có huyết áp  140/90 mmHg, có rối loạn chuyển hóa lipid, nhất là triglycerid  250mg/dl (2,8 mmol/l), HDL-C ≤ 35 mg/dl (≤ 0,9 mmol/l), có béo phì [23], [25]. - Tiền sử: họ hàng huyết thống bậc 1 mắc ĐTĐ typ 2, giảm dung nạp glucose huyết, rối loạn đường huyết lúc đói, ĐTĐ thai nghén, sinh con > 4kg. 1.2.5. Biến chứng đái tháo đường 1.2.5.1. Biến chứng cấp tính - Hạ đường huyết: khi đường huyết < 2,8 mmol/l. Nhiều BN tăng đường huyết lâu, mới tiêm insulin sẽ có triệu chứng khi đường huyết 5-6 mmol/l. - Hôn mê toan ceton: gặp khi đường huyết >250 mg/dl (13,9 mmol/l). Đây là biến chứng có nguy cơ tử vong cao do tăng các hormon gây tăng đường huyết và thiếu hụt insulin (20-40% BN mới chẩn đoán vào viện vì biến chứng này). - Hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu: có nguy cơ tử vong cao, thường xảy ra ở BN ĐTĐ typ 2 có đường huyết > 600mg/dl (33,3 mmol/l). - Hôn mê nhiễm toan acid lactic: Thường gặp khi các tổ chức bị thiếu oxy trầm trọng, acid lactic được sản xuất tăng lên ở các tổ chức như cơ, xương và các tổ chức khác (Glucose huyết/ niệu không cao lắm) [14], [26]. 1.2.5.2. Biến chứng mạn tính của đái tháo đường Biến chứng này có thể gặp cả ở ĐTĐ typ 1 và typ 2 [17], [27]. a. Biến chứng vi mạch - Biến chứng mắt: Khoảng 20% bệnh nhân mới chẩn đoán đã có. - Biến chứng về thận: Bệnh cầu thận đái tháo đường, viêm hoại tử đài bể thận, tổn thương thận mất bù sau tiêm thuốc cản quang trong các thủ thuật... b. Biến chứng mạch máu lớn. - Bệnh lý mạch vành: thường gặp cơn đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim. - Tăng huyết áp: Thường gặp ở ĐTĐ typ 2 là 50%, ĐTĐ typ 1 là 30% [14]. 8 - Tai biến mạch máu não: Có thể là nhất thời, tiến triển dần, hoặc đột ngột. - Bệnh mạch máu ngoại biên: chủ yếu là viêm động mạch chi dưới. c. Biến chứng thần kinh: - Viêm đa dây thần kinh ngoại biên; bệnh đơn dây thần kinh; bệnh thần kinh tự động (hạ huyết áp tư thế, rối loạn nhịp tim, biến chứng bàn chân...) - Các biến chứng nhiễm khuẩn: ở da, niêm mạc, tiết niệu, sinh dục... 1.2.6. Điều trị bệnh đái tháo đường typ 2 Hiện chưa có phương pháp điều trị khỏi bệnh, các biện pháp nhằm giảm các triệu chứng lâm sàng, kiểm soát đường huyết ở mức tối ưu, làm chậm xuất hiện các biến chứng. Mục tiêu điều trị tùy thuộc vào từng BN: - HbA1c < 7% là mục tiêu chung cho cả ĐTĐ typ 1 và typ 2 - Đường huyết lúc đói duy trì ở mức 3,9-7,2 mmol/l (70- 130 mg/dl) - Đường huyết sau ăn 2 giờ < 10 mmol/l (< 180 mg/dl) - Điều trị các yếu tố nguy cơ: tăng huyết áp, rối loạn lipid máu…[23] 1.2.6.1. Chế độ ăn - Đủ chất đạm, béo, đường, vitamin, nước, muối khoáng với khối lượng hợp lý, đảm bảo nhu cầu calo theo giới, tuổi, nghề nghiệp, cân nặng lý tưởng (nam: 35 Kcalo/kg, nữ: 30 Kcalo/kg). Cân nặng lý tưởng = (chiều cao)² x 22 + Carbohydrat: chiếm 60-70% tổng số năng lượng (Kcal) hàng ngày, nên ăn các loại ngũ cốc toàn phần có đủ vitamin, chất xơ và muối khoáng. + Lipid: chiếm 15-20% khầu phần ăn phụ thuộc vào từng BN: thói quen ăn uống, tình trạng béo phì, rối loạn lipid máu, huyết áp, chỉ số glucose máu. + Protid: chiếm 10-20% năng lượng (0,8-1,2 g/kg/ngày). BN suy thận 0,6 g/kg, không dưới 0,5g/kg. Nên ăn: cá, đồ biển, thịt nạc, thịt gà, đậu… - Phân bố: 3 bữa chính hoặc 3 bữa chính và 2 bữa phụ nếu tiêm nhiều mũi insulin, ăn 1 bữa trước khi đi ngủ nếu tiêm 1 mũi insulin trước khi đi ngủ. - Không làm tăng đường huyết nhiều sau ăn, không làm hạ đường huyết lúc xa bữa ăn, đủ duy trì hoạt động thể lực bình thường hàng ngày. 9 - Duy trì cân nặng ở mức lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý. - Không làm tăng yếu tố nguy cơ: Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp… - Phù hợp với tập quán ăn uống theo địa dư, dân tộc và gia đình BN. - Đơn giản và không quá đắt tiền [14], [15], [28]. 1.2.6.2. Chế độ luyện tập Tập luyện giúp cơ thể tiêu thụ đường, có thể làm giảm liều insulin và các thuốc hạ glucose huyết, cải thiện hoạt động các cơ quan, giảm béo phì, làm cho tinh thần thoải mái, tăng sức đề kháng.  Nguyên tắc: - Tập từ từ và thích hợp, tăng dần đến khi ít nhất 30 phút/ngày và 5 ngày/tuần (được phép của thầy thuốc về mức độ và thời gian luyện tập). - Đề phòng hạ đường huyết khi tập và không tập khi đang mắc bệnh cấp tính, đường huyết quá cao, ceton máu tăng cao nhiều lần, ceton niệu dương tính nặng.  Hình thức luyện tập: Đi bộ, chơi thể thao, tập thể dục thường xuyên tùy hoàn cảnh mỗi người và phải được phép của thầy thuốc [29]. 1.2.6.3. Điều trị bằng thuốc Hiện nay thuốc điều trị đái tháo đường được sử dụng là insulin và các nhóm thuốc uống [27], [30], [31]: - Nhóm kích thích tụy bài tiết insulin   Sulfonylurea: Chỉ định: ĐTĐ typ 2 thể trạng gày, có thể phối hợp với insulin và nhóm thuốc uống khác (Metformin, TZD, Acarbose) [26], [32]. + Sulfonylurea thế hệ I: Tolbutamid, Carbutamid, Chlopropamid + Sulfonylurea thế hệ II: Glibenclamid (Daonil, Maninil...); Glipizid: (2,5-40 mg/ngày); Glyburid: (1,25-20 mg/ngày); Gliclazid: Predian 80mg (80-320 mg/ngày), Diamicron MR 30mg (30-120 mg/ngày); Glimepirid: Amaryl 1-2-3-4 mg (liều 1-8 mg/ngày). Chống chỉ định: ĐTĐ typ 1, suy tim, suy gan, suy thận, nhiễm trùng nặng, ĐTĐ có biến chứng cấp nặng. 10 Tác dụng phụ: Gây hạ glucose huyết, tăng cân.   Các thuốc nhóm không sulfonylurea: Meglitinid, Nateglinid. b. Các thuốc nhóm Biguanid: Thuốc làm giảm tân tạo glucose ở gan, ở tổ chức mỡ, ức chế hấp thu glucose ở ruột non, tăng giữ glucose ở cơ vân, ức chế tổng hợp lipid. Chỉ định: ĐTĐ typ 2 đặc biệt BN có thừa cân và béo phì. Chống chỉ định: ĐTĐ typ 1, nhiễm toan ceton, suy tim, bệnh gan, bệnh thận, có thai, ngay trước và sau phẫu thuật, tuổi > 70. Hiện trong nhóm chỉ còn sử dụng Metformin (Glucophage), liều từ 5002550 mg/ngày. Thuốc có thể gây rối loạn tiêu hóa và nhiễm toan lactic. c. Các thuốc nhóm ức chế enzym glucosidase (Acarbose): Thuốc làm chậm quá trình hấp thu carbohydrat ở ruột, làm giảm glucose huyết sau ăn, giảm HbA1c và không có tác dụng đối với glucose huyết lúc đói. Liều dùng: Glucobay 50/100mg: 50- 200 mg/ngày; Basen 0,2/0,3 mg: 0,2- 0,6 mg/ngày, Glyset 25/50/100 mg: 75- 300 mg/ngày. d. Nhóm nhạy cảm với insulin (Glitazones, Thiazolidinediones): e.Nhóm incretin: thuốc đồng phân GLP-1, ức chế DPP-4, đồng phân Amylin. g. Insulin: Insulin được tiết ra từ tế bào β của tụy. Trong điều trị, phần lớn insulin được sản xuất bằng phương pháp sinh học cao giống insulin người. 10-15% BN ĐTĐ typ 2 lúc đầu đã không đáp ứng với thuốc uống, hàng năm có thêm 5-10% BN không kiểm soát được đường huyết bằng thuốc uống song hiện chỉ có dưới 10% BN được dùng insulin. Đây là nguyên nhân một số trường hợp ĐTĐ cố ăn kiêng nhưng không giảm được đường huyết [28]. 1.3. QUAN ĐIỂM CỦA Y HỌC CỔ TRUYỀN (YHCT) VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 1.3.1. Đại cương về chứng tiêu khát YHCT không có bệnh danh “Đái tháo đường”. Với biểu hiện chủ yếu: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, người gầy dộc “Tam đa nhất thiểu” thì bệnh 11 nằm trong phạm vi chứng tiêu khát. “Tiêu”: chỉ thức ăn nước uống tiêu nhanh mau đói, uống nhiều; chỉ tiêu hao hun đốt tân dịch, tân dịch mất nuôi dưỡng, âm không thắng dương, nhiệt nội sinh; chỉ hình thể gầy, cơ nhục nhẽo, sút cân. Chứng “Tiêu khát” đã xuất hiện trong y văn YHCT từ rất sớm (khoảng thế kỷ VI – IV trước công nguyên trong Hoàng Đế - Nội kinh). Lúc đó căn cứ vào nguyên nhân và biểu hiện bệnh mà đặt tên như: “Tiêu khát, tiêu đơn, cách tiêu”, “Phế tiêu”, “Trung tiêu”, “Thực tiêu”... Sau căn cứ vào sự khác nhau của các triệu chứng mà quy nạp thành ba loại là thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu [33]. Nhiều tài liệu cổ đã đề cập như: “Kim quỹ yếu lược” nói: “Đàn ông tiêu khát, tiểu tiện nhiều, uống 1 đấu, đi tiểu 1 đấu”. “Ngoại đài bĩ yếu” nói: “Tuy ăn được nhiều, tiểu tiện nhiều nhưng gày mòn dần”[33]. Trong “Danh từ Đông y” định nghĩa tiêu khát là “Bệnh uống nhiều, đái nhiều, ăn nhiều mà người gầy rộc, có 3 thể bệnh gọi là thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu” [34]. Hải Thượng Lãn Ông viết: Ăn đồ béo thì tấu lý kín, dương khí không thoát ra ngoài nên sinh chứng nhiệt ở trong, chất ngọt có tính hòa hoãn. Nội nhiệt làm dương khí bốc lên nên ham uống, họng khô. Khí nghịch làm trung tiêu đầy, khí cũ tích càng nhiều, tỳ khí trào lên thành bệnh tiêu khát [35]. 1.3.2. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh chứng tiêu khát a. Nguyên nhân: Nguyên nhân gây bệnh có thể có một hoặc nhiều nguyên nhân phối hợp. - Tiên thiên bất túc: Bẩm tố khi sinh ra ngũ tạng đã hư nhược đặc biệt là thận, tỳ. Thận là gốc của tiên thiên, tỳ là gốc của hậu thiên. Thận dương hay thận khí ôn ấm giúp tỳ dương vận hóa tốt, thận tinh lại được tinh do tỳ sinh ra nuôi dưỡng, tỳ tổn thương thì không thể dưỡng thận nên thận tinh không đủ. Nếu ngũ tạng hư thì tinh khí không đủ, hao tổn, khí huyết nhược, dịch thì cạn kiệt nên sinh bệnh. 12 - Tình chí thất điều (ngũ chí quá độ): Lo, buồn, giận dữ, tình chí không thư thái khiến can khí uất kết, can mất sơ tiết gây ngưng trệ hoạt động. Bệnh lâu, khí uất thành nhiệt, nung đốt phần âm phế, vị. Công năng phế tốt thì nước uống vào vị, tinh khí của nước qua sự vận chuyển của tỳ lên phế. Phế táo, không thông điều thủy đạo, thủy dịch không nuôi cơ thể, dồn vào bàng quang nên khát nước, đái nhiều, đái ra đường. Sách Lâm chứng chỉ nam nói: “Trong tâm sầu uất, nội hỏa tự đốt lên, sinh chứng tiêu khát”[36]. - Ăn uống không điều độ (ẩm thực bất túc) Ăn nhiều đồ béo ngọt, cay nóng, uống rượu thái quá làm mất chức năng vận hóa của tỳ vị khiến thủy thấp đình trệ, trường vị tích nhiệt. Vị hỏa bốc lên nung đốt phế âm làm phế không dẫn được tinh hoa nuôi cơ thể nên gày yếu. Vị bị nóng đốt khiến thận âm hao tổn, cùng với nhiệt tiến triển thành thấp nhiệt, cản trở hoạt động sinh lý các tạng phủ và dễ tiến triển thành chứng tiêu khát. Bệnh thường gặp ở người ít vận động thể lực, béo phì, thừa dinh dưỡng. - Lam lũ quá nhiều hoặc an nhàn quá sức: Lao động bình thường trợ giúp khí huyết lưu thông, tăng cường thể lực. Nếu người vốn âm hư, tạng yếu lại lao động vất vả hoặc giao hợp nhiều làm hao tinh dịch, thận âm càng kém không giữ được tinh, tinh xuống dưới làm nước tiểu đục, ngọt. Âm hư hỏa vượng, nóng đốt phế, vị nên khát nước. Nếu nghỉ ngơi nhiều, không lao động khiến lưu thông khí huyết đình trệ, tỳ không vận hành tân dịch nên tân dịch không đủ hóa táo, gây bệnh. Tuyên minh ngũ khí thiên - Tố Vấn viết: “nằm lâu hại khí, ngồi lâu hại cơ nhục” nên có thể nói sự an nhàn cũng làm chức năng tỳ vị rối loạn. - Lạm dụng thuốc ôn táo kéo dài: Khi điều trị, lạm dụng thuốc dương dược hoặc bị bệnh mạn tính phải dùng lượng lớn và lâu dài các vị thuốc ôn táo sẽ làm tổn thương âm dịch dẫn đến táo nhiệt nội sinh, phần tân âm bị tổn thương mà sinh tiêu khát. Xưa có người 13 dùng “Tráng dương chí thạch” hoặc dùng thuốc tráng dương kéo dài để tăng hoạt động tình dục. Đây là loại thuốc rất táo nhiệt, hại chân âm mà sinh bệnh. - Ngoại cảm lục dâm: Phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa gây tổn thương tạng phủ làm tạng phủ hư yếu. Yếu tố lục dâm lâu ngày hóa nhiệt tổn thương âm dịch dẫn đến bệnh. Sách “Lâm chứng chỉ nam” nói: “Tam tiêu là một bệnh, tuy chia ra thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu thực ra không ngoài âm hư, dương cang, tân dịch khô kiệt gây nên” [33]. Âm hư chủ yếu thận âm hư khiến hỏa ở phế, vị mạnh nên tân dịch thiếu. Bệnh lâu ngày dẫn đến dương hư và cả âm dương đều hư. b. Cơ chế bệnh sinh tiêu khát Theo Hải Thượng Lãn Ông: "Bệnh tiêu khát phần nhiều do hoả làm tiêu hao chân âm, năm chất dịch khô kiệt mà sinh ra" trong đó 3 tạng phế, tỳ, thận là chủ yếu. Dù bệnh biểu hiện ở tạng nào thì giữa 3 tạng tỳ, phế và thận vẫn có quan hệ mật thiết với nhau [35]. Theo Tuệ Tĩnh: “Tiêu khát là chứng trên thì muốn uống nước, dưới thì ngày đêm đi đái rất nhiều. Nguyên nhân do dâm dục quá độ, trà rượu không chừng hoặc ăn nhiều đồ xào nướng, hoặc thường uống thuốc bằng kim thạch làm cho khô kiệt nước trong thận, khí nóng trong tâm cháy rực, tam tiêu nung nấu, ngũ tạng khô ráo, từ đó mà sinh chứng tiêu khát” [37]. Sự chuyển hóa bình thường của thủy dịch trong cơ thể được đảm bảo bởi sự hoạt động của tỳ, phế và thận. Nước uống vào vị, nhờ tỳ vận hóa lên phế, phế khí túc giáng đưa thủy dịch chảy xuống dồn vào thận. Tân dịch mà tỳ vận hóa gồm hai phần: tân và dịch. Tân trong được phế tuyên phát ra da, lông, cơ biểu; dịch đục được vào não tủy, các khớp, các màng. Sau khi sử dụng, tân dịch còn lại là cặn bã (trọc) theo tam tiêu xuống thận. Dưới tác dụng khí hóa của thận, các dịch trọc chuyển thành nước tiểu theo bàng quang ra ngoài. Nếu sự mất cân bằng hoặc tổn thương chức năng tạng phủ làm tân dịch không được phân bố và vận hành, phế không điều tiết quản lý tinh hoa trong tân 14 dịch, tân dịch không được quản lý sẽ bài tiết ra ngoài gây bệnh tiêu khát [7], [38]. Bệnh biểu hiện: - Uống nhiều: biểu hiện chính là miệng khô, họng táo, khát nước do nội nhiệt mạnh làm tổn thương vị âm, âm thiếu mà hỏa bốc, vị hỏa nung nấu lên trên làm tổn thương phế âm dẫn đến vị âm hư hoặc lao lực quá độ, hư hỏa tràn vào phế, vị khiến phế, vị âm hư nên phế táo, vị nhiệt. - Ăn nhiều có biểu hiện chính là mau đói, người gày mòn do: thức ăn tích lại thành nhiệt khiến dương minh nhiệt thịnh, tiêu đốt thủy cốc, ăn vào tiêu ngay và mau đói; can uất hóa hỏa, tiêu hao vị âm khiến tỳ, vị táo nhiệt nên thủy cốc tiêu, tân dịch hao; thận âm hư thiếu, hư hỏa bốc lên làm vị âm bị thương tổn. Tỳ, vị không vận hóa được, không hấp thu được tinh vi của thủy cốc, không nuôi nổi lục phủ ngũ tạng, kinh mạch nên gầy mòn, ăn nhiều mà vẫn gầy. - Đi tiểu nhiều lần, lượng nhiều do: thận âm yếu, hư hỏa bốc lên làm tổn thương phế âm, phế âm không điều tiết được, chất tinh vi của thủy cốc không phát tán ra khắp người mà chuyển vào bàng quang; thận dương yếu, mệnh môn hỏa suy, bàng quang không được khí hóa, chất trong không đưa lên phế, thủy không hóa hỏa mà vào bàng quang, uống bao nhiêu đi tiểu bấy nhiêu. 1.3.3. Phân thể lâm sàng và điều trị Theo “Hoàng đế Nội kinh tố vấn” và “Kim quỹ yếu lược ”, người xưa quan niệm chứng tiêu khát có 3 thể: thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Cả 3 thể này đều có các triệu chứng chủ yếu là ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều và gầy nhiều [39], [40]. Phép chữa mà Hải Thượng Lãn Ông nêu ra là: “thực hỏa thì tả thực, dùng các thuốc đắng lạnh để đánh cái hỏa; hư hỏa thì bổ, nếu hư vừa thì bổ huyết kiêm làm mất hỏa, nếu hư nặng phải bổ thủy để chế bớt hỏa; cần căn cứ vào mạch chứng mà dùng lục vị hay bát vị cho phù hợp” [35]. Theo Trương Chứng trong “Biện chứng kỳ văn” [5]: 15 - Bệnh thượng tiêu: mặt đỏ, hư phù, miệng lưỡi vỡ nát, yết hầu sưng đau thì dùng phương “Thanh thương chỉ tiêu đơn”. - Bệnh trung tiêu: khát nhiều, dễ đói, ăn thì khát giảm, dùng phương “Bế quan chỉ khát thang”. - Bệnh hạ tiêu: tiểu tiện nhiều, miệng thổ đàm trong, mặt nóng, môi đỏ, dùng phương “Dẫn long thang” hoặc miệng khô, lưỡi ráo, thổ đàm trắng như bọt cua, khí suyễn không nằm được, lúc khát phải uống nước nhưng uống vào lại hóa ra bọt trắng, dùng phương “Ninh phỉ thang”. - Người ăn uống mạnh, tiểu nhiều do tỳ khí hư nhiệt, dùng “Mật lương tán”. Bản chất của bệnh là miệng khát, uống nhiều, ăn nhiều, người gầy sút, đi tiểu nhiều. Lâm sàng lấy ba bộ vị: thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu để phân tích đưa ra pháp điều trị. Thực tế triệu chứng của ba bộ vị thường kết hợp chỉ biểu hiện các triệu chứng nặng nhẹ khác nhau ở mỗi thể [9].  Thể thượng tiêu: BN khát, muốn uống nước nhiều, môi khô, họng khô, lưỡi khô, tiểu nhiều lần số lượng nhiều, lưỡi hồng, rêu lưỡi mỏng vàng, mạch hồng sác. Pháp điều trị: thanh nhuận phế nhiệt, sinh tân, chỉ khát. Phương dùng bài “Bạch hổ gia nhân sâm thang”. Nếu biểu hiện phế âm hư rõ gia: Thiên môn, mạch môn để nhuận phế, thanh nhiệt.  Thể trung tiêu: BN ăn nhiều mà vẫn đói, hình thể gầy mòn, miệng khô, rêu lưỡi vàng khô, mạch thực và có lực, đại tiện táo. Pháp điều trị: thanh vị hỏa, dưỡng âm sinh tân dịch. Phương dùng bài: “Ngọc nữ tiễn”. Nếu BN có can hỏa vượng mạnh gia thêm: Hoàng cầm, chi tử để thanh can tả hỏa.  Thể hạ tiêu: BN đi tiểu nhiều lần với số lượng nhiều, nước tiểu như cao, mỡ, ngọt, lưỡi khô, miệng khô khát, uống nước nhiều, ngũ tâm phiền nhiệt (lòng bàn tay, bàn 16 chân nóng, ngực có cảm giác nóng), đầu váng đau, lưng gối đau mỏi, mạch trầm tế sác. Pháp điều trị: Tư bổ thận âm, sinh tân thanh nhiệt. Phương dùng: “Tri bá địa hoàng hoàn” gia: sa sâm, mạch môn, ngưu bàng. BN mệt nhiều, thở ngắn, khí âm lưỡng hư gia: Nhân sâm, hoàng kỳ, bạch truật. Nếu mắt mờ, ù tai gia: Kỷ tử, cúc hoa, thạch xương bồ. Nếu BN hồi hộp, mất ngủ gia: Toan táo nhân, bá tử nhân. Nếu thận âm dương lưỡng hư thì dùng “Kim quỹ thận khí hoàn”. Đặc điểm của 3 thể là âm hư, nhiệt táo và chú ý đặc biệt tới thận âm hư. vì thận là nguồn gốc của tân dịch và là nơi tàng trữ tinh vi của ngũ cốc. Phương pháp chữa lấy dưỡng âm thanh nhiệt, sinh tân là cơ sở [36]. Ngoài ra, cần chú ý chế độ ăn uống, tập luyện, tránh căng thẳng về mặt tinh thần. 1.3.4. Một số nghiên cứu điều trị chứng tiêu khát bằng thuốc thảo mộc trong những năm gần đây Ở Trung Quốc, nhân sâm Hàn Quốc (Panax ginseng) đã được dùng điều trị làm giảm đường huyết, cải thiện tâm trạng và tâm lý với liều 100-200 mg/ ngày; Nhựa thơm quả lê (Momodica chrantia) được sấy khô, làm thành bột với liều 18 g/ngày đã được chứng minh làm giảm glucose máu...[39]. Ở Việt Nam, có nhiều đề tài nghiên cứu điều trị ĐTĐ bằng thảo dược. Đỗ Thị Minh Thìn (1995) dùng chế phẩm từ mướp đắng kết hợp giữa Mướp đắng với Sinh địa điều trị 50 BN ĐTĐ typ 2 thấy 32% đạt kết quả tốt, 58% đạt kết quả trung bình, hiệu quả điều trị tương đương với Maninil [41]. Năm 2005, Dương Đăng Hiền đánh giá tác dụng của thuốc “Tiểu đường Đông Đô” trong điều trị ĐTĐ typ 2 chưa có biến chứng thấy sau 3 tháng điều trị: thuốc cải thiện tốt triệu chứng lâm sàng, làm giảm glucose huyết lúc đói 3,04 ± 0,21 mmol/l, glucose huyết lúc no 5,29 ± 1,25 mmol/l (p < 0,01), HbA1c giảm (p < 0,01), kết quả: loại tốt và khá đạt 70,9%, loại trung bình đạt 23,6%, kém đạt 5,5% [42], [43]. 17 Năm 2013, Trương Hoàng Kiên và cộng sự đánh giá khả năng kiểm soát đường huyết sau ăn của trà cỏ sữa trên BN ĐTĐ typ 2 thấy đường huyết sau ăn của ngày uống trà giảm so với ngày không uống (8,94 so với 10,63 mmol/l) tại thời điểm sau ăn 15 phút, 30 phút [44]. Năm 2014, Tiêu Ngọc Chiến đã nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết bằng cao lỏng “Thập vị giáng đường phương”. Thuốc có tác dụng hạ glucose và điều chỉnh rối loạn lipid máu trên BN ĐTĐ typ 2 mức độ nhẹ với kết quả tốt và khá đạt 85%, Glucose máu giảm (từ 8,02 ± 0,73 xuống 6,00 ± 0,66 mmol/L); HbA1c giảm (7,25 ± 0,84 xuống 6,23 ± 0,94%) [45]. 1.3.5. Tổng quan tài liệu thuốc "Tieukhatling" 1.3.5.1. Xuất xứ bài thuốc. Bài thuốc Tiêu khát linh (bài thuốc linh nghiệm điều trị chứng tiêu khát) được nhắc tới trong cuốn " Pharmacopoeia of the people’s republic of China", volume I, năm 2005 do Hội dược học Trung Quốc xuất bản [46]. Tác dụng điều trị: Dưỡng thận âm, sinh tân dịch, trừ khát, bổ khí. Thành phần bài thuốc. - Bạch linh 17g - Nhân sâm 10g - Hoàng kỳ 100g - Ngũ vị tử 15g - Hoàng liên 10g - Sinh địa 200g - Kỷ tử 100g - Thạch cao 50g - Mạch môn 100g - Thiên hoa phấn 100g - Mẫu đơn bì 15g 1.3.5.2. Tổng quan về các vị thuốc * Bạch linh (Poria) - Thể nấm đã phơi, sấy khô của nấm Phục linh (Poria cocos Wolf.), họ Nấm lỗ (Polyporaceae), mọc ký sinh trên rễ một số loài Thông [47], [48]. - Tính vị quy kinh: Vị ngọt nhạt, tính bình, vào 5 kinh tâm, phế, thận, tỳ, vị. - Tác dụng: Lợi thuỷ thẩm thấp, ích khí sinh tân, phục thần định tâm. 18 - Chủ trị: chữa tiểu tiện khó, thuỷ thấp, trướng mãn, hồi hộp, mất ngủ. - Thành phần: Các acid có thành phần hợp chất triterpenoid tác dụng hạ đường huyết. Ngoài ra còn ergosterol, cholin, histindin và ít men protease. - Tác dụng dược lý: hạ đường huyết, lợi tiểu, chữa hồi hộp mất ngủ. - Liều dùng: 9- 12 g/ngày * Câu kỷ tử (Fructus Lycii) Quả chín phơi hay sấy khô của cây Câu kỷ (Lycium barbarum L.), họ Cà (Solanaceae) [49], [50]. - Tính vị quy kinh: Vị ngọt, tính bình, vào 3 kinh phế, can và thận. - Tác dụng: Bổ can thận, nhuận phế táo, mạnh gân cốt. Dùng chữa chân tay yếu mỏi, mắt mờ, di mộng tinh. - Chủ trị: Thuốc bổ toàn thân, chữa bệnh đái tháo đường, lao, viêm phổi, mệt nhọc, gầy yếu, bổ tinh khí, giữ cho người trẻ lâu. - Thành phần hoá học: có chứa các thành phần có tác dụng hạ đường huyết (polysaccharid, betaine), có chừng 0,09% chất betain C5H11O2N. Ngoài ra còn có caroten, calci, phospho, sắt, vitamin C, acid xyanhydric. - Tác dụng dược lý: Tăng thực bào của hệ thống lưới nội mô, tăng bạch cầu ngoại vi, tăng thể dịch và tế bào miễn dịch, kích thích chức năng tạo huyết; giảm đường huyết và lipid huyết, ức chế lắng đọng mỡ ở gan và kích thích phục hồi tế bào gan, giảm huyết áp. - Liều dùng: 6-15g/ngày. * Hoàng kỳ (Radix Astragali membranacei) Rễ phơi hay sấy khô cây Hoàng Kỳ Mông Cổ (Astragalus membranaceus (Fisch.) Bge. var. mongholicus (Bge.) Hsiao, hoặc cây Hoàng Kỳ Mạc Giáp (Astragalus membranaceus (Fisch.) Bge.), họ Đậu (Fabaceae) [47], [48]. - Tính vị quy kinh: Ngọt, ấm vào kinh tỳ và phế. 19 - Tác dụng: Bổ khí, tăng dưỡng khí của tỳ, cầm mồ hôi, lợi niệu, tiêu viêm. - Chủ trị: Bổ tỳ (bổ trung ích khí) chữa chứng khí hư hạ hãm, mệt mỏi, ăn kém, ỉa chảy, sa trực tràng, cầm mồ hôi, phù thũng, hen suyễn, khí huyết lưỡng hư, tứ chi tê mỏi, trúng phong gây bán thân bất toại. - Thành phần hoá học: Các triterpene saponin (astragalosid I-X isoastragalosid I-IV) Polysaecarid (astragalan, astraglucan AMezm P), betain. - Tác dụng dược lý: + Betain gây hạ đường huyết, bảo vệ tế bào gan, chống giảm glycogen ở gan. + Tăng miễn dịch: tăng hoạt động thực bào, tăng tạo kháng thể, hoạt hoá đại thực bào, kích thích sinh interferon, chống virus, kháng khuẩn. + Với hệ tim mạch, dịch chiết hoàng kỳ làm giãn mạch ngoại vi, tăng sức đề kháng mao mạch, tăng khả năng và biên độ co bóp cơ tim ếch, bảo vệ cơ tim khỏi bị tổn thương do thiếu máu hoặc tái tưới máu gây ra. Các saponin tách từ hoàng kỳ có tác dụng cường tim chuột dựa trên hoạt động Na+- K+ ATPase. - Liều dùng: 9 – 30 g/ngày. * Hoàng liên (Rhizoma Coptidis) - Thân rễ phơi khô của nhiều loài Hoàng liên chân gà như Coptis chinensis Franch., Coptis quinquesecta Wang., hoặc Coptis teeta Wall., họ Hoàng liên (Ranunculaceae) [49]. - Tính vị quy kinh: đắng, hàn, vào kinh: tâm, can, đởm, vị, đại trường. - Tác dụng: Tả hoả, táo thấp, giải độc - Chủ trị: Chữa sốt, tả, lỵ (lỵ amip và lỵ khuẩn: uống 3-6g/ngày), tâm phiền, nôn ra máu, tiêu khát, đau mắt đỏ, loét miệng, ngộ độc do ba đậu, khinh phấn. BN huyết ít, khí hư, tỳ vị hư, trẻ con lên đậu, đi tả cấm dùng. 20 - Thành phần hoá học: Có chừng 7% alcaloid toàn phần trong đó chủ yếu là becberin. Ngoài ra còn có panmatin coptisin, woremin, columbamin. - Tác dụng dược lý: + Có tác dụng đối với trùng Staphyloccus areus với Streptococ hemolytique, thương hàn, phó thương hàn, lỵ, lao và 1 số trùng gây ra các bệnh mụn … + Đối với tiêu hoá: Trên thực nghiệm, becberin tăng tạm thời trương lực và co bóp của ruột chuột. Thuốc chữa rối loạn tiêu hoá, viêm dạ dày và ruột, lỵ. + Đối với hô hấp: Liều nhỏ kích thích sự hô hấp, liều cao làm cho hô hấp kémcó thể đi tới ngạt do tê liệt trung tâm hô hấp, tim vẫn tiếp tục đập. + Đối với tim và tuần hoàn: Tác dụng giảm huyết áp + Berberin có tác dụng hạ glucose máu [51], [52]. - Liều dùng: 4-8g/ngày, tán bột chế thành viên có hàm lượng 0,50g. * Mạch môn (Radix Ophiopogonis japonici) Mạch môn là rễ củ đã phơi hay sấy khô của Mạch môn đông (Ophiopogon japonicus (L.f.) Ker-Gawl.), họ Mạch môn đông (Convallariaceae) [49], [50]. - Tính vị quy kinh: Vị ngọt, hơi đắng, tính hơi hàn, vào 3 kinh tâm, phế, vị. - Tác dụng:Thanh tâm, nhuận phế, dưỡng vị, sinh tân, hoá đờm, chỉ ho. - Chủ trị: Dùng chữa hư lao, ho, thổ huyết, ho ra máu, miệng khô khát, bệnh nhiệt, tân dịch khô. Người tỳ vị hư hàn, đại tiện lỏng không được dùng. - Thành phần hoá học: Trong mạch môn người ta mới thấy có chất nhầy, chất đường. Mới đây có tác giả nói có glucose và . xitosterola. - Tác dụng dược lý: Dùng nước sắc hoặc cồn chiết xuất mạch môn pha vào dịch truyền cho thỏ thấy đảo Langerhans phục hồi nhanh, tăng dự trữ glycogen so với lô chứng. Ngoài ra, mạch môn còn có tác dụng kháng khuẩn, tăng huyết lượng động mạch vành, bảo vệ bệnh thiếu máu cơ tim, an thần. - Liều dùng: 6 – 12 g/ngày
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan