ĐẠ
Ơ
ĐẠII HỌC CẦN TH
THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH
ÂN VĂN
NHÂ
Ữ VĂN
BỘ MÔN NG
NGỮ
TR
ẦN LAM VY
TRẦ
MSSV : 6106374
ỂU TƯỢ
NG TRONG TÁC PH
ẨM
BI
BIỂ
ƯỢNG
PHẨ
ỂN
KAFKA BÊN BỜ BI
BIỂ
CỦA MURAKAMI HARUKI
ận văn tốt nghi
Lu
Luậ
nghiệệp đạ
đạii học
ữ Văn
Ng
Ngàành Ng
Ngữ
ng dẫn : TR
ẦN VŨ TH
Cán bộ hướ
ướng
TRẦ
THỊỊ GIANG LA
Cần Th
ơ, 2013
Thơ
ĐỀ CƯƠNG
ỂU TƯỢ
NG TRONG TÁC PH
ẨM
BI
BIỂ
ƯỢNG
PHẨ
KAFKA BÊN BỜ BI
ỂN CỦA MURAKAMI HARUKI
BIỂ
ẦN MỞ ĐẦ
U
PH
PHẦ
ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
ẦN NỘI DUNG
PH
PHẦ
ƯƠ
NG 1
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
NH
NHỮ
1.1 Giới thuyết về khái niệm biểu tượng
1.1.1 Giới thuyết chung về biểu tượng
1.1.2 Biểu tượng trong văn học
1.2 Tác giả Murakami Haruki
1.2.1 Cuộc đời
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác
1.3 Tác phẩm Kafka bên bờ bi
biểển
1.3.1 Tóm tắt nội dung tác phẩm
1.3.2 Giải thưởng và dư luận
ƯƠ
NG 2
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
ỂU TƯỢ
NG TRONG TÁC PH
ẨM
Ý NGH
NGHĨĨA NỘI DUNG CỦA BI
BIỂ
ƯỢNG
PHẨ
2.1 Bản thể con người
2.1.1 Hình ảnh con quạ
2.1.2 Hình ảnh linh hồn sống, giấc mơ
2.1.3 Hình ảnh cái bóng
2.2 Nỗi sợ hãi và sự dung hòa với định mệnh
2.2.1 Mặc cảm Oedipus
2.2.2 Phức cảm Genji
2.3 Thực tại phức diện
2
2.3.1 Thế giới cửa vào
2.3.2 Johnnie Walker, đại tá Sanders và cây sáo thu hồn
2.3.3 Phiến đá cửa vào
2.4 Tính hệ thống của các biểu tượng trong tác phẩm
ƯƠ
NG 3
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
Ệ THU
ẬT XÂY DỰNG BI
ỂU TƯỢ
NG TRONG TÁC PH
ẨM
NGH
NGHỆ
THUẬ
BIỂ
ƯỢNG
PHẨ
3.1 Nghệ thuật sử dụng yếu tố huyền ảo
3.2 Thủ pháp huyền thoại và giải huyền thoại
3.3 Thủ pháp phân mảnh
3.4 Phép liên văn bản
ẦN KẾT LU
ẬN
PH
PHẦ
LUẬ
3
PH
ẦN MỞ ĐẦ
U
PHẦ
ĐẦU
4
ọn đề tài
1. Lí do ch
chọ
Người Việt Nam biết đến nền văn hóa Nhật Bản đã từ rất lâu, một trong những
nền văn hóa lâu đời và độc đáo của thế giới. Chúng ta cảm thấy gần gũi với cách sống
giản dị hòa mình vào thiên nhiên, thú vị với sự tinh tế nhẹ nhàng, thanh thoát nhưng
cũng không khỏi cảm phục trước sự mạnh mẽ và quyết liệt của những võ sĩ đạo. Nền
văn hóa ấy chứa đựng những sự đối lập nhưng không mâu thuẫn nhau, mà ngược lại,
chúng lại hòa quyện và phát triển có khi đến mức cực đoan tạo thành một sự nét đặc
trưng không nơi nào có được. Nói đến văn hóa, một lẽ hiển nhiên không thể không nói
đến văn chương. Đã từ lâu chúng ta biết đến đến văn học thời Heian, đến thơ Haiku,
cho đến những nhà văn hiện đại như Kawabata Yasunari, Akutagawa Ryunosuke,
Soseki Natsume, Ogai Mori hoặc gần đây hơn là Oe Kenzaburo hay Abe Kobo. Qua
những tác phẩm của họ, một Nhật Bản kì bí đến gần hơn với chúng ta cùng với sự
phong phú qua các cách kể riêng của mỗi người. Một Nhật Bản rõ ràng và có đời sống
riêng từ xa xưa đến những năm sau thế chiến thứ hai chấn động thế giới. Đấy là tiền đề
để những nhà văn sau này tiếp tục phát triển nền văn học thành công rực rỡ đó với hai
giải Nobel văn học danh giá.
Văn học Nhật Bản đương đại nổi lên ba cây bút nổi tiếng mà báo chí vẫn
thường gọi là tổ hợp “hai Murakami và một Banana” (bao gồm Murakami Haruki,
Murakami Ryu và Banana Yoshimoto), trong đó không thể phủ nhận Murakami
Haruki là nhà văn có sức ảnh hưởng lớn không chỉ trong khuôn khổ Nhật Bản mà cả
trên toàn thế giới. Nước Nhật hiện nay phát triển rất mạnh sau những thất bại của cuộc
thế chiến, là một đất nước đầy năng động và sáng tạo khiến mọi người phải ngưỡng
mộ và kính phục. Thế nhưng, đằng sau vẻ ngoài đầy hào nhoáng đó còn có những ẩn
ức không nói nên lời. Murakami Haruki hiểu được mặt trái ấy, để từ kinh nghiệm và
tài năng của mình, ông kể những câu chuyện một cách tài tình mà không phải ai cũng
làm được. Trong một thế giới càng ngày càng phẳng như hiện nay, câu chuyện về Nhật
Bản đồng thời cũng là câu chuyện chung về thân phận con người. Chính vì thế, những
tác phẩm của ông có sức lay động mạnh mẽ vào cảm xúc của độc giả. Ông thành công
ở cả hai mảng, truyện ngắn và tiểu thuyết nhưng lại được biết đến nhiều hơn ở thể loại
tiểu thuyết. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và vẫn đang
được liên tục dịch và xuất bản. Thế nhưng, chỉ gần đây bạn đọc Việt Nam mới được
tiếp cận với sách của ông, tuy nhiên cũng đủ tạo ra một cơn sốt Murakami thật sự, nhất
5
là ở giới trẻ. Vì sự mới mẻ này mà ở Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu
sâu của giới học thuật về tác phẩm của ông, phần lớn là những bài đăng trên mạng và
một số tạp chí văn học. Văn chương của Murakami “là một sự kết hợp hài hòa, độc
đáo từ những tác động qua lại của văn hóa phương Tây, tư duy thẩm mỹ phương Đông
trong một tài năng tiểu thuyết bậc thầy” (Nguyễn Anh Dân) [28], điều này đúng với cả
hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Chính vì thế, sự kì bí và phức tạp trong sáng
tác của ông không chỉ lôi cuốn độc giả mà còn là sự thách thức và gợi ra nhiều câu hỏi
để đào sâu dành cho các nhà nghiên cứu.
Đã từ rất lâu con người tư duy bằng biểu tượng và sử dụng biểu tượng để lưu
giữ và truyền đạt những suy nghĩ của mình. Với người Nhật, biểu tượng từ lâu đã đóng
vai trò rất quan trọng cho trí tưởng tượng, từ trong truyền thống đã có những chiếc
gương, cánh hoa, thanh kiếm, bộ kimono… chúng đã tồn tại như những chuẩn mực từ
trong tâm thức của họ. Biểu tượng là một chiếc cầu nối kết giữa văn hóa dân tộc với
văn minh nhân loại, giữa nhà văn và người đọc, “Nói là chúng ta sống trong một thế
giới biểu tượng thì vẫn chưa đủ, phải nói là một thế giới biểu tượng đang sống trong
chúng ta” (Nhật Chiêu) [6; tr.32]. Đây cũng chính là điểm hấp dẫn trong sáng tác của
Murakami, điều làm nên sự bí ẩn và lôi cuốn và chiều sâu trong tác phẩm của ông. Hệ
thống biểu tượng của Murakami “đa dạng và phức tạp, nó trải dài trên các bình diện
không gian, thời gian, nhân vật đến cấu trúc, kết cấu” (Nguyễn Anh Dân) [27]. Khám
phá những biểu tượng trong tác phẩm của ông là khám phá cuộc sống hiện thực thông
qua những ẩn dụ, siêu hình và đa nghĩa. Điều này tạo nên một phong cách mang đậm
sự sáng tạo của cá nhân ông đồng thời lại có liên hệ sâu xa với truyền thống.
Trong câu chuyện Kafka bên bờ bi
biểển, Murakami đã dùng một hệ thống biểu
tượng đa dạng như thế, điều đó không chỉ phản ánh một chiều sâu tâm linh mà còn giải
thích cả những vấn đề nóng hổi trong cuộc sống đương đại. Biểu tượng thường được
khai thác nhiều bởi những giá trị ẩn, những tầng sâu ý nghĩa, Murakami không chỉ chú
ý đến điều ấy mà còn xem biểu tượng như những “nhân vật” đặc biệt, xuất hiện dày
đặc, hệ thống và tham gia trực tiếp vào nội dung của câu chuyện. Điều này góp phần
không nhỏ vào thành công cũng như tạo tiếng vang lớn của tác phẩm. Xét về mặt khoa
học, biểu tượng trong văn học không còn mới mẻ nhưng Murakami đã có những sáng
tạo độc đáo của riêng mình, cần phải có những tìm hiểu để thấy được sự kế thừa và
phát triển của ông, một nhà văn lớn mang tầm thế giới, một người kể chuyện bậc thầy.
6
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã có sự quan tâm nhất định về vấn đề này, tuy nhiên
vẫn còn dừng lại ở những bài viết trên mạng, chưa có những công trình lớn, sâu sắc và
có sức khái quát cao. Thế nên, đây là một đề tài thú vị vẫn còn đang được bỏ ngỏ. Vì
thế, với mong muốn bước đầu khám phá và đóng góp ý kiến của mình, chúng tôi chọn
ng trong tác ph
đề tài Bi
Biểểu tượ
ượng
phẩẩm Kafka bên bờ bi
biểển của Murakami Haruki để tìm
hiểu và nghiên cứu.
2. Lịch sử nghi
nghiêên cứu vấn đề
Murakami Haruki được xem là một hiện tượng trên văn đàn thế giới với những
phá cách đầy táo bạo, tạo ra thách thức cũng như sức hấp dẫn với các nhà nghiên cứu.
Tập truyện đầu tiên của Murakami được dịch sang tiếng Việt là tiểu thuyết Rừng
Nauy xuất bản năm 1997, tác phẩm không gây được tiếng vang lại bị thu hồi do vi
phạm lỗi in ấn nên có thể xem những tập truyện được phổ biến chính thức trước tiên là
m, Ng
ời để xem Kangaroo và tiểu thuyết Rừng
hai tập truyện ngắn Đom đó
đóm,
Ngàày đẹ
đẹpp tr
trờ
Nauy cùng xuất bản năm 2006. Tính đến nay tác phẩm của ông được giới thiệu với
bạn đọc Việt Nam đã được bảy năm, một khoảng thời gian không quá dài nhưng cũng
không phải là ngắn để có những công trình nghiên cứu. Thế nhưng, về mảng văn
chương đương đại Nhật Bản nói chung và Murakami nói riêng thì sự quan tâm còn hạn
chế và phổ biến những bài viết trên mạng hơn là các công trình được xuất bản. Cho
đến nay, ngoài quyển Truy
Truyệện ng
ngắắn Murakami Haruki - nghi
nghiêên cứu và ph
phêê bình do
Hoàng Long biên soạn, do nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản
năm 2006 thì chưa có quyển sách hay chuyên luận nào khác về Murakami được in ấn
và xuất bản. Tuy nhiên, quyển sách chủ yếu giới thiệu các truyện ngắn của ông hơn là
nghiên cứu và phê bình. Bài viết của tác giả đã cho thấy vị trí của Murakami trong nền
văn học Nhật Bản, và so sánh truyện ngắn của ông với truyện ngắn của nhà văn
Kawabata Yasunari. Năm 2007, công ty văn hóa và truyền thông Nhã Nam kết hợp với
Đại sứ quán Nhật Bản tổ chức hội thảo về các tác phẩm của Murakami Haruki và
Banana Yoshimoto. Kỷ yếu của hội nghị đã tập hợp được nhiều bài viết có giá trị và
một số được phổ biến trên mạng internet. Các bài viết trên mạng có thể chia thành
nhiều mảng, vì phần lớn là các bài viết trên mạng nên có những bài mang hơi hướng
cảm nhận, một số bài đi vào những vấn đề cụ thể trong từng tác phẩm, một số bài tổng
hợp về phương pháp sáng tác chung của nhà văn. Vấn đề biểu tượng trong sáng tác của
Murakami cũng được nhắc đến trong nhiều bài viết nhưng đi vào phân tích chuyên sâu
7
nhất là về nghệ thuật xây dựng biểu tượng vẫn chưa được chú ý và không có nhiều bài
nghiên cứu. Dựa trên các tổng hợp, chúng tôi chia thành những vấn đề được liệt kê bên
dưới.
Yếu tố huyền ảo nhận được khá nhiều sự quan tâm, đây cũng là một trong
những đặc trưng trong sáng tác của Murakami. Bài viết “Kafka bên bờ bi
biểển” – câu tr
trảả
ươ
ng Đô
ng về cái phi lí của tác giả Khánh Phương lí giải cái bí ẩn chính là
lời của ph
phươ
ương
Đông
những điều sâu kín trong tâm hồn con người mà cụ thể là ở từng nhân vật. Trong bài
viết Bức họa phi lí và ph
phảản quang xã hội trong “Bi
Biêên ni
niêên kí chim vặn dây cót” của
tác giả Nguyễn Anh Dân đã nhìn vấn đề huyền ảo ở nhiều góc độ như tần số xuất hiện
cao, cảm quan huyền ảo, những bí ẩn của vô thức và hướng đi nghịch dị của
Murakami chọn cái phi thực để nói về hiện thực, tuy nhiên không đi sâu vào phân tích.
Tác giả Nguyễn Anh Dân còn có bài viết Phong cách ngh
nghệệ thu
thuậật của H.Murakami
nh
nhììn từ yếu tố huy
huyềền ảo, đây là một bài nghiên cứu đã có những phân tích khá sâu
những gì bài viết trước gợi lên. Ông chú ý đến cảm quan huyền ảo và nhận xét
“Murakami lựa chọn các chi tiết, sự kiện, hiện tượng mang tính bí hiểm, kì lạ và
không xuất hiện một cách thông thường ở thế giới hiện thực, từ đó, con người sẽ được
trải nghiệm, suy ngẫm và nhận ra chân lý tối thượng của đời sống.” [29] Bên cạnh đó
ông cũng quan tâm đến thế giới biểu tượng đặc sắc trong các tác phẩm, ông nêu ra các
hình ảnh biểu tượng tiêu biểu cũng như cách Murakami đã biến mỗi nhân vật trở thành
một biểu tượng. Tác giả nhận xét “Thế giới biểu tượng trong sáng tác của Haruki
Murakami đa dạng và phức tạp, nó trải dài trên các bình diện không gian, thời gian,
nhân vật đến cấu trúc, kết cấu.” [29] Ông còn nói đến âm nhạc, một đặc trưng trong
các tác phẩm của Murakami, âm nhạc xuất hiện dày đặc cũng góp phần tạo nên nhịp
điệu riêng, bên cạnh đó còn có những dụng ý nghệ thuật cụ thể “Âm nhạc xuất hiện
như một diễn giả trong tác phẩm của Murakami nhưng quan trọng hơn cả là chúng
can dự một cách sâu sắc đời sống của nhân vật, điều đó cũng đồng nghĩa với việc
chúng có cơ duyên với cái huyền ảo. Thế giới của âm nhạc là một thế giới khó đoán
định, thăng trầm bất ngờ cũng giống như bản chất của thế giới huyền ảo: nhân vật dễ
ới trong hi
ực
đắm chìm vào mà khó thoát ra.” [29] Bài viết Sự xóa nh
nhòòa ranh gi
giớ
hiệện th
thự
ực trong ti
và si
siêêu th
thự
tiểểu thuy
thuyếết Haruki Murakami đăng trên trang mạng Tạp chí Văn
đăng ngày 05/03/2012 là một bài viết khá công phu, phân tích cả về mặt nội dung lẫn
nghệ thuật. Tác giả chú ý đến cách tạo ra những thế giới song song, thực ảo khó tách
8
bạch trong sáng tác của Murakami, lí giải hiện tượng ấy bằng lí luận về vô thức “Rõ
ràng, dù hiểu hình ảnh ẩn dụ “thực tại khác” theo nghĩa rộng, ngụ ý chí thế giới vô
thức tập thể của nhân loại, hay nghĩa hẹp, biểu trưng cho thế giới vô thức của mỗi cá
nhân, thì chúng đều có thể quy về một dạng thực tại bề sâu, thực tại tâm hồn hay thế
giới dưới hầm, thấm đẫm chất bí ẩn, siêu thực.” [50] Điểm đáng chú ý ở bài viết là tác
giả đã quan tâm đến nghệ thuật xây dựng những yếu tố huyền ảo là phép đồng hiện,
nghệ thuật ẩn dụ và nhất là cách sử dụng sự đa nghĩa của biểu tượng để tạo nên những
thế giới thực ảo lẫn lộn. Tác giả đi vào phân tích các biểu tượng cái bóng, cái giếng và
biểu tượng âm nhạc. Tác giả nhận xét “men theo những ý nghĩa lung linh, đa tầng của
biểu tượng, nhằm truy tìm gốc rễ và lí giải trọn vẹn, đầy đủ những dấu vết linh thiêng,
kỳ lạ trong đời sống con người thời hiện đại, còn là phương pháp tối ưu để nhà văn
xác tín niềm tin về sự tồn tại của cái “thực tại khác” [50].
Bên cạnh yếu tố huyền ảo, tính hiện thực cũng được đề cập đến trong nhiều bài
viết, đó là hiện thực gắn liền với cuộc sống con người. Tác giả Ngô Trà Mi viết bài
ực nối dài trong “Bi
Hi
Hiệện th
thự
Biêên ni
niêên ký chim vặn dây cót” của Murakami Haruki nói
về những dấu hiệu xuất hiện trong tác phẩm, chính những dấu hiệu này đã làm hiện
thực được tiếp tục nối dài trong sự diễn dịch của người đọc. Bài viết Cu
Cuộộc tìm ki
kiếếm
ườ
bản th
thểể của con ng
ngườ
ườii hi
hiệện đạ
đạii của tác giả Hoài Nam đã có những lí giải về nhân vật
tìm kiếm, từ cuộc tìm kiếm bản thể cá nhân liên kết với cộng đồng đã tạo nên một thế
giới thực ảo lẫn lộn, nhưng hiện thực chân xác nhất là sự lạc lõng trong tâm hồn, vết
thương thời hậu chiến khiến cho các nhân vật lao vào cuộc tìm kiếm miệt mài. Tác giả
ườ
ườ
Trần Thị Tố Loan trong bài viết Ki
Kiểểu con ng
ngườ
ườii đa ng
ngãã trong ti
tiểểu thuy
thuyếết “Ng
Ngườ
ườii tình
Sputnik
Sputnik”” của Haruki Murakami cũng nói về cuộc tìm kiếm bản ngã, một đề tài lớn,
xuyên suốt trong sáng tác của Murakami, tác giả khẳng định “những điều Haruki
Murakami đặt ra trong các tác phẩm đã khắc chạm đến những vấn đề mang tính nhân
loại, đặc biệt là cuộc vật lộn của con người trong hành trình cuộc đời để tìm thấy bản
ngã đích thực của mình” [39]. Có thể thấy, hai bài nghiên cứu cùng nói về một vấn đề
ở hai quyển tiểu thuyết, điểm khác nhau cơ bản trong khi nhân vật ở Bi
Biêên ni
niêên ký
chim vặn dây cót phải dùng mọi cách để soi rọi và nhìn thấu nội tâm mình thì nhân vật
ườ
ở Ng
Ngườ
ườii tình Sputnik lại phân vân lựa chọn giữa những bản ngã khác nhau. Tác giả
ực tại và con ng
ườ
Trần Thị Tố Loan còn có bài viết Th
Thự
ngườ
ườii trong sáng tác của Haruki
Murakami, đây là một bài viết có kết cấu chặt chẽ lí giải khía cạnh hiện thực trong tác
9
phẩm của Murakami. Tác giả đi từ tiền đề xã hội chiến tranh đến bức tranh xã hội hiện
đại, những điều đó tác động đến con người khiến họ cảm thấy cô đơn và chịu nhiều tổn
thương, Trần Thị Tố Loan còn so sánh đối chiếu tác phẩm của Murakami với những
tác giả Việt Nam cùng thời. Tác giả đã nhìn nhận và phân tích các sáng tác của
Murakami trên cơ sở triết học Hậu hiện đại của Lyotard, Trần Thị Tố Loan nhận xét
“Thông qua tác phẩm của mình, Murakami đã thể hiện được cảm thức của thời đại đỗ
vỡ các giá trị và đã thực sự bước vào địa hạt Hậu hiện đại. Các nhà văn hậu hiện đại
tin bản chất của thế giới là hỗn mang, “mọi sự đều là theo cách của nó”. Mỗi người
thấy một thế giới khác nhau, bị chi phối bởi nhiều hệ quy chiếu.” [40] Nhìn chung các
bài viết ở hướng nghiên cứu này ít đề cập đến vấn đề biểu tượng vì tính bí ẩn và đa
nghĩa của biểu tượng thường góp phần tạo nên đặc sắc trong các yếu tố huyền ảo trong
sáng tác của Murakami.
Yếu tố tình dục là một vấn đề nổi cộm trong các tác phẩm của Murakami nên
cũng nhận được sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu tuy nhiên số lượng vẫn
n qua các ti
còn rất hạn chế. Bài viết Tình dục và nỗi cô đơ
đơn
tiểểu thuy
thuyếết Nh
Nhậật Bản của
tác giả Nguyễn Tuấn Khanh đã phân tích yếu tố tình dục của một số nhà văn lớn của
Nhật Bản như Kawabata, Kanizati, Mishima, Kobo Abe, Banana và Murakami Haruki
thông qua đó so sánh đối chiếu giữa các nhà văn. Nguyễn Tuấn Khanh lí giải tình dục
là một cách giải phóng con người khỏi sự lạc lõng thế nhưng “những sự chung đụng
thể xác không cứu vãn nổi tâm hồn của những con người cô đơn” [36]. Trong bài viết
Rừng Nauy
ch th
ực, tác giả Phan Quý Bích
“R
Nauy”” – sex thu
thuầần túy hay ngh
nghệệ thu
thuậật đí
đích
thự
ngoài lí giải sex là một cách cứu vãn tâm hồn méo mó tổn thương của các nhân vật mà
còn là một phóng chiếu của xã hội đương thời “Sex vừa là sự thực trần trụi, vừa là ẩn
dụ về những giá trị sống của thanh niên Nhật Bản vào những năm 60-70… Lớp thanh
niên Nhật ngày ấy như rơi về từ một hành tinh khác: quên quá khứ, quên gia đình,
truyền thống, xem sự thỏa mãn khát vọng riêng là mục đích tối cao” [26] Bài viết Sex
trong “Rừng Nauy
Nauy”” kh
khôông ch
chỉỉ có vậy của Linh Lan lại là một bài lật ngược các vấn
đề mà Phan Quý Bích đã nêu ra trước đó, tác giả đồng ý với một số kiến giải của Phan
Quý Bích nhưng cũng có điểm không đồng tình. Linh Lan bổ sung tình dục trong tác
phẩm không chỉ là một cách giải phóng mà “nó cho con người cảm giác mình được
sống, sống một cách thực sự, nồng nhiệt, mê đắm, sống như một con người trong mối
lên hệ mật thiết nhất với con người.” [37]
10
Cảm quan huyền thoại cũng là một vấn đề nhận được sự quan tâm của giới học
thuật. Bài viết Huy
Huyềền tho
thoạại và gi
giảải huy
huyềền tho
thoạại Haruki Murakami của Ngô Trà Mi là
một bài nghiên cứu khá công phu và chặt chẽ. Tác giả khảo sát trên các truyện ngắn
của Murakami, một mảng đề tài còn ít người nghiên cứu. Ngô Trà Mi đã đặt những
sáng tác của Murakami trong dòng chảy huyền thoại của văn học thế giới để so sánh
đối chiếu, tác giả khẳng định “Những huyền thoại trên trang sách của ông có thể gọi
là những Huyền thoại thời Hậu hiện đại… Với Murakami, huyền thoại chính là những
ẩn dụ. Ẩn dụ đó không phải là kiểu uyển ngữ của truyền thống. Ẩn dụ của ông là ẩn dụ
mới, do chính ông tạo ra, bên ngoài tất cả những gì đã định sẵn… Nhưng Murakami
dùng huyền thoại là để giải huyền thoại, dùng ẩn dụ là để giải những ẩn dụ sáo mòn”
[42] Ngô Thị Thu Thủy có bài viết Kafka bên bờ bi
biểển – huy
huyềền tho
thoạại hậu hi
hiệện đạ
đạii, tác
giả đã thâu tóm những chi tiết nghệ thuật, những khía cạnh, phương diện làm nên tính
huyền thoại của tác phẩm Kafka bên bờ bi
biểển. Bài nghiên cứu đã có những kiến giải về
cách sử dụng nhuần nhuyễn thi pháp huyền thoại hóa của Murakami dựa trên huyền
thoại phương Đông lẫn phương Tây tạo nên sự thành công lớn cho tác phẩm. Bài viết
ức cảm Genji
“Ph
Phứ
Genji”” trong ti
tiểểu thuy
thuyếết “Kafka bên bờ bi
biểển” của Haruki Murakami
quan tâm lí giải một khía cạnh nhỏ nhưng rất quan trọng trong tác phẩm. Tác giả vạch
ra sự tương đồng và khác biệt giữa “mặc cảm Oedipus” và “phức cảm Genji” thông
qua đó cho thấy tác phẩm mang nhiều biểu hiện của phương Đông hơn tuy kĩ thuật
viết rất Tây phương. Người viết lí giải “xuất phát từ bản chất của văn học Nhật Bản,
nền văn học duy tình (đề cao tình cảm). Với tính chất này, văn học luôn đặt yếu tố tình
cảm lên hàng đầu.” [49]
Vấn đề biểu tượng trong sáng tác của Murakami cũng nhận được sự quan tâm
nhất định nhưng bài viết riêng biệt về vấn đề này số lượng vẫn còn rất hạn chế. Có thể
ng trong “Bi
kể đến Hệ th
thốống bi
biểểu tượ
ượng
Biêên ni
niêên kí chim vặn dây cót” của Nguyễn Anh
Dân. Trong bài viết, tác giả đã nêu ra những biểu tượng đặc sắc và tiêu biểu được
Murakami sử dụng trong tác phẩm, Nguyễn Anh Dân nhận xét “Hệ thống biểu tượng
trong tác phẩm khá đa dạng từ vật thể đến con người, đó hoàn toàn có thể là một kiểu
trò chơi biểu tượng của Murakami.” [27] Tác giả đã gợi được nhiều ý tưởng, tuy nhiên
ng cổ mẫu và hi
ức
bài viết còn chưa đi sâu vào phân tích. Bài viết Bi
Biểểu tượ
ượng
hiệện tại ph
phứ
di
diệện qua ti
tiểểu thuy
thuyếết Murakami Haruki của Nguyễn Bích Nhã Trúc, đây là một bài
nghiên cứu khá công phu, có luận điểm rõ ràng mạch lạc. Tác giả đã liên hệ được biểu
11
tượng mà Murakami sử dụng với chiều sâu đời sống tâm linh của con người từ nguyên
thủy đến nay. Nguyễn Bích Nhã Trúc phân tích sâu vào ba biểu tượng cổ mẫu tiêu
biểu trong các sáng tác của Murakami là cái bóng, phức cảm Oedipus và linh hồn. Cả
ba đều là những biểu tượng rất quan trọng trong Kafka bên bờ bi
biểển. Tác giả nhận định
“Với những biểu tượng văn hóa cổ mẫu, Murakami đã khơi dậy những vô thức tập thể
của nhân loại, phản ánh chân thực sự đa chiều, phức diện trong đời sống tinh thần
con người hiện đại.” [47]
Có thể thấy, vấn đề biểu tượng trong sáng tác của Murakami nhận được khá
nhiều sự quan tâm và được đề cập tùy mức độ ở mỗi bài viết khác nhau. Tuy nhiên,
những bài viết tập trung khai thác sâu đề tài này vẫn còn rất khiêm tốn và chưa có
công trình có tầm vóc nào được xuất bản. Từ nhiều năm nay Murakami trở thành cái
tên quen thuộc trên văn đàn, thế nhưng những bài nghiên cứu có giá trị cao vẫn chưa
xuất hiện nhiều. Các bài viết còn tập trung nhiều ở mảng nội dung và chưa thật sự đi
sâu vào nghệ thuật xây dựng biểu tượng của Murakami. Kafka bên bờ bi
biểển là một tác
phẩm lớn, đáng quan tâm vì kĩ thuật viết tiểu thuyết điêu luyện, kết hợp được cái hay
của cả hai nền văn hóa Đông Tây. Hệ thống biểu tượng dày đặc mà tác giả sử dụng đã
gắn kết được ý thức cổ xưa với cuộc sống hiện tại, đây là một trong những điểm làm
nên thành công của tác phẩm nhưng vẫn chưa có bài nghiên cứu được công bố nào về
đề tài này. Thế nên, đây còn là một vấn đề thú vị được bỏ ngỏ cho những ai hứng thú
với nó.
3. Mục đí
ch, yêu cầu
đích,
ng trong tác ph
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn về đề tài Bi
Biểểu tượ
ượng
phẩẩm
Kafka bên bờ bi
biểển của Murakami Haruki chúng tôi hy vọng sẽ có được những kiến
giải về vấn đề lí thuyết của khái niệm biểu tượng và có cái nhìn tổng quát về tác giả
Murakami Haruki cũng như tác phẩm Kafka bên bờ bi
biểển. Biểu tượng như là một công
cụ để Murakami giải mã thế giới nội tâm và thực tại xã hội. Thông qua việc phân tích
để chứng minh sự đa dạng và hệ thống trong nội dung của các biểu tượng tiêu biểu của
tác phẩm.
Bên cạnh những nét đặc sắc về nội dung hàm ẩn của các biểu tượng, chúng tôi
cũng chú trọng đến nghệ thuật xây dựng biểu tượng. Biểu tượng được Murakami sử
dụng có sự hài hòa giữa tư duy cổ xưa và sáng tạo độc đáo của riêng ông mang đậm
12
dấu ấn đương đại. Các biểu tượng còn là sự kết hợp giữa kĩ thuật viết văn phương Tây
và tâm hồn đậm chất Á Đông của tác giả.
Đồng thời, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp được một cái nhìn mới cho vấn đề
nghiên cứu cũng như có thêm kinh nghiệm và kiến thức để có thể phát triển đề tài
trong tương lai.
4. Ph
Phạạm vi nghi
nghiêên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tập trung làm rõ ý nghĩa nội dung và
tính hệ thống của các biểu tượng đồng thời tìm ra nghệ thuật xây dựng biểu tượng độc
đáo của Murakami Haruki.
Luận văn chủ yếu tập trung khảo sát tiểu thuyết Kafka bên bờ bi
biểển, đồng thời
chúng tôi còn liên hệ với một số tiểu thuyết khác của Murakami và các tác giả tên tuổi
khác trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại đã có những hình ảnh biểu tượng tương
đồng để so sánh đối chiếu nhằm làm rõ hơn giá trị của các biểu tượng.
ươ
ng ph
áp nghi
5. Ph
Phươ
ương
phá
nghiêên cứu
Để tập trung làm rõ vấn đề đặt ra, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp các phương
pháp sau đây :
Phương pháp lịch sử : Tác nhân lịch sử xã hội luôn chi phối sáng tác của bất kì
nhà văn nào. Đặc biệt, vấn đề chúng tôi nghiên cứu là hệ thống biểu tượng thế nên cần
phải đặt nhà văn và tác phẩm trong bối cảnh lịch sử cụ thể để thấy những ảnh hưởng
khách quan đến quá trình sáng tác của Murakami.
Phương pháp phân tích, tổng hợp : Biểu tượng không thể bị tách ra, đặt riêng lẻ
trong một hình thức cụ thể mà cần được nhìn nhận một cách bao quát bởi nhiều học
thuyết. Vì thế chúng tôi chia nhỏ ý nghĩa của các biểu tượng, trên cơ sở đó để tổng hợp
tìm ra tính hệ thống mà mạch lạc của tác phẩm.
Phương pháp so sánh đối chiếu : Đặt các biểu tượng trong mối tương quan liên
văn bản với các tác phẩm của Murakami, đồng thời đặt trong mối quan hệ với các tác
giả lớn khác có nghệ thuật xây dựng biểu tượng tiêu biểu để thấy những cách tân và
sáng tạo riêng của Murakami trên con đường nghệ thuật.
Phương pháp xã hội học : Murakami là một nhà văn Nhật Bản nhưng từ bé đã
sớm tiếp cận với văn hóa Tây, ở ông có sự hòa trộn độc đáo giữa hai nền văn minh
13
Đông Tây. Trên cơ sở ấy, chúng tôi khai thác khía cạnh văn hóa xã hội để thấy được
sự liên hệ giữa các tầng văn hóa trong tác phẩm.
14
ẦN NỘI DUNG
PH
PHẦ
15
ƯƠ
NG 1
CH
CHƯƠ
ƯƠNG
ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
NH
NHỮ
ới thuy
ng
1.1 Gi
Giớ
thuyếết về kh
kháái ni
niệệm bi
biểểu tượ
ượng
ới thuy
ng
1.1.1 Gi
Giớ
thuyếết chung về bi
biểểu tượ
ượng
Con người tiền sử xa xưa đã biết sử dụng những kí hiệu để ghi nhớ lại những
sinh hoạt hằng ngày của mình. Xã hội nguyên thủy phát triển, vật chất dư dả, con
người bắt đầu biết sử dụng vỏ sò như tiền thân của tiền tệ để trao đổi hàng hóa. Điều
này cho ta thấy nhu cầu tạo ra những thứ cụ thể, dễ nắm bắt để thay thế cho những thứ
trừu tượng hơn đã xuất hiện từ rất lâu. Khả năng biểu trưng hóa này giúp chúng ta có
thể thâu tóm được những hình ảnh trong thực tại hoặc quá khứ dễ dàng hơn nhưng
không phải nguyên bản như một bức ảnh chụp mà thông qua các biểu tượng. Khi cuộc
sống càng phát triển đòi hỏi ấy ngày càng lớn hơn, những biểu tượng từ đấy phát sinh,
qua các thời kì ngày càng phong phú đa dạng hơn.
Để có được một biểu tượng nhất thiết phải đi qua hai con đường mã hóa và giải
mã. Ban đầu, thực tại khách quan được cảm nhận bằng trực giác, con người tích lũy
kinh nghiệm từ nhiều trực giác để tổng hợp thành tri giác. Từ tri giác được tập hợp,
thông qua tư duy trừu tượng hóa cho ra đời một hình thức cụ thể là biểu tượng. Đó
chính là ý nghĩa gốc ban đầu của biểu tượng, ý nghĩa gốc này có thể tồn tại hoặc mất
đi qua không gian và thời gian. Song song đó là quá trình phái sinh ý nghĩa theo vùng
miền và thời đại. Tuy nhiên, để một biểu tượng có ý nghĩa quá trình tạo dựng phải đi
kèm với quá trình giải mã. Đầu tiên, người giải mã phải nhận thức, tìm ra được biểu
tượng, đây là bước rất quan trọng đầu tiên. Sau khi bóc tách được biểu tượng từ một
tổng thể người giải mã làm công việc ngược lại, đối chiếu biểu tượng trong mối quan
hệ chung với bức phông nền của mình. Từ sự so sánh, rút ra những kết luận giữa ý
nghĩa gốc và ý nghĩa phái sinh với cá nhân hoặc tập thể tạo dựng biểu tượng trong
hoàn cảnh cụ thể để lí giải vấn đề.
Biểu tượng (Symbol) trong tiếng Anh là một từ bắt nguồn từ ngôn ngữ cổ Châu
Âu (symbolus trong tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy Lạp). Thuật ngữ biểu
tượng được sử dụng trong tiếng Việt là một gốc Hán được dùng khá trừu tượng. Tuy
các biểu tượng đã được sáng tạo từ rất xa xưa nhưng cho đến khi lí thuyết Cấu trúc
luận (structuralism) của nhà Ngôn ngữ học người Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure
16
(1857 – 1913) ra đời và phát triển thì các nhà nghiên cứu mới bắt đầu chú ý nghiên
cứu vấn đề biểu tượng một cách bài bản và hệ thống.
Hiện nay, biểu tượng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như :
văn học, ngôn ngữ học, triết học, nhân học, văn hóa học, ký hiệu học,… Vì thế, để tiếp
cận ý nghĩa của biểu tượng thì hướng tiếp cận liên ngành là một cách làm bắt buộc để
có cái nhìn sâu rộng về vấn đề. Có nhiều kiến giải khác nhau về khái niệm biểu tượng,
tùy theo ngành khoa học nhất định. Ở Việt Nam, các từ điển chuyên ngành của các
ngành thuộc lĩnh vực xã hội đều có những lí giải về biểu tượng. Có những lí giải dựa
theo con đường phát triển của biểu tượng như ở Từ điển Ti
Tiếếng Vi
Việệt “Biểu tượng là
hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh
của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm
dứt” [21; tr.22] hay như trong Từ điển tâm lí học “Biểu tượng là hình ảnh các vật thể,
cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác,
biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu
tượng liên quan đến quá khứ và tương lai” [8; tr.22]. Những lí giải khác lại dựa trên
sức khái quát của biểu tượng như trong Từ điển tri
triếết học “Biểu tượng là hình ảnh trực
quan – cảm tính, khái quát về các sự vật và hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và
tái tạo trong ý thức và không có sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật và các
hiện tượng đến giác quan. Cái trở thành tài sản của các cá nhân một cách khách quan
nhờ thực tiễn của họ được ghi nhận và duy trì trong biểu tượng của con người. Mặc
dù biểu tượng là hình thức phản ánh cảm tính của các nhân, nhưng ở con người, nó có
mối quan hệ mật thiết với những ý nghĩa do xã hội tạo ra, đã được nêu ra một cách
gián tiếp qua ngôn ngữ, mang đầy nội dung xã hội và bao giờ cũng lĩnh hội được và
nhận thức được. Biểu tượng là một yếu tố tất yếu của ý thức, vì nó thường xuyên gắn
liền với ý nghĩa và ý nghĩa cũng khác nhau với hình ảnh của các sự vật và đồng thời
cho phép ý thức có thể sử dụng một cách tự do những hình ảnh mang cảm tính của
chúng” [24; tr.22].
Khái niệm biểu tượng không chỉ xuất hiện trong các quyển từ điển mà nhiều
nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau cũng quan tâm đến. Nhà triết học và thần
học người Pháp Jean Chevalier (1906 – 1993), đồng tác giả quyển sách Từ điển bi
biểểu
ng văn hóa th
ới chú ý đến nguồn gốc xa xưa của biểu tượng, ông cho rằng
tượ
ượng
thếế gi
giớ
“ngay từ khởi thủy, biểu tượng đã là một dấu hiệu, một cơ sở quy ước của niềm tin. Ở
17
tầng sâu hơn, nó là sự hội tụ của hai ý tưởng chia ra và kết lại, phân ly và tái hợp, nó
là dấu hiệu bị đập vỡ, gãy vỡ và nối kết. Ở đó, cảm xúc luôn luôn nổi trội, biểu hiện
thành những nỗi lo sợ hay mừng vui khôn xiết tả, những cảm xúc không lời” [34]. Nhà
ng định
triết học và tâm lí học Carl G.Liungman, tác giả của quyển Từ điển bi
biểểu tượ
ượng
nghĩa đơn giản biểu tượng là “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm
người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó.”
[33] Karl Jung (1875 – 1961), nhà tâm thần học nổi tiếng người Thụy Sĩ cho rằng
“Biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một hình ảnh ngay cả khi chúng là quen
thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào
đó cái ý nghĩa quy ước và hiển nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một
điều gì đó mơ hồ, chưa biết hay bị che dấu đối với chúng ta” [34]. Nếu Jung định
nghĩa biểu tượng là một từ ngữ, danh từ hay hình ảnh thì nhà văn hóa học người Nga
Yuri Lotman (1922 – 1993) lại chú ý đến khía cạnh tư tưởng hình thành nên biểu
tượng, ông nói “Quan niệm quen thuộc nhất về biểu tượng gắn liền với tư tưởng về
một nội dung nào đó, đến lượt mình nội dung đó lại được dùng làm bình diện biểu
hiện cho một nội dung khác, thông thường là nội dung có giá trị văn hóa hơn.” “Còn
biểu tượng vừa ở bình diện biểu hiện, vừa ở bình diện nội dung bao giờ cũng là một
văn bản, tức là có một ý nghĩa thống nhất đóng kín ở bên trong nó, và có một ranh
giới biểu hiện rõ ràng cho phép tách biệt nó khỏi ngữ cảnh kí hiệu xung quanh.” [41]
Dù có nhiều lí thuyết khác nhau nhưng giữa chúng vẫn có điểm chung nhất định.
Nhìn chung, biểu tượng là một chủ thể nhất định có thể đại diện cho chính nó hoặc
những khách thể khác có ý nghĩa nội hàm liên quan đã được tri giác trước đó. Những
điều này phải được một cộng đồng chấp nhận và lưu truyền một cách rộng rãi cả về
không gian địa lý lẫn thời gian lịch sử.
ng trong văn học
1.1.2 Bi
Biểểu tượ
ượng
Vì tính hàm ẩn đa nghĩa của biểu tượng mà trong văn chương từ lâu các tác giả
đã sử dụng biểu tượng như một phương tiện nghệ thuật đặc sắc để diễn tả hàm súc
những gì mình cần diễn đạt. Biểu tượng hấp dẫn không chỉ với các tác giả dân gian mà
lôi cuốn cả những tác giả văn của văn học viết, từ thơ ca đến kịch nghệ đến văn xuôi.
Mỗi nền văn học lại có những biểu tượng cho riêng mình, có khi có sự giao thoa nhau
đôi khi trong cùng một biểu tượng lại có ý nghĩa hoàn toàn trái ngược nhau. Theo Từ
18
ữ văn học, biểu tượng văn học theo nghĩa rộng là “đặc trưng phản ánh
điển thu
thuậật ng
ngữ
bằng hình tượng của văn học nghệ thuật”, theo nghĩa hẹp là “một phương phức
chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng
truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể
hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết học sâu xa về con người và cuộc đời”
[17; tr.24]
Khi ta xem xét một tác phẩm văn chương trên góc độ biểu tượng có nghĩa là ta
quan tâm đến phần kết tinh nhất của tác phẩm. Nhà văn xây dựng nên biểu tượng là
tổng hợp những gì thực tế tác động đến những sáng tạo của riêng mình, bởi thế, một
biểu tượng văn chương luôn hòa quyện được sự chung riêng tất yếu này. Xét theo
hướng ấy, phân tâm học đã có nhiều lí giải về biểu tượng của S.Freud và K.Jung.
Freud thông qua khảo sát các chủ đề huyền thoại để khẳng định sáng tạo nghệ
thuật chỉ là sự giải tỏa sự kiềm nén của những ẩn ức tình dục. Ông gọi là đó là những
“libido tính dục”, những hình ảnh tượng trưng cho ẩn ức của con người. Tuy nhiên,
quy kết mọi hoạt động sáng tạo đều nhằm vào xung năng tính dục là khá cực đoan. Do
thế, người học trò xuất sắc của S.Freud, K.Jung đã bổ sung ý kiến về vô thức tập thể
và cổ mẫu. Những libido không chỉ là xung năng tính dục đơn thuần mà còn bị ảnh
hưởng bởi nhiều thứ khác như văn hóa, xã hội, gia đình, tuổi thơ,… Từ vô thức mang
tính cá nhân Jung đã phổ quát lên trở thành một vấn đề mang tính nhân loại : vô thức
tập thể. Giống như một cá nhân cũng được sinh ra và lớn lên, mỗi tập thể đều có nguồn
gốc và dần dần phát triển. Chính vì thế, nếu cá nhân có những libido thì tập thể cũng
thế, các libido ấy là cổ mẫu. Ông lí giải biểu tượng là “sự diễn đạt cho tư tưởng trong
lúc chưa thể mô tả được nó một cách trọn vẹn, hoàn chỉnh” [23; tr.52] “bởi biểu
tượng ở đây phải được xem là khả năng có một ý nghĩa khác rộng hơn, cao hơn, nằm
ngoài năng lực cảm nhận và ám chỉ đến ý nghĩa đó của chúng ta… Biểu tượng nhô lên
như một lời trách cứ thường xuyên đối với khả năng suy xét và cảm nhận của chúng ta.
Từ đây tất nhiên sẽ bắt đầu một thực tế là sản phẩm mang tính biểu tượng đánh thức
chúng ta nhiều hơn, có thể nói, quấy đảo chúng ta sâu hơn vì thế hiếm khi đưa cho
chúng ta khoái cảm thẩm mỹ thuần túy, trong khi tác phẩm không mang tính biểu
tượng từ đầu thì nhằm hướng đến cảm giác thẩm mỹ của chúng ta dưới dạng thuần túy
hơn rất nhiều khi nó cho thấy tận mắt bức tranh hài hòa của sự trọn vẹn.” [23; tr.6364] Như vậy, Jung đã tiến xa hơn thầy mình để đi sâu vào lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
19
Đặc biệt, ông đã nói đến tính chất không ngừng vận động và thay đổi của biểu tượng,
biểu tượng không bao giờ là một khối đông cứng bất động. Nếu Freud chỉ nêu lên vấn
đề về cái biểu hiện và cái được biểu hiện thì Jung đã liên kết được biểu tượng trong
một mạng lưới chằng chịt và xoay chuyển không ngừng. Vậy, khi xem xét một biểu
tượng văn chương ta cần phải quan tâm đến hai tầng tạo nghĩa, vô thức cộng đồng và
sáng tạo của nhà văn. Một tác phẩm chỉ chứa những cổ mẫu vô thức không thể tự thân
liên kết, những biểu tượng như thế chỉ có thể xuôi theo dòng chảy chung. Một tác
phẩm có những biểu tượng nổi bật cần có sự tham gia một cách có ý thức của nhà văn.
Nhà văn chủ động sáng tạo, tác phẩm tiếp tục phát triển và cộng hưởng với những tác
phẩm khác và người đọc những ý nghĩa sẽ dần dần lớn lên theo thời gian.
Mỗi ngành nghệ thuật đều có chất liệu khác nhau để cấu tạo nên những biểu
tượng riêng. Với văn chương đó là ngôn từ, bản thân ngôn từ đã là một kí hiệu, từ
ngôn từ lại tạo nên những hình ảnh, sự việc, con người mang tính chất biểu tượng.
Biểu tượng văn học luôn vượt lên trên tính trực quan rút gọn và tính công thức ước lệ,
mang nhiều ý nghĩa phái sinh qua từng thời kì. Biểu tượng, xét về phương diện hình
thức là những tín hiệu mà theo L.Hjemslev, có tính phức hợp trong cấu tạo. Nó chứa
đựng rất nhiều đặc tính, trong đó, đáng chú ý là ba đặc trưng nổi bật : tính đa trị, tính
khả biến và tính tương tác.
Tính đa trị vừa được xem là đặc điểm đồng thời cũng là hiệu quả của biểu
tượng. Biểu tượng có thể mang trong mình nhiều tầng ý nghĩa cũng bởi sự thâm nhập,
tương tác, cộng hưởng của mỗi chủ thể sáng tạo với cộng đồng và lịch sử. Đó có thể là
một sự đào sâu có chủ ý cũng có thể do vô thức tập thể chi phối. Từ một lượng thông
tin cụ thể, có giới hạn, thông qua biểu tượng có thể có một trường liên tưởng mở rộng
vô hạn, nhiều tầng bậc, nhiều cấp độ, tùy thuộc vào trình độ và nhận thức của người
tiếp nhận. Tính đa trị giúp biểu tượng vượt lên nơi chốn, hoàn cảnh, cá nhân cụ thể
bằng cách quy tụ một thực tại và sâu sắc hơn. Dòng chảy ý nghĩa từ biểu tượng cứ thế
mãi bất tận, không ngừng, theo sự phát triển của lịch sử văn học.
Tính khả biến là là khả năng biến đổi, khả năng tái sinh liên hồi từ cái biểu đạt
đến cái được biểu đạt làm cho văn học có độ mở mới, màu sắc mới. Mỗi biểu tượng
không chỉ mang một ý nghĩa nhất định, bất biến mà tùy thuộc vào mỗi cộng đồng, mỗi
thời kì, mỗi dân tộc, mỗi cá nhân… qua quá trình tương tác và cộng hưởng dẫn đến
những biến đổi nhất định về sắc thái ý nghĩa và làm nảy sinh nghĩa mới. Nếu tính đa
20
- Xem thêm -