Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình theo pháp luật việt nam....

Tài liệu Bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình theo pháp luật việt nam.

.PDF
124
3
81

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TỐ NGA BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2021 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TỐ NGA BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN Hà Nội – 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Tố Nga i MỤC LỤC Trang phụ bìa LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... iv MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH ......................................................................8 1.1. Nhận thức chung về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ...............8 1.1.1. Khái niệm bình đẳng giới ..................................................................................8 1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ..........................10 1.2. Cơ sở của việc quy định pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ......................................................................................................................11 1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa, xã hội của đất nước ..........................11 1.2.2. Đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật quốc tế về bình đẳng giới .............13 1.2.3. Bảo vệ và thực thi quyền con người ...............................................................15 1.2.4. Đảm bảo quyền tự do dân chủ và lợi ích của các thành viên trong gia đình ..17 1.2.5. Thực hiện mục tiêu bình đẳng giới thực chất..................................................18 1.2.6. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế xã hội một cách bền vững ................................20 1.3. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ..........................21 1.3.1. Góp phần xóa bỏ phân biệt đối xử về giới ......................................................21 1.3.2. Góp phần xóa bỏ định kiến giới ......................................................................23 1.3.3. Góp phần hình thành mối quan hệ bình đẳng, dân chủ, yêu thương, tôn trọng lẫn nhau trong gia đình ..............................................................................................24 1.3.4. Góp phần xây dựng, hình thành nhân cách của các thành viên trong gia đình .....25 1.3.5. Góp phần phòng, chống bạo lực gia đình và bảo vệ quyền lợi của trẻ em, phụ nữ 26 1.4. Pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình .....................................................................................................28 1.4.1. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ..........28 1.4.2. Pháp luật một số nước về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ..36 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................39 ii CHƢƠNG 2. NỘI DUNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ......40 2.1. Bình đẳng giới trong việc kết hôn ......................................................................40 2.2. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa vợ và chồng ................................................46 2.2.1. Bình đẳng giới trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng ............................46 2.2.2. Bình đẳng giới trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng ..................................52 2.2.3. Bình đẳng giới trong việc ly hôn .....................................................................61 2.3. Bình đẳng giới giữa cha và mẹ trong quan hệ đối với con cái ...........................67 2.3.1. Bình đẳng giới giữa cha và mẹ trong quan hệ nhân thân đối với con .............67 2.3.2. Bình đẳng giới giữa cha và mẹ trong quan hệ tài sản đối với con ..................73 2.4. Bình đẳng giới giữa anh, chị, em với nhau ........................................................75 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................79 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..............80 3.1. Thực tiễn thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ..............80 3.2. Những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong việc thực hiện bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình hiện nay ......................................................................................88 3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay ....................................93 3.3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình .....................................................................................................................93 3.3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ............................................................................................................97 3.3.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ở nước ta hiện nay .............................................103 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ......................................................................................111 KẾT LUẬN ............................................................................................................112 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................114 iii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt HN&GĐ Nghị định 70 Nguyên nghĩa Hôn nhân và gia đình Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP Thông tư 01 ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình CEDAW Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ iv MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bình đẳng giới luôn là vấn đề được Liên hợp quốc và cả thế giới quan tâm. Từ khi thành lập đến nay, Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 cùng nhiều công ước quốc tế liên quan đến quyền con người, quyền bình đẳng giới, nổi bật như: Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979… Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền cùng các công ước này đều khẳng định mọi người có quyền bình đẳng như nhau, không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo… Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã luôn cho thấy sự quan tâm đặc biệt đến việc đảm bảo quyền con người nói chung, đảm bảo bình đẳng giới nói riêng. Năm 1930, ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cao tư tưởng nam nữ bình quyền và được công nhận ngang hàng nhau về chính trị. Tuy còn non trẻ nhưng điều này cho thấy nhận thức tiến bộ của Đảng vượt khỏi quan niệm phong kiến tồn tại hàng trăm năm với tư tưởng trọng nam khinh nữ và các tư tưởng lạc hậu, khắt khe khác. Trải qua quá trình thành lập, phát triển cho tới nay, quan điểm tôn trọng quyền con người, đề cao bình đẳng nam nữ của Nhà nước ta càng được thể hiện rõ hơn khi thông qua Hiến pháp, các Bộ Luật, Luật, Nghị quyết, chính sách… ghi nhận các nội dung liên quan tới bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng hay các biện pháp phòng chống xâm phạm quyền bình đẳng giới như Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới… Bên cạnh đó, nước ta tích cực tham gia các công ước quốc tế về quyền con người, triển khai nhiều chính sách quan trọng mang lại quyền lợi bình đẳng giữa mọi người, đồng thời tuyên truyền, giáo dục để thay đổi quan niệm, tư duy của nam giới và nữ giới. Nhiều nội dung về bình đẳng giới liên quan đến các lĩnh vực khác của đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội cũng được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. 1 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Chúng ta làm cách mạng để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau” [33]. Đặc biệt trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, vấn đề giới, bình đẳng giới là vấn đề nóng và đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Gia đình là tế bào của xã hội, nơi nuôi dưỡng các mầm non tương lai của đất nước, nơi thể hiện bản sắc văn hóa, truyền thống của dân tộc. Sự bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình là nền tảng xây dựng gia đình hạnh phúc. Gia đình có êm ấm thì xã hội mới phát triển. Nhận thức được điều này, Nhà nước đã có những thay đổi trong chính sách, pháp luật về vấn đề bình đẳng giới theo các thời kỳ để đáp ứng sự phát triển của xã hội, đáp ứng mục tiêu chung của toàn nhân loại và đã đạt được những thành tựu nhất định như: là một trong các quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua, dẫn đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương về các chỉ số bình đẳng giới thông qua việc cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục tới trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ, nam giới, tỷ lệ mù chữ của nữ giới so với nam giới ngày càng giảm…[13]. Tuy nhiên, nước ta đã trải qua chế độ phong kiến lâu dài với sự ảnh hưởng của nhiều tư tưởng lạc hậu, địa hình phần lớn là đồi núi, có nhiều khu vực vùng sâu vùng xa phát triển không đồng đều, nhiều dân tộc thiểu số… nên việc thực thi và bảo đảm bình đẳng giới còn gặp nhiều khó khăn, tình trạng bất bình đẳng giới còn diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả hôn nhân, gia đình. Các vấn đề nóng như mang thai hộ, quyền liên quan tới hôn nhân của những người đồng tính, song tính, chuyển giới, lựa chọn giới tính cho con… cũng là những thách thức đang cần phải giải quyết. Muốn khắc phục tình trạng trên trước hết cần có một hành lang pháp lý vững chắc. Hiện nay, pháp luật của nước ta cũng đã có những quy định cụ thể về vấn đề bình đẳng giới trên nhiều lĩnh vực như lao động, dân sự, HN&GĐ… Các văn bản pháp luật này quy định rõ quyền bình đẳng nam nữ trong những lĩnh vực tương ứng, các chế tài xử phạt vi phạm, các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử… Tuy nhiên pháp luật về bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới 2 trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình nói riêng còn bộc lộ một số thiếu sót, hạn chế nhất định, có những điểm chưa phù hợp với thực tế dẫn đến khó áp dụng và thực thi. Vì vậy cần có nghiên cứu, góp ý để hoàn thiện. Bên cạnh đó, việc tham gia các công ước quốc tế cũng đặt ra nghĩa vụ pháp lý với đất nước ta khi cần phải tôn trọng, đảm bảo thực thi quyền bình đẳng giới trên lãnh thổ Việt Nam và trên mọi lĩnh vực trong đó có hôn nhân, gia đình. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật về bình đẳng giới và thực tiễn thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ở nước ta hiện nay là cần thiết để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập, phát triển của đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình nói riêng đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí, trên các trang thông tin điện tử đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan, có thể kể đến như: - ThS. Trần Thị Lan: “Xác định cha, mẹ, con dưới góc độ bình đẳng giới” đăng trên trang https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/01/06/8353-2/. Bài viết nhấn mạnh tới quyền bình đẳng trong quan hệ HN&GĐ mà trọng tâm là quyền xác định cha, mẹ, con trên cơ sở bình đẳng giới. Theo tác giả Trần Thị Lan, dưới góc độ bình đẳng giới việc xác định cha, mẹ, con chủ yếu thể hiện ở quyền sinh con và quyền xác định cha, mẹ, con. - Trần Thị Quốc Khánh: “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012. Luận án đã xây dựng cơ sở lý luận và chỉ ra đặc điểm của việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quyền bình đẳng nam, nữ và về vai trò của phụ nữ trong đời sống xã hội. Luận án cũng đưa ra giải pháp thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam. - Nguyễn Thị Hoàng Giang: “Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014. Luận văn nghiên cứu toàn diện các chế định về hôn nhân gia 3 đình trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam từ góc độ bình đẳng giới, đánh giá những tiến bộ đạt được, tác động tích cực đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em. Luận văn chỉ ra những hạn chế của pháp luật HN&GĐ trong việc bảo vệ quyền con người, quyền bình đẳng giới và đưa ra giải pháp khắc phục. - Lê Thu Thảo: “Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình tại Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014. Luận văn bổ sung và phát triển thêm vấn đề lý luận về quyền bình đẳng của phụ nữ, tạo cơ sở khoa học để nghiên cứu hoàn thiện, nâng cao bình đẳng giới về hôn nhân gia đình ở Việt Nam. - Đặng Thị Bích Huệ: “Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Luận văn đã đưa ra tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. Luận văn cũng phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong các lĩnh vực này và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình. - Nguyễn Thị Thu Dung: “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội năm 2018. Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, chỉ ra các kết quả đạt được cũng như yếu kém trong thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và nêu giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả pháp luật về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu pháp luật về bình đẳng giới, tôi lựa chọn đề tài: "Bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học với mong muốn sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình. Qua đó góp phần phát hiện những hạn chế, thiếu sót của pháp luật về bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân - gia đình nói riêng cũng như những khó khăn, vướng mắc 4 trong quá trình thực thi bình đẳng giới ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình; thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình là vấn đề rộng và được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và Luật Bình đẳng giới năm 2006 điều chỉnh về bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình. Trong phạm vi của luận văn, bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân được nghiên cứu qua quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ gia đình được nghiên cứu trong phạm vi gia đình hạt nhân là quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa anh, chị, em với nhau. Quan hệ giữa ông bà với các cháu, giữa cô, cậu, chú, bác, dì với cháu không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn. Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình trên thực tế, các hành vi vi phạm bình đẳng giới trong gia đình và việc xử lý các hành vi này. Thực tiễn thực hiện được nghiên cứu từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực. 4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 4.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình; thực trạng quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, Luật Bình đẳng giới năm 2006 về bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình và thực trạng thực hiện, xử lý các hành vi vi phạm bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình. 5 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn phải giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình; cơ sở và ý nghĩa của quy định pháp luật về bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình; phân tích khái quát pháp luật quốc tế cũng như pháp luật một số nước về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình. Thứ hai, phân tích, đánh giá nội dung bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và Luật Bình đẳng giới năm 2006. Thứ ba, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình; việc xử lý các hành vi vi phạm quyền bình đẳng giới trong gia đình; đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng: Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình. Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp lý hay không, có thành tựu hạn chế gì, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so với quy định liên quan hoặc pháp luật quốc tế… Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển khai nhận xét, đánh giá thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình; đưa ra kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình và tạo cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. Luận văn nghiên cứu toàn diện quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay; phân tích được thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình; chỉ ra thành tựu, hạn chế và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình. Những kiến nghị này cũng là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích trong công tác giảng dạy, học tập của đội ngũ giảng viên, sinh viên và các cá nhân, tổ chức quan tâm. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:  Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình  Chương 2: Nội dung bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình theo quy định của pháp luật hiện hành  Chương 3: Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện vấn đề này ở Việt Nam hiện nay 7 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH 1.1. Nhận thức chung về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình 1.1.1. Khái niệm bình đẳng giới Để tìm hiểu khái niệm bình đẳng giới, trước hết cần phải làm rõ khái niệm giới và giới tính. Giới và giới tính là hai thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày, giữa chúng có sự khác biệt nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo quy định tại Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006, “giới tính” và “giới” được định nghĩa như sau: - “Giới tính” là khái niệm chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ. Giới tính chỉ những đặc điểm sinh học tự nhiên của nam và nữ gắn liền với các yếu tố cơ bản quy định chức năng sinh sản của nam, nữ đó là các yếu tố: hooc môn sinh dục nam, hooc môn sinh dục nữ; nhiễm sắc thể giới tính; cấu trúc bộ phận sinh dục trong và ngoài. Giới tính có tính chất bẩm sinh, biến đổi tuân theo quy luật sinh học, gắn liền với mỗi cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi; có tính chất đồng nhất thể hiện ở những đặc điểm sinh học của nam hay nữ đều giống nhau ở mọi nơi hay mọi nhóm dân cư; có tính chất bất biến và không thể thay đổi theo thời gian như chỉ có phụ nữ mới có khả năng mang thai, sinh con… Giới tính là sản phẩm của quá trình tiến hóa tự nhiên về mặt sinh học của con người, không bị thay đổi do tác động của thời gian, môi trường hay xã hội [16, tr5]. - “Giới” là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Giới là khái niệm mới xuất hiện trong khoa học về giới ở các nước nói tiếng Anh vào cuối những năm 60 và ở nước ta vào những năm 80 của thế kỷ 20 [45, tr12]. Không giống như giới tính, giới được hình thành trong quá trình sống, học tập và phát triển của con người và chịu sự ảnh hưởng của quan niệm xã hội, sự phân công lao động trong xã hội. Giới biểu hiện thông qua các hành vi được hình thành 8 từ sự dạy dỗ của gia đình, nhà trường, xã hội, được định hướng theo quan niệm mà xã hội mong muốn, góp phần định hình khuôn mẫu hành vi của nam giới, hay nữ giới. Ví dụ: nam giới đảm nhận các việc lớn như dựng nhà dựng cửa, làm các công việc khó khăn đòi hỏi nhiều sức lao động; nữ giới làm công việc chăm sóc con cái hoặc các việc khác như nội trợ, trang trí nhà cửa… Giới có những đặc điểm cơ bản như: không mang tính bẩm sinh, di truyền mà thể hiện các đặc điểm xã hội của nam và nữ, được hình thành do quá trình xã hội hóa xá nhân, do giáo dục, học hỏi… tức là bị quy định bởi các điều kiện sống của cá nhân và xã hội trong từng hoàn cảnh cụ thể; giới có sự khác nhau, đa dạng giữa các vùng miền, quốc gia, có sự biến đổi theo không gian, thời gian dưới tác động của các yếu tố xã hội. Có thể thấy, giới tính chỉ sự khác nhau về mặt sinh học giữa nam và nữ, do các quy luật tự nhiên chi phối, còn giới chỉ sự khác nhau trong quan niệm, cách nhìn nhận của xã hội về vị trí, vai trò của người nam và người nữ trong các mối quan hệ xã hội, giới có nguồn gốc xã hội và do các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội chi phối [16, tr9]. Vì vậy, thực hiện bình đẳng giới là làm thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò của nam nữ trong các mối quan hệ xã hội, để nam nữ có quyền lợi trách nhiệm như nhau, xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới, để nam và nữ được thụ hưởng chất lượng cuộc sống, các lợi ích từ sự phát triển như nhau trong cuộc sống. Khái niệm giới tính và giới là cơ sở để hiểu rõ về khái niệm bình đẳng giới. - “Bình đẳng giới” được định nghĩa tại khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006. Quyền bình đẳng nam nữ được đề cập đến khá sớm và phổ biến trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam. Trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, tuy không đưa cụm từ “bình đẳng giới” vào tuyên ngôn hay giải thích ý nghĩa của “bình đẳng giới” nhưng đã có những nội dung nói về quyền bình đẳng như: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái” [25, Điều 1] hay “Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền 9 bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn” [25, Điều 16]. Bình đẳng giới cũng được ghi nhận ngay trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của Việt Nam là Hiến pháp 2013, cụ thể: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” [41, Điều 26]. Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006 định nghĩa: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”. Bình đẳng giới không chỉ đề cập đến sự cân bằng số lượng giữa nam và nữ trong một công việc hay một lĩnh vực mà được hiểu là nam hay nữ đều có vai trò ngang nhau, đều được tạo điều kiện như nhau để có thể phát huy các kỹ năng, năng lực của mình vào việc xây dựng, phát triển gia đình, xã hội và được thụ hưởng về thành quả làm ra. Có thể hiểu, bình đẳng giới là việc thừa nhận, coi trọng như nhau những đặc điểm khác nhau giữa nam và nữ, tạo điều kiện, cơ hội cho nam và nữ phát huy năng lực của mỗi người phù hợp với đặc điểm giới tính của mỗi giới, nhằm đảm bảo cho nam và nữ được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống như nhau, được thụ hưởng bình đẳng thành quả của sự phát triển. 1.1.2. Khái niệm bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình Hôn nhân là sự liên kết giữa người nam và người nữ, được gọi là vợ chồng, được pháp luật công nhận. Từ trước đến nay, trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về hôn nhân do sự khác nhau về tôn giáo, nền văn hóa, lịch sử phát triển. Theo thời gian, khái niệm hôn nhân dần được điều chỉnh, thay đổi, có thể mở rộng hơn hoặc thu hẹp đối tượng. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành giải thích kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật HN&GĐ về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn [42, Điều 3]. Nói tới quan hệ hôn nhân là nói tới việc xác lập quan hệ vợ chồng, bình đẳng giới trong hôn nhân tức là bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng. Quan hệ hôn nhân, gia đình là quan hệ phát sinh trong bất kỳ thời kỳ nào, tại bất kỳ thời điểm nào hay chế độ nào. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014: 10 “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” [42, Điều 3]. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi con người gắn bó với nhau có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng mà làm phát sinh các quyền nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật. Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ và chồng, con trai và con gái, các thành viên nam và nữ trong gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau, quyền được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của gia đình như nhau, quyền được thụ hưởng về thành quả phát triển của gia đình và xã hội ngang nhau, quyền được tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và của gia đình [16, tr136]. Theo quan điểm cá nhân, bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình có thể hiểu là: sự bình đẳng trên thực tế giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân, sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ giữa con trai, con gái, giữa các thành viên nam và nữ trong gia đình, trên cơ sở được tạo điều kiện, cơ hội phù hợp với đặc điểm đặc thù về giới tính của mỗi giới, nhằm đảm bảo cho thành viên nam và nữ trong gia đình đều có thể phát huy khả năng của mình như nhau cho sự phát triển của gia đình, có quyền như nhau trong việc tham gia bàn bạc và ra quyết định các vấn đề của gia đình và được hưởng các lợi ích từ sự phát triển của gia đình một cách công bằng như nhau. 1.2. Cơ sở của việc quy định pháp luật về bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình 1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa, xã hội của đất nước Đất nước ta trải qua chế độ phong kiến lâu đời với sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, do vậy tư tưởng phụ quyền là nguyên tắc chính trong các quan hệ hôn nhân, gia đình. Theo đó, quyền được xác lập và ưu tiên hơn cho đàn ông (cha, chồng, con trai...) còn phụ nữ trong gia đình (mẹ, vợ, con gái…) không được hoặc ít được hưởng quyền hoặc phải phụ thuộc vào quyền của người đàn ông trong gia đình. Không chỉ vậy, tư tưởng trọng nam khinh nữ tồn tại xuyên suốt hàng nghìn 11 năm, người phụ nữ trong gia đình mặc nhiên phải có sự hi sinh, phải lao động vất vả, là người làm nội trợ, không được học hành, thi cử… không có tiếng nói ngay cả trong gia đình và xã hội. Quan niệm “phu xướng, phụ tùy”, “thuyền theo lái, gái theo chồng”… đã trở thành nguyên tắc phổ biến về ứng xử và xác định quyền trong gia đình truyền thống ở Việt Nam. Dưới chế độ phong kiến, đàn ông được học hành, thi cử, tham gia các mối quan hệ xã hội, được quyền “năm thê bảy thiếp”, còn phụ nữ không được tiếp cận tri thức, còn phải chịu các lễ giáo khắt khe, không được tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội… Điều đó cho thấy sự bất bình đẳng khi nhìn nhận vai trò, vị trí của người đàn ông và phụ nữ trong xã hội phong kiến trước đây. Việt Nam xuất phát điểm là một nước nông nghiệp ở phương Đông, thuộc nền văn minh lúa nước. Do vậy, nhiều gia đình vẫn làm công việc đồng áng, và người phụ nữ vừa phải gánh vác công việc đồng áng, vừa làm nội trợ vừa chăm sóc con cái. Lao động vất vả nhưng năng suất thấp và thu nhập thấp đã ảnh hưởng tới địa vị của người phụ nữ trong gia đình và cả xã hội. Phụ nữ chiếm đa số lực lượng lao động nông nghiệp và những hoạt động không chính thức nên thu nhập thấp hơn so với nam giới. Làm nông nghiệp có tính chất mùa vụ và phụ thuộc nhiều vào thời tiết, do vậy thu nhập của họ cũng bấp bênh hơn. Ngay trong lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù là lực lượng lao động chính nhưng phụ nữ ít được đào tạo để có kỹ năng, kiến thức cần thiết làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả công việc. Phụ nữ ít được tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi... ít được tham gia các mối quan hệ xã hội hơn đàn ông. Bên cạnh đó, tuy điều kiện kinh tế nước ta có nhiều cải thiện hơn trước nhưng hiện tại vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển.Vì vậy mà vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình hay xã hội vẫn còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ và bị chi phối sâu sắc bởi các khuôn mẫu giới, vai trò giới truyền thống. Về tự nhiên, phần lớn diện tích nước ta là đồi núi (chiếm ¾ lãnh thổ, địa hình đồng bằng và đồi núi thấp dưới 1000m chiếm 85% diện tích), địa hình chia cắt mạnh, nhiều sông suối, hẻm vực, sườn dốc… gây trở ngại giao thông, khó xây dựng 12 đường sá, dân cư ít và phân tán. Nhiều dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa chưa được hoặc ít được tiếp cận với xã hội hiện đại, các thông tin đa chiều hay quy định của pháp luật, chủ yếu vẫn tồn tại cách sống theo phong tục tập quán của dân tộc họ từ lâu đời. Có nhiều phong tục tập quán có tác động tích cực tới bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình như khuyến khích xây dựng mối quan hệ vợ chồng bền vững, kẻ nào mà xúi giục gây xung khắc giữa vợ chồng thì phải đền tội (dân tộc H’mông); khuyến khích phụ nữ tham gia các hoạt động sinh hoạt cộng đồng (dân tộc Thái) [46, tr56]. Nhưng bên cạnh phong tục tập quán tốt đẹp còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu như tục bắt vợ (dân tộc H’mông), ngủ thăm (dân tộc Thái), tảo hôn, bắt con cái kết hôn sớm để có thêm người làm nương làm rẫy, hôn nhân cận huyết… [46, tr56]. Những hủ tục nêu trên ảnh hưởng rất lớn đến quyền của phụ nữ, trẻ em. Việc kết hôn sớm, sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên ảnh hưởng không tốt tới cả sức khỏe của mẹ và bé. Trẻ em phải kết hôn sớm nên việc học hành bị trì hoãn hoặc ngừng lại, không được hoặc ít được tiếp thu các nguồn tri thức hiện đại, đa dạng hay nền giáo dục tiên tiến. Điều này dẫn đến trình độ làm việc không cao nên nguồn thu nhập thấp, không đóng góp được kinh tế cho gia đình và là một trong những nguồn cơn của sự đói nghèo, đồng thời cũng làm suy giảm vị thế, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Do đó, để đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em, xóa đói giảm nghèo cho các hộ gia đình vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện cho nam giới và nữ giới thuộc tất cả các dân tộc trên đất nước được tiếp cận các nguồn tri thức như nhau, tham gia vào đời sống cộng đồng, xã hội thì việc quy định về bình đẳng giới trong hôn nhân, gia đình là rất cần thiết. 1.2.2. Đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật quốc tế về bình đẳng giới Để đảm bảo thực hiện được mục tiêu bình đẳng giới thì mỗi quốc gia, mỗi nhà nước đều cần có các công cụ đắc lực hỗ trợ mà hiệu quả nhất chính là sử dụng pháp luật. Sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước nhằm đảm bảo bình đẳng giới, trong đó có đảm bảo bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình là một trong những mục tiêu hàng đầu. 13 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 lần đầu tiên khẳng định sự bình đẳng về các quyền giữa phụ nữ và nam giới. Quyền bình đẳng của phụ nữ chính thức được thừa nhận trong pháp luật quốc tế khi Liên hợp quốc ra đời. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 cũng đã xác lập nguyên tắc nền tảng là tất cả mọi người đều được hưởng tự do, bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào. Tiếp sau Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, rất nhiều công ước quốc tế đã được Liên hợp quốc thông qua để bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em gái như: Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957, Công ước về kết hôn tự nguyện, tuổi kết hôn tối thiểu và việc đăng ký kết hôn năm 1962, Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979… Các công ước nêu trên đã góp phần xác lập vị thế bình đẳng của phụ nữ với nam giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có các quan hệ hôn nhân, gia đình. Cụ thể trong quan hệ hôn nhân, gia đình, Điều 16 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 khẳng định: “Nam và nữ khi đủ tuổi, không hạn chế về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo, đều có quyền kết hôn và lập gia đình. Họ có quyền được hưởng những quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân và sau khi hôn nhân tan vỡ”. Theo Tuyên ngôn này, nam và nữ hoàn toàn có quyền bình đẳng như nhau trong việc kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân hay ngay cả khi ly hôn. Tại Nghị quyết 843 (IX) ngày 17/12/1954, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã tuyên bố rằng, những tập quán, luật lệ và hủ tục liên quan đến HN&GĐ không phù hợp với những nguyên tắc quy định tại Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền cần được xóa bỏ. Hay “Mọi cuộc hôn nhân sẽ được coi là tiến hành trái pháp luật nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cả hai bên” [26, Điều 1]. Việc ghi nhận quyền bình đẳng giới vào các văn bản pháp luật quốc tế cho thấy Đại hội đồng Liên hợp quốc và nhiều quốc gia trên thế giới rất coi trọng, đề cao việc đảm bảo bình đẳng giới, trong đó có nội dung bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân, gia đình. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là lồng ghép nội dung 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan