Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở huyện nhà bè, thành phố hồ chí ...

Tài liệu Bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở huyện nhà bè, thành phố hồ chí minh hiện nay

.PDF
94
18
64

Mô tả:

MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 1 2. Điểm luận các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................ 3 2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị ............... 3 2.2. Các công trình nghiên cứu về công tác bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ các cấp .................................................................................................... 5 2.3. Những tài liệu là những báo cáo, nghị định, nghị quyết của Ủy ban nhân dân, Đảng bộ huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................... 7 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................................... 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..................................................................... 8 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 9 6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................................. 10 7. Ý nghĩa của lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................................. 10 8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................................. 10 Chương 1. LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬNCHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ 1.1 Lý luận chính trị và vai trò của lý luận chính trị trong hoạt động thực tiễn .................. 11 1.1.1 Lý luận và lý luận chính trị ......................................................................................... 11 1.1.2 Vai trò của lý luận, lý luận chính trị trong hoạt động thực tiễn ................................. 14 1.2 Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay ............................................................................................................................... 15 1.2.1 Vị trí, vai trò của cán bộ cấp cơ sở trong hệ thống chính trị .................................... 15 1.2.2 Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã là nhiệm vụ quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam ................................................................................... 19 Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN NHÀ BÈ TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua ....................................... 32 2.1.1. Đặc điểm đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè hiện nay ...................................... 32 2.1.2. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè hiện nay ............................................................................................... 37 2.2 Những kết quả đạt được trong công tác bồi dưỡng, trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè thời gian qua ................................................. 42 2.2.1 Những thành công bước đầu trong công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè......................................................................... 42 2.2.2 Những hạn chế trong công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè ................................................................................................... 47 Chương 3 . NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP XÃ Ở HUYỆN NHÀ BÈ TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Những định hướng cơ bản nhằm nâng cao công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè ..................................................................................... 57 3.1.1. Tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong công tác giáo dục lý luận chính trị .............................................................................................. 57 3.1.2. Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp xã phải đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới .............................. 58 3.1.3. Bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã phải quán triệt quan điểm gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành .................................................................... 59 3.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè trong giai đoạn hiện nay.................................................... 60 3.2.1. Các giải pháp nhằm tăng cường sự chỉ đạo các cấp ủy đảng và Chính quyền về công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè ......................... 60 3.2.2. Các giải pháp nhằm đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè. .............................................................. 61 3.2.3. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho học viên là cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè .................................................................................................................................. 64 3.2.4. Phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của người cán bộ trong việc tham gia học tập các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị ở huyện Nhà Bè .............................. 67 3.2.5. Tăng cường các điều kiện đảm bảo cho việc liên kết đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp xã ở huyện Nhà Bè .......................................................... 68 3.3. Một số khuyến nghị ...................................................................................................... 70 KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 78 PHẦN PHỤ LỤC................................................................................................................. 81 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BCH : Ban chấp hành BCHTW : Ban chấp hành trung ương BDCT : Bồi dưỡng chính trị CNH : Công nghiệp hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội ĐBHĐND : Đại biểu Hội đồng nhân dân ĐVT : Đơn vị tính HĐH : Hiện đại hóa HĐND : Hội đồng nhân dân KHXH : Khoa học xã hội LLCT : Lý luận chính trị Nxb : Nhà xuất bản PGS.TS : Phó giáo sư. Tiến sỹ QĐ : Quyết định QLNN : Quản lý nhà nước STT : Số thứ tự THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc đưa đất nước bước sang một thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Trước mắt chúng ta, thuận lợi có nhiều song khó khăn thách thức cũng còn rất lớn. Những biến động về tình hình chính trị, kinh tế, tài chính trên thế giới và khu vực cùng với sự yếu kém của nền kinh tế đất nước đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề mới phức tạp. Trước yêu cầu thực tế đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trước bất kỳ tình huống nào”. Cách mạng càng phát triển, yêu cầu ngày càng cao, thì sự kém lý luận ở cán bộ, đảng viên càng trở nên nguy hại. Sự "thất bại" do thiếu lý luận mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến, không cân đong, đo đếm được, nhưng nguy hại khó lường, có thể dẫn đến mất "phương hướng", lạc hướng. Cán bộ ở cương vị càng cao mà thiếu lý luận thì mức độ nguy hại càng lớn. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết cán bộ, đảng viên phải học tập lý luận, "nghiên cứu thêm lý luận", và Người chỉ rõ đây là yêu cầu để họ trở thành "người cán bộ hoàn toàn". Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định, “Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp, đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình” [15]. Quan điểm này là căn cứ quan trọng định hướng công tác giảng dạy lý luận chính trị ở nước ta hiện nay. Phát triển quan điểm này, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng bổ sung nội dung: “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng; tăng cường đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Thực hiện có nền nếp công tác bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương, theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Trong quá trình tiến hành công tác tư tưởng, cần khắc phục những biểu hiện phai nhạt mục tiêu lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích nhóm hoặc cá nhân; kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, chống Đảng, chống chế độ xã hội chủ nghĩa của bọn cơ hội, thù địch” [16]. Điều này đã khẳng định vai trò của công tác đào tạo cán bộ, nhất là bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt các cấp đặc biệt quan trọng. Trong hệ thống chính trị - hành chính nước ta, đội ngũ cán bộ giữ một vị trí rất quan trọng. Họ là đầu mối giữ hệ thống chính quyền Nhà nước với các đối tượng quần chúng nhân dân; là cấp triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực tại địa phương. Cán bộ cũng chính là những người thực hiện vai trò quản lý và chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về mọi hoạt động tại địa bàn cơ sở. Vì vậy, đây là lực lượng đóng vai trò to lớn trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở, cũng như hoạt động thực thi công vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "công việc thành hay bại là do cán bộ tốt hay kém". Đảng ta luôn xác định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ. Do đó, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp xã luôn là khâu then chốt trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào. Từ những yêu cầu đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng vươn lên về mọi mặt, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ trong cả nước nói chung và của huyện của Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Một thực tế đang tồn tại là đội ngũ này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trưởng thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được đào tạo về lý luận một cách có hệ thống, nên ở họ thiếu những kiến thức lý luận cần thiết, thiếu trình độ tư duy lý luận. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn, không ít trong số họ sa vào bệnh chủ quan, giáo điều, kinh nghiệm, ảnh hưởng tiêu cực đến công việc chung cũng như kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở đại phương. Như vậy, bồi dưỡng và nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ là vô cùng quan trọng. Đây là một nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa lâu dài với những chiến lược, biện pháp và nội dung, hình thức phù hợp ở từng giai đoạn, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ ở huyện Nhà Bè, TPHCM. Huyện Nhà Bè cũng là nơi quá trình CNH, HĐH diễn ra mạnh mẽ, kéo theo những biến động lớn về dân số, biến đổi về đời sống văn hóa, làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế, xã hội cũng như vấn đề quản lý dân cư, quản lý sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội cấn được nhận thức và giải quyết hợp lý. Điều này phụ thuộc vào trình độ, năng lực nhận thức lý luận, chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng và đề ra những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm bồi dưỡng và nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới kinh tế - xã hội của Huyện theo hướng phát triển toàn diện và vững chắc. Với tính cấp thiết đó, tôi chọn đề tài: “Bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sỹ. Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, tồn tại và xây dựng hệ thống pháp trong công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ nâng cao trình độ lý luận chính trị, biết vận dụng sáng tạo các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước vào công tác lãnh đạo, điều hành, thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương. 2. Điểm luận các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đề cập vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Không có lý luận chính trị thì chí khí kém cương quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng” [22]. Trong điều kiện hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên càng mang tính cấp thiết. Vì vậy đã có nhiều tác giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Có thể nêu một số chuyên đề, tác phẩm của các tác giả tiêu biểu theo các nhóm chủ đề dưới đây. 2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị Trước tiên có thể kể đến tác phẩm của Tô Huy Rứa (2011): “Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ chức của Đảng trong thời kỳ đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong tác phẩm này tác giả đã nêu lên công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém, chậm được khắc phục. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn diễn biến phức tạp. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa thực sự đi vào chiều sâu, một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Cùng đề cập đến nội dung công tác bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị, tác giả Đào Duy Quát (2007) đã rất tâm huyết với cuốn sách “Hồ Chí Minh với công tác giáo dục lý luận chính trị”. Ngoài việc giới thiệu tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng con đường Việt Nam, cuốn sách còn xác định rõ nội dung và nhiệm vụ học tập lý luận chính trị cũng như vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị. Đề tài cấp Bộ mã B.08 – 22 do PGS.TS Ngô Ngọc Thắng (Chủ nhiệm đề tài), (2008), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường chính trị nước ta giai đoạn hiện nay” Đề tài cấp Bộ mã B.08 – 23 do PGS.TS Ngô Ngọc Thắng (Chủ nhiệm đề tài), (2008), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay”. Hai công trình trên của tác giả Ngô Ngọc Thắng chủ nhiệm, đã khái quát các luận điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục lý luận chính trị, khảo sát thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào công tác giáo dục lý luận chính trị hiện nay, đề xuất giải pháp vận dụng tư tưởng về giáo dục lý luận chính trị vào giáo dục lý luận chính trị hiện nay. Cuốn sách “Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị” của tác giả Phạm Huy Kỳ (2010) cũng được coi là một nguồn tài liệu hữu ích cho tác giả. Bởi nội dung cuốn sách trình bày một số vấn đề lý luận và phương pháp của công tác nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục lý luận chính trị của Đảng ta hiện nay, từ đó tác giả đối chiếu với công tác bồi dưỡng lý luận chính trị tại huyện Nhà Bè để có những nhận định khách quan hơn. Cùng bàn luận về vấn đề công tác giáo dục lý luận chính trị, đã có nhiều bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành. Đây là những bài viết có ý nghĩa khoa học rất lớn, giúp tác giả hiểu sâu hơn về cơ sở lý luận của vấn đề cần nghiên cứu. Có thể liệt kê một số bài viết như: "Quan hệ giữa lý luận và chính trị" của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí Cộng sản, số 8/1992; "Mấy vấn đề trong công tác lý luận" của Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí Công tác tư tưởng văn hóa, số 7/1992; "Góp phần bàn thêm về khái niệm chính trị" của Hồ Tấn Sáng, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 5/1995. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các Trường chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi, Tạp chí Triết học, số 1/1993. Đáng chú ý có bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên”, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 11 năm 1999. Nội dung bài viết đã đề cập đến nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đã có chuyển biến tích cực, thấy rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong việc học tập lý luận chính trị. Ngoài ra, những nghiên cứu về bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị cho các đối tượng khác nhau cũng được nhiều tác giả quan tâm. Đề tài cấp Bộ mã B.09-27 do PGS.TS Trần Thị Anh Đào làm chủ nhiệm đề tài: “Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay” đã làm rõ khái niệm lý luận chính trị, phân tích vai trò của giáo dục lý luận chính trị đối với sinh viên; tác giả đã đã nắm vững tâm sinh lý của sinh viên, kết hợp lý luận và thực tiễn khảo sát đưa ra phân tích có cơ sở, cần thiết và thuyết phục; nhìn thẳng vào thực tế: mặt tốt - xấu của sinh viên để có những đánh giá và đưa ra những giải pháp, định hướng nâng cao giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên đúng đắn và mang tính khả thi cao. Cùng đề cập đến vấn đề này là Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hà (2014), “Đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tác giả đã trình bày tương đối hệ thống những nội dung cơ bản về đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, có thể kể đến tác phẩm của tác giả Lương Ngọc Vĩnh (2012), “Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học viện quân sự ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Nội dung luận án luận giải, làm rõ hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các Học viện quân sự. Đồng thời tác giả cũng nhấn mạnh cần bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chí, phương pháp, hình thức đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các Học viện Quân sự hiện nay. Trên cơ sở khảo sát thực trạng sự tương quan giữa kết quả với mục đích và sử dụng nguồn lực công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các Học viện Quân sự, khái quát được các mâu thuẫn cần giải quyết để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Tác giả đã đề xuất được 4 nhóm giải pháp theo hướng huy động tối đa tiềm năng của các Học viện Quân sự một cách hợp lý, tiết kiệm để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng. 2.2. Các công trình nghiên cứu về công tác bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ các cấp Liên quan đến chủ đề này có thể nêu các tác phẩm và các tác giả tiêu biểu như sau: Cuốn sách của Vũ Ngọc Am (2003),“Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở” đã nêu rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thời kỳ đổi mới; phân tích thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công giáo dục lý luận chính trị ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu là các đề tài luận văn thạc sỹ: "Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ chủ chốt cơ sở miền núi Hòa bình" của Bùi Văn Tính, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995; "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt miền núi hiện nay" của Đỗ Cao Quang, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1996; "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay" của Trần Thị Yên Ninh, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1998; "Nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên trong công cuộc đổi mới hiện nay" của Hoàng Thị Xuân Thanh, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1998; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay" của Vũ Đình Chuyên, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2000. Trần Hải Yến (2014), “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng bộ xã, thị trấn ở Huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. Huỳnh Thanh Hải (2005), “Chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ phường ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. Phạm Tấn Ba (2014), “Vai trò công tác tư tưởng trong việc giữ vững ổn định chính trị xã hội ở Huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. Điểm chung ở các tác phẩm này đều đề cập đến công tác giáo dục lý luận chính trị thời gian qua đạt nhiều thành quả quan trọng, góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền vững. Công tác giáo dục lý luận chính trị có nhiều chuyển biến tích cực, đi vào nền nếp hơn, mở rộng phạm vi, đối tượng và có nhiều cố gắng đổi mới về nội dung, phương thức, góp phần củng cố và nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội, việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, Đảng viên là cần thiết, cấp bách. Các tác giả cũng nhấn mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ quan trọng của Ðảng. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, gắn học tập với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tư cách người cách mạng. Đề tài “Những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành chương trình trung cấp lý luận chính trị trong các trường đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước ở tỉnh, thành phố đến năm 2000” của Thạc sỹ Tống Trần Sinh - đề tài cấp bộ, tháng 4 năm 1995. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này góp phần xây dựng chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị cho Trường chính trị tỉnh, thành phố và các trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện, đáp ứng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Đề tài 0206 - KHXH “Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộcấp huyện thuộc diện tỉnh ủy quản lý trong thời kỳ phát triển mới của Tỉnh Hà Tĩnh” (Cơ quan chủ trì: Ban tuyên giáo tỉnh ủy, chủ biên: Nguyễn Thiện,tháng 6 năm 2006). Đề tài này đề cập đến một số nội dung bồi dưỡng lý luận chính trị, phân tích tầm quan trọng và vai trò của công tác cán bộ trước yêu cầu mới, đặc biệt là trình độ của cán bộ, chủ yếu là cán bộ cấp huyện ở Hà Tĩnh. 2.3. Những tài liệu là báo cáo, nghị định, nghị quyết của Ủy ban nhân dân, Đảng bộ huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh Đảng bộ huyện Nhà Bè (2015), “Báo cáo Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2015”. Báo cáo này đã đề cập đến một số vấn đề mức độ biểu hiện, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên của huyện Nhà Bè. Đảng bộ huyện Nhà Bè (2017), “Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay””. Báo cáo đã nhận định, đánh giá cụ thể những ưu điểm, khuyết điểm của những yếu tố tác động cũng như quá trình quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Đồng thời đề ra giải pháp trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi và phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và Nhân dân đối với Đảng bộ huyện Nhà Bè. Đảng bộ huyện Nhà Bè (2017), “Báo cáo tiến độ triển khai thực hiện kế hoạch số 76KH/TU của Ban Thường vụ Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII”. Qua đó đã đề ra phương hướng cần phải kiên trì giáo dục, thuyết phục, đấu tranh, phê phán những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng bộ huyện Nhà Bè (2013, 2016), “Báo cáo Sơ kết 3 năm và Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hai báo cáo này chỉ rõ: công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một giải pháp quan trọng để làm tốt công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, tích cực phòng chống suy thoái tư tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trên địa bàn huyện Nhà Bè. Đảng bộ huyện Nhà Bè (2017), “Báo cáo Sơ kết 01 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 05CT/TW về đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Báo cáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập và làm theo Bác sẽ có sức lan tỏa mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, từ đó đề ra giải pháp thực hiện gắn với công tác bồi dưỡng tư tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Qua các công trình trên, các tác giả đã đề cập đến thực trạng công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, giáo dục ý thức, niềm tin chính trị, giáo dục đạo đức, truyền thống yêu nước cho cán bộ các cấp. Có tác phẩm cũng đã đề cập đến việc đổi mới phương pháp giáo dục các môn lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin là một trong những yếu tố quan trọng nhằm đổi mới công tác bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức chính trị cho cán bộ chủ chốt các cấp. Tuy nhiên tác giả nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu có tính hệ thống và chuyên sâu về bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ , cụ thể là cán bộ huyện Nhà Bè, TPHCM nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ , luận văn phân tích thực trạng và đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ ở huyện Nhà Bè trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích trên, luận văn phải đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu, phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ . - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ ở huyện Nhà Bè, TPHCM trong thời gian qua. - Xác định phương hướng và đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ ở huyện Nhà Bè trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là: Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở huyện Nhà Bè, TPHCM hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Thị trấn Nhà Bè và 6 xã Hiệp Phước, Long Thới, Nhơn Đức, Phú Xuân, Phước Kiển và Phước Lộc. - Các số liệu sử dụng được tính từ 2012 đến nay. Thời gian khảo sát: tháng 10/2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.Đồng thời, đề tài có tiếp thu và kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó đặc biệt chú trọng các phương pháp phân tích và tổng hợp, logíc và lịch sử, tổng kết thực tiễn, thống kê, điều tra, khảo sát, lấy ý kiến chuyên gia... Ngoài ra, tác giả còn áp dụng phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch để triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ trong thực tiễn, đặc biệt là các kiến nghị hoàn thiện vấn đề. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn nghiên cứu, phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác này ở huyện Nhà Bè, TPHCM. Qua đó, tác giả trình bày phương hướng và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ ở huyện Nhà Bè, TPHCM trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa của lý luận và thực tiễn của luận văn Những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp cấp ủy, Ban Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Nhà Bè nghiên cứu, vận dụng vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên, cán bộ các cấp. Những kết luận được rút ra qua nghiên cứu và những chủ trương, giải pháp trình bày trong luận văn sẽ góp phần nâng cao trình độ cả lý luận lẫn thực tiễn cho đội ngũ cán bộ huyện ở TPHCM nói chung, của huyện Nhà Bè nói riêng. Đồng thời đây cũng là tài liệu để tham khảo phục vụ cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cho Ủy ban nhân dân TPHCM cũng như công tác đào tạo lý luận chính trị của các Trường chính trị. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên cứu áp dụng hình thức giáo dục lý luận chính trị ở nhà trường, Trung tâm bồi dưỡng chính trị. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ 1.1 Lý luận chính trị và vai trò của lý luận chính trị trong hoạt động thực tiễn 1.1.1 Lý luận và lý luận chính trị Lý luận Lý luận được xem là một phạm trù khoa học phản ánh hiện thực khách quan, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của trí tuệ loài người trên mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo Từ điển Triết học: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy được trong quá trình lịch sử”; là “Hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức” [44, tr.526]. Dưới góc độ nghiên cứu của Triết học thì lý luận được nhìn nhận một cách tổng quan trên phạm vi rộng, có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của loài người. Lý luận cũng là sự tổng hợp những tri thức tự nhiên và xã hội được tích lũy trong quá trình lịch sử phát triển nhân loại. Do đó, trong quá trình hoạt động cách mạng cũng như nghiên cứu của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [23, tr.499]. Mọi lĩnh vực đời sống tự nhiên, xã hội, tư duy khi đã trở thành đối tượng nghiên cứu của con người thì kết quả của quá trình nghiên cứu ấy đều được thể hiện dưới hình thức tri thức lý luận với trình độ khái quát hóa nhất định. Lý luận hiểu theo nghĩa chung nhất là các khái niệm, phạm trù, quy luật được khái quát từ nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận là kết quả nhận thức chủ quan của con người về những hiện tượng khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Lý luận xuất phát từ thực tiễn và có vai trò định hướng, soi đường cho hoạt động thực tiễn. Từ điển tiếng Việt lại đưa ra khái niệm “Lý luận là tổng kết có hệ thống những kinh nghiệm của loài người phát sinh từ thực tiễn để chi phối và cải tạo thực tiễn” [47, tr.496]. Trên cơ sở tham khảo các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, với đề tài luận văn này, tác giả thống nhất tiếp cận quan điểm Lý luận như sau: Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn khách quan thông qua hoạt động tư duy của con người, được biểu đạt dưới dạng các khái niệm, phạm trù, quy luật, tư tưởng, quan điểm,... nhằm góp phần giúp con người chi phối và cải tạo thực tiễn, áp dụng vào quá trình xây dựng và phát triển xã hội loài người. Lý luận chính trị Thông qua việc hình thành khái niệm về lý luận nói chung thì lý luận chính trị (LLCT) là bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận của nhân loại giới hạn trong lĩnh vực chính trị, phản ánh mối quan hệ của các giai cấp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà nước. Nói cách khác, LLCT là hệ thống tri thức về lĩnh vực chính trị. Thông qua hệ thống tri thức này thể hiện thái độ và lợi ích giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội có giai cấp, là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn chính trị của nhiều người, qua nhiều thế hệ. Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống tri thức lý luận – chính trị của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản. Đó là một hệ thống hoàn chỉnh và khoa học gồm 3 bộ phận hợp thành là Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Được xây dựng trên cơ sở tiếp thu một cách chọn lọc những tinh túy của các khoa học triết học, mà trực tiếp là triết học cổ điển Đức, đại diện là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩ duy vật của Phoiơbăc; kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp cùng với sự tổng kết kinh nghiệm từ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một biến chuyển cách mạng vĩ đại trong khoa học tự nhiên và xã hội. Đánh giá về học thuyết của Mác, Ăngghen khẳng định, Mác đã nêu ra hai phát hiện vĩ đại nhất, đó là: quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư. Bằng phát hiện thứ nhất, Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới, chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người. Với phát hiện thứ hai, Mác đã vạch rõ quy luật riêng biệt của sự vận động phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của xã hội tư bản nói chung. Học thuyết của Mác không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học, đúng đắn mà còn có khả năng cải tạo thế giới. Đánh giá về những giá trị của học thuyết Mác, Lênin đã khẳng định: "…lý luận đó là lý luận lần đầu tiên đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học lý luận đó đã dựng nên cơ sở vững chắc cho khoa học ấy và vạch rõ con đường mà chúng ta cần phải theo" [46, tr.230], "Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của một đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng… là tổ chức cuộc đấu tranh đó mà mục đích cuối cùng là giai cấp vô sản giành lấy chính quyền và tổ chức xã hội XHCN" [46, tr.231]. Có thể khẳng định học thuyết của Mác là học thuyết cách mạng và khoa học, đồng thời là vũ khí lý luận giúp cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh cải tạo xã hội, đưa xã hội ngày càng phát triển. Dưới góc độ nghiên cứu đã tổng hợp LLCT của những giai cấp cầm quyền, trong đó có giai cấp vô sản nói chung, đồng thời, khẳng định vai trò quan trọng của LLCT trong quá trình đấu tranh giành độc lập của các phong trào trên thế giới nói chung. Bên cạnh đó, LLCT cũng là nền tảng cơ bản cho quá trình xây dựng và phát triển xã hội của mỗi một giai cấp nói chung. Từ đó khẳng định vai trò của LLCT trong quá trình áp dụng vào thực tiễn. Theo Lênin, lý luận có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” và “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [23, tr.497]. Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [20, tr.268]. LLCT của giai cấp vô sản là sự khái quát tri thức nhân loại và tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ đắc lực cho việc giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia, dân tộc. Với tác phẩm “Cơ sở lý luận công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, PGS.TS Lương Khắc Hiếu đã nhìn nhận và đưa ra một khái niệm tổng thể về “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội được khái quát từ nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn được diễn đạt dưới dạng các khái niệm, phạm trù, quy luật, học thuyết”. Thông qua nghiên cứu của mình tác giả đã khẳng định lý luận được xem là kết quả nhận thức chủ quan của con người về các sự kiện, hiện tượng trong thế giới khách quan. Đồng thời, thông qua nghiên cứu của mình, tác giả cuốn sách này đã khẳng định: “Lý luận chính trị là cơ sở lý luận trực tiếp cho việc hoạch định đường lối, chính sách và là sản phẩm chủ yếu của công tác lý luận trong công tác tư tưởng”[28, tr.29]. Ở Việt Nam, LLCT được mở rộng thêm với việc nghiên cứu về Lịch sử Đảng, Xây dựng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước - pháp luật và một số môn lý luận cơ bản khác.Cùng với các lý luận khoa học khác, LLCT đã thực sự trở thành một khoa học hướng dẫn cho Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động hoàn thành sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình. 1.1.2 Vai trò của lý luận, lý luận chính trị trong hoạt động thực tiễn Với những đặc trưng cơ bản trên, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn, Lênin đã từng khẳng định: "Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” [45, tr.30]. Hay cụ thể hoá hơn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" [21, tr.243]. Có thể nêu vai trò của lý luận đối với thực tiễn qua những nội dung sau: Giúp con người nhận thức đúng đắn thế giới khách quan. Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc biệt của con người tác động vào thế giới khách quan nhằm cải tạo biến đổi nó phục vụ cho con người, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để hoạt động này có hiệu quả, con người cần phải nhận thức đúng đắn thế giới khách quan cùng với những quy luật vận động nội tại của nó, từ đó hướng sự vận động đi theo đúng quỹ đạo thúc đẩy xã hội phát triển. Lý luận khoa học đã trang bị đầy đủ những tri thức cần thiết cho con người để thực hiện điều này. Dự báo, đưa ra những phương hướng, giải pháp hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, chỉ dẫn cho hoạt động cải tạo hiện thực của con người. Lý luận khoa học trên cơ sở nghiên cứu, phát hiện ra xu hướng vận động phát triển của các sự vật, hiện tượng, không những giúp con người nhận thức được quy luật vận động của thế giới khách quan, của xã hội mà còn có khả năng dự báo, vạch ra những phương hướng, biện pháp để thực hiện việc cải tạo, biến đổi nó đi theo những mục tiêu đã định nhằm phục vụ cho lợi ích của con người, của xã hội. Vì vậy, lý luận không chỉ giúp con người cải tạo thế giới, mà còn giúp con người thực hiện hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế" [21, tr.233]. Xây dựng, hình thành thế giới quan, phương pháp luận để con người nhận thức và cải tạo thế giới. Nói về vai trò của lý luận đối với thực tiễn, Mác cũng chỉ rõ: "Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [3, tr.580]. Thực tế đã xác minh điều đó. Lý luận là dạng hoạt động tinh thần, thuộc hình thái ý thức xã hội, nhưng khi được thâm nhập vào quần chúng, nó đã thực sự trở thành sức mạnh vật chất. Nhờ có lý luận chỉ dẫn cho hoạt động thực tiễn, con người hoàn toàn chủ động trong hoạt động của mình, trên thực tế, tăng thêm sức mạnh vật chất để chiến thắng tất cả những khó khăn trở ngại, đạt được mục tiêu cơ bản của cách mạng. Dưới góc độ chính trị - xã hội, Mác nói điều này còn có một ý nghĩa rộng lớn hơn. Đó là, khi nhận thức đúng đắn quy luật vận động của xã hội, quần chúng lao động biết phải đấu tranh với ai, chống lại thế lực nào, bằng con đường biện pháp gì thì dù họ có yếu cũng trở thành một lực lượng có sức mạnh vô địch có thể nhấn chìm mọi thế lực phản động, để giải phóng mình và mở đường cho xã hội phát triển. Từ ý nghĩa quan trọng đó, Lênin cũng đã khẳng định: "Chỉ có đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò của một chiến sỹ tiên phong" [45, tr.32]. Đại hội lần thứ VII của Đảng ta lần đầu tiên đã chính thức khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [11]. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị (khóa VII) tiếp tục khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và cho cách mạng Việt Nam”. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định nước ta kiên trì đi lên con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [14]. 1.2 Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ hiện nay 1.2.1 Vị trí, vai trò của cán bộ trong hệ thống chính trị Quan niệm về cán bộ Đội ngũ cán bộ có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở cũng như trong hoạt động thi hành công vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền nói riêng và hệ thống chính trị nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ . Vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, văn hóa, có đạo đức lối sống trong sạch, có trí tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực thi chức năng, nhiệm hiệm vụ theo đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và phục vụ nhân dân... là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Trong Đề tài KHXH 05.03 “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm cho rằng: "Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, có vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức" [33, tr.20]. Đồng thời, đề tài cũng xác định khái niệm cán bộ có thể được dùng trên hai khía cạnh khác nhau: cán bộ theo nghĩa chung nhất là công chức, nhưng đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo. Dưới góc độ cán bộ là "người chỉ huy", "người phụ trách", "người lãnh đạo", đề tài trên đã xác định rất rõ những yếu tố để có thể cấu thành người cán bộ là: - Là khung, là nòng cốt của chế độ mới, của hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế, hệ thống văn hoá của đất nước. Trong cỗ máy công nghiệp, dây chuyền liên quan đến nhiều bộ phận, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Sự chuyển động của xã hội được coi như một "cỗ máy" khổng lồ. Trong "cỗ máy" đó, cán bộ là dây chuyền, "cầu nối" giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Đây là một "dây chuyền" đặc biệt. Bởi vì, cán bộ phải đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Như vậy, nếu cán bộ dở thì một mặt chính sách không thể thực hiện được, mặt khác việc hoạch định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc không phù hợp. - Là chỉ huy, phải có trình độ giác ngộ chính trị cao, đạo đức cách mạng tốt, có chuyên môn giỏi. Đã là cán bộ cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng. Giữ được đạo đức cách mạng mới là người cán bộ chân chính. Bởi vì, mọi việc thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Với tinh thần đó, đạo đức cách mạng là nguồn động lực giúp cán bộ vượt qua mọi khó khăn, cám dỗ, thử thách. Hơn thế nữa, đạo đức cách mạng và chủ nghĩa xã hội là một cuộc đồng hành. Một khi chưa trừ bỏ được chủ nghĩa cá nhân thì chưa thể nói tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể khẳng định được mình với tư cách là một chế độ xã hội ưu việt khi cùng với sự phát triển của kinh tế, của lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ, là những tiến bộ của đời sống tinh thần và giá trị đạo đức, nhân văn phải trở thành nhu cầu sống cao đẹp của mỗi con người và toàn xã hội. - Là nòng cốt, thể hiện bản lĩnh kiên định, vững vàng trước mọi khó khăn, thực sự là nòng cốt, lực lượng chủ chốt trong một tổ chức. Bản lĩnh kiên định ở đây là cán bộ phải đi trước, làm gương về tư tưởng, đạo đức, thái độ, lề lối làm việc. Muốn phát huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng chục triệu người, thì cán bộ phải đi trước, tự cải tạo mình, tự nâng cao mình. Cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản vững chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao; phải rửa sạch ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện tinh thần và ý thức tập thể. Từ quan niệm trên, tác giả xác định các chức danh cán bộ gồm có các chức danh như: 1, Bí thư, phó Bí thư Đảng ủy; 2, Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; 3, Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân. Cơ sở để xác định các chức danh cán bộ trên đây là Pháp lệnh cán bộ công chức của Nhà nước quy định. Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức mới được sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khoá XI thông qua có hiệu lực từ 1-7-2003 quy định: "Những người do bầu cử đảm nhận nhiệm vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng uỷ, người đứng đầu các tổ chức chính trị xã hội … là cán bộ chủ chốt. Họ là những người thuộc cán bộ công chức nhà nước". Từ những nhận định trên có thể thấy cán bộ cấp xã có những đặc trưng cơ bản sau: - Là người được ủy thác của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị . - Là người giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong hệ thống chính trị nói chung. - Là người bầu cử, tuyển chọn, bổ nhiệm, đề bạt hay phân công công tác. Là người được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dungvà chất lượng công tác. Vị trí, vai trò của cán bộ cấp xã trong hệ thống chính trị Có thể đánh giá vị trí, vai trò của cán bộ cấp xã trên một số khía cạnh sau: - Đội ngũ cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở cơ sở.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan