LỜI NÓI ĐẦU
Khi hội nhập kinh tế quốc tế là bước đi tất yếu thì chủ chương
mở rộng quan hệ ngoại thương của Đảng, Nhà nước ta là cần thiết
và đúng đắn. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
và Nhà nước, kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có những bước
phát triển đáng kể. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với
nhịp độ cao và khá ổn định (Bình quân tăng 4 - 4,5%/năm), góp
phần đáng kể trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn, theo hướng CNH và HĐH, tạo ra bước chuyển
biến mạnh mẽ từ nền kinh tế thuần nông, tự cung, tự cấp sang nền
kinh tế thị trường với tỷ suất hàng hoá ngày càng cao, khẳng định vị
thế của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam trên thương trường Quốc
tế.
Lợi ích to lớn của hội nhập kinh tế Quốc tế mang lại cho mỗi
nước tham gia là rõ ràng và không thể bác bỏ. Con đường xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu cô lập với bên ngoài, tự cấp, tự
túc, thay thế nhập khẩu đã hoàn toàn không có sức thuyết phục. Vấn
đề đặt ra cho mỗi quốc gia là hội nhập kinh tế ở mức độ nào, bằng
hình thức nào để có thể mang lại lợi ích tối đa và phải trả một cái
giá tối thiểu quả thực là một thách thức không nhỏ !
Việt Nam với hơn 80 triệu dân, và trên 70% lao động xã hội
đang hoạt động và sinh sống dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp. Nên vấn đề phát huy các lợi thế và tiềm năng trong sản xuất
nông nghiệp,đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu không chỉ là yêu cầu
đối với sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp mà còn là vấn đề
mang tính chiến lược, nhằm giải quyết có tính tổng thể về các quan
hệ mang tính xã hội... Do đó cần phải có những thay đổi cách tiếp
cận về chiến lược và chính sách phát triển nông nghiệp phù hợp với
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1
Trong thời gian thực tập tại Bộ Thương Mại, qua nghiên cứu
tình hình sản xuất và kinh doanh xuất khẩu nông sản. Với các lợi
thế và tiềm năng về đất đai, lao động, các điều kiện sinh thái...
Nhưng khối lượng và kim ngạch nông sản xuất khẩu của Việt Nam
còn rất khiêm tốn và bộc lộ nhiều hạn chế. Từ thực tế đó em lựa
chọn đề tài: "Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nhóm mặt hàng
nông sản chủ lực của Việt Nam" làm chuyên đề thực tập tốt
nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
+ Nhằm phân tích, đánh giá về thực trạng sản xuất xuất khẩu
đối với các mặt hàng (gạo, cà phê, cao su, chè, điều) và những giải
pháp chủ yếu đã tác động đến quá trình thúc đẩy xuất khẩu nhóm
mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam.
+ Đề xuất và kiến nghị các giải pháp chủ yếu, nhằm thúc đẩy
xuất khẩu nông sản trong thời gian tới (2001 - 2010)
Với mục tiêu trên chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về xuất khẩu hàng nông sản phẩm
trong quá trình hội nhập của việt nam
ChươngII: Thực trạng về xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực
của việt nam trong thời gian qua
Chương III: Giải pháp và những kiến nghị chủ yếu, nhằm thúc đẩy
xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản chủ lực của Việt
Nam trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu chính là các mặt hàng và ngành hàng
(gạo, cà phê, cao su, chè, điều) về các giải pháp chủ yếu trong sản
xuất, chế biến, môi trường kinh doanh xuất khẩu nhằm thúc đẩy
xuất khẩu.
+ Phạm vi nghiên cứu: Chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu một
số nông sản chủ yếu của Việt Nam như: gạo, cà phê, cao su, chè,
điều, được xác định là những mặt hàng chủ lực xuất khẩu đã có khối
2
lượng, kim ngạch xuất khẩu cao trong những năm gần đây và có
tiềm năng lợi thế để phát triển.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của em để hoàn thành chuyên đề này
là:
+ Từ kiến thức đã học tại trường ĐH KTQD
+ Cùng sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Đặng Đình Đào,
và sự chỉ bảo của các cô chú làm việc tại Vụ kế hoạch thống kê - Bộ
thương Mại.
+ Qua thu thập thông tin, số liệu từ các giáo trình, thời báo, tạp
chí ... có liên quan.
Do hạn chế về thời gian, tài liệu cũng như trình độ có hạn, hơn
nữa việc tìm hiểu các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nông sản chủ
lực của Việt Nam là một công tác phức tạp liên quan đến nhiều vấn
đề kinh tế- xã hội, nên em viết chuyên đề này không tránh khỏi
thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô
giáo và ý kiến đóng góp của các bạn sinh viên. Sau cùng, em xin
chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đặng Đình Đào người đã tận
tình chỉ dẫn, và các thầy cô giáo đã từng dậy dỗ em trong suốt quá
trình học tập, cùng các cô chú ở Vụ kế hoạch thống kê - Bộ thương
Mại đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
SẢN PHẨM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP CỦA VIỆT
NAM
I.
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA MẶT
HÀNG NÔNG SẢN TRONG HỆ THỐNG CÁC MẶT
HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
I.1. Hội nhập kinh tế của việt nam
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “ Mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức và khu vực
củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên thương trường quốc
tế” . Ngày 18 tháng 11 năm 1996, Bộ Chính Trị đã ra nghị quyết về
kinh tế đối ngoại nhằm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng
này,Nghị Quyết số 7-NQ/Tw của bộ chính trị
về hội nhập kinh tế Quốc tế ngày 27/11/2001; Mặt khác vấn đề
này cũng đã được xác định cụ thể tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV của Đảng
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định chủ trương “Phát
huy cao độ nội lực , đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh và có hiệu quả
bền vững”
Thật vậy , đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học
kỹ thuật, Việt Nam cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ kiến thức quản lý để
đẩy mạnh công cuộc Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh xã
hội công bằng văn minh. Đó là một trong những giải pháp để nước
ta thoát khỏi sự tụt hậu về kinh tế và cũng là giải pháp giúp Việt
4
Nam sánh vai ngang hàng với bạn bè thế giới , hoà mình với công
cuộc hội nhập kinh tế thế giới .
Bước vào đầu thế kỷ XXI nền kinh tế nước ta đang lĩnh hội
nhiều cơ may phát triển nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức lớn :
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã chính thức có hiệu lực ; lộ
trình thực hiện AFTA và chương trình ưu đãi thuế quan CEPT ngày
một đến gần, hội nghị cấp cao APEC tạo thuận lợi mới cho Việt
Nam hội nhập kinh tế thế giới, sức ép của hội nhập và cạnh tranh
toàn cầu đang lớn dần... Để hội nhập và phát triển không còn con
đường nào khác hơn là nền kinh tế, mà cụ thể, là tự thân mỗi doanh
nghiệp phải vận động phải nâng cao năng lực quản lý và cạnh tranh.
xác định rõ điều này, tháng 9 năm 2001,Hội Nghị Ban Chấp Hành
Trung Ương Đảng đã đề ra Nghị Quyết Quốc Hội về nhiệm vụ năm
2001 và chương trình hành động của chính phủ năm 2001 cũng đã
thể hiện quyết tâm cao của cơ quan quyền lực nhà nước, trong việc
tập trung mọi nỗ lực cho phát triển kinh tế . Tuy nhiên, suốt chặng
đường 15 năm đổi mới cho thấy sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp việt nam còn yếu. Nhiều chuyên gia đánh giá thị trường Việt
Nam vẫn còn trong giai đoạn mới bắt đầu xuất phát so với nền kinh
tế nhiều nước trong khu vực, sự yếu kém có thể thấy cụ thể ở nguồn
vốn, lượng vốn qúa nhỏ, quy mô và phương pháp quản lý manh
mún khiến sức cạnh tranh rất thấp, đồng thời việc liên kết để tạo
thành một tập đoàn kinh tế cũng khó có thể thực hiện. Nhìn ở góc
độ công nghệ hầu hết thiết bị công nghệ đang sử dụng trong các
doanh nghiệp còn lạc hậu, đi sau công nghệ trung bình sử dụng ở
các nước phát triển. Trong khi đó hoạt động chuyển giao công nghệ
chủ yếu được thực hiện trên bề mặt, chưa theo chiều sâu và chưa có
một chiến lược rõ ràng để tránh lãng phí, đảm bảo chất lượng và
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành sản xuất qua
đầu tư công nghệ thiết bị, lực lượng lao động đang sử dụng tại các
doanh nghiệp hiện nay phần lớn chưa phù hợp với yêu cầu của một
5
phương thức quản lý hiện đại thì hầu hết xuất thân từ nông nghiệp
và công nghiệp bao cấp, chưa quen với tác phong công nghiệp thị
trường. Hơn nữa lại mất cân đối giữa công nhân kỹ thuật , công
nhân có tay nghề cao với lực lương cử nhân . Hội nhập là vấn đề tất
yếu để Việt Nam Phát triển, trước hết Việt Nam cần nỗi lực thực
hiện Hiệp Định Thương Mại Việt -Mỹ, AFTA,CEPT và trong tương
lai là hội nhập toàn cầu khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại
quốc tế (WTO) . Song điều cần nhấn mạnh là dù hiện tại hay tương
lai việt nam cần luôn chủ động tận dụng cơ hội và vượt qua thách
thức để nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hoá và uy tín của mình.
Được vậy, sản phẩm Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới mới
mong có chỗ đứng trên thị trường .
Hội nhập kinh tế Quốc Tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu
tranh và cạnh tranh, tuy quá trình hội nhập kinh tế đưa lai cho Việt
Nam những thuận lợi nhưng bên cạnh đó không ít những khó khăn,
do vậy Việt Nam cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc vận
dụng xử lý khéo léo tính hai mặt của tiến trình hội nhập tuỳ theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ thụ
động, vừa phải trống tư tưởng giản đơn nôn nóng. Nhận thức đầy đủ
đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp
lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước vừa đáp ứng và
tuân thủ đúng các quy định của các tổ chức quốc tế mà nước ta tham
gia.
Việt Nam đã và đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế
Quốc Tế, mở rộng quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát
trriển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ ; bình thường hoá
quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tề Quốc Tế : ngân hàng thế
giới (WB), Quỹ tiền tề quốc tế (IMS) ngân hàng phát triển châu á
(ADB); ra nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tham gia sáng lập diễn đàn áÂu (ASEM) ; ra nhập diễn đàn hợp tác kinh tế châu á -Thái Bình
6
Dương (APEC); trở thành quan sát viên của tổ chức thương mại thế
giới (WTO); và đang tiến hành đàm phán để ra nhập tổ chứ này.
Ngoài ra nước ta cũng đã ký Hiệp định khung về hiệp tác kinh
tế với liên minh châu Âu (EU) và hiệp định thương mại Việt -Mỹ .
Để tăng cường việc chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế Quốc Tế
, Chính phủ đã thành lập uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế Quốc
Tế, Uỷ ban đã có nhứng đóng góp tích cực đóng góp vào việc thực
hiện nhiệm vụ mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế .
Thực hiện đường lối đổi mới, chính sách đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế , nước ta đã mở rông được quan hệ đối ngoại, vượt qua
những khó khăn về thị trường do những biến động ở Liên Xô (cũ)
và Đông Âu gây ra; phá được thế vị bao vây cấm vận của các thế
lực thù địch,tạo dựng được môi trường Quốc Tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc nâng cao vị thế nước ta trên chính
trường và thương trường quốc tế, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế ở khu vực vào cuối những năm
90 của thế kỷ XX.
Quá trình hội nhập kinh tế đã đem lại cho Việt Nam nhiều
thuận lợi nhưng không ít những khó khăn .
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế (*)1
Thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) Và viện trợ phát triển chính thức (ODA), tiếp thu
được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản
lý
Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền
kinh tế vào môi trường cạnh tranh, góp phần tạo lập tư duy kinh tế
mới nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh .
1(*)
Nghị quyết số 07/TW ngày 27/11/2001 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế.
7
Bước đầu xây dựng được một đội ngũ cán bộ làm công tác
kinh tế đối ngoại và quản lý kinh doanh thích nghi dần với điều kện
mới, tạo tiền đề để tiếp tục quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong
những năm tiếp theo .
Với những kết quả đó chúng ta đã từng bước thực hiện đựơc
chủ trương kết hợp phát huy nội lực với ngoại lực, hình thành sức
mạnh tổng hợp đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng,
trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc
Tuy nhiên quá trình hội nhập kinh tế vừa qua cũng bộc lộ
nhiều mặt yếu kém
2. Những tồn tại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt
Nam (*)
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định rõ
trong nhiều nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được thực hiên
từng bước nhưng nhận thức về nội dung,bước đi và lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế chưa đạt được sự nhất trí cao và nhất quán, Một bộ
phận cán bộ chưa thấy hết và chủ động tranh thủ những cơ hội mở
ra, hoặc chưa nhận thức đầy đủ những thách thức sẽ nẩy sinh, để từ
đó có kế hoạch thúc đẩy nền kinh tế nước ta vươn lên chủ động hội
nhập có hiệu quả ;cơ cấu kinh tế chậm lực chuyển dịch để luôn phát
huyđược lợi thế so sánh của đất nước; không ít chủ trương, cơ chế,
chính sách chậm được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế .
Công tác hội nhập kinh tế quốc tế mới được triển khai chủ
yếu ở các cơ quan trung ương và một số thành phố lớn, sự tham gia
của các ngành các cấp của các doanh nghiệp còn yếu chưa đồng bộ,
vì vậy chưa tạo lập được sức mạnh tổng hợp cần thiết đảm bảo cho
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao.
Doanh nghiệp nước ta nói chung còn ít hiểu biết về thị
trường thế giới và luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu ,
8
trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và
khả năng cạnh tranh còn yếu kém, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự
bao cấp và bảo hộ của Nhà Nước còn lại
Môi trường kinh doanh ở nước ta tuy đã được cải thiện đáng
kể song về nhiều mặt còn yếu kém : hệ thống luật pháp còn thiếu
chưa động bộ,chưa đủ rõ ràng và nhất quán ; kết cấu hạ tầng phát
triền chậm ; trong bộ máy hành chính còn nhiều biểu hiện của bệnh
quan liêu và tệ tham nhũng , trình độ nghiêp vụ yếu kém . nguồn
nhân lực chưa được đào tạo tốt .
Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngọai còn thiếu và
yếu tổ chức chỉ đạo chưa sát và kịp thời,các cấp, các ngành chưa
quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuẩn bị
tham gia vào hội nhập. Đây là nguyên nhân sâu xa của những yếu
kém, khuyết điểm trong hợp tác kinh tế với nước ngoài .
Hiện nay, trước xu thế hội nhập , nền nông nghiệp Việt Nam
đang đứng trước những thách thức mới mang tính cạnh tranh về sản
xuất, xuất khẩu nông sản, đặc biệt là đối với những mặt hàng nông
sản xuất khẩu chủ lực
I.2. Vai trò của mặt hàng nông sản trong hệ thống các mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Theo phân loại của FAO, hàng nông sản là tập hợp của nhiều
nhóm hàng khác nhau như, nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới,
nhóm hàng ngũ cốc, nhóm hàng thịt, nhóm hàng sữa và các sản
phẩm sữa, nhóm hàng nông sản nguyên liệu, nhóm hàng dầu mỡ và
các sản phẩm .
Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim
ngạch xuất khẩu do có thị trường nước ngoài và điều kiện sản xuất
trong nước thuận lợi .
Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được Nhà
Nước đề ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây,
khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các
9
mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới có cách nhìn nhận nghiêm túc, rõ
ràng . Hàng xuất khẩu chủ lực được hình thành trước hết là quá
trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài , qua những cuộc cọ xát
cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giới. và cuộc hành trình đi
vào thế giới ấy kéo theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên quy
mô lớn với chất lượng phù hợp đòi hỏi của người tiêu dùng. Nếu
đứng vững được thì mặt hàng đó liên tục phát triển .
Để được xét là mặt hàng chủ lực, điều kiện cần và đủ phải đạt
theo tiêu chuẩn sau :
Một là : có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh
tranh được trên thị trường đó .
Hai là : Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi
phí thấp để thu được lợi trong buôn bán .
Ba là : Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của đất nước .
Ngày nay, số lượng và quy mô các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
không ngừng tăng lên. Tạm tính các mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu từ 50 triệu USD/năm trở lên, năm 1991 từ 6 mặt hàng lên 14
nhóm mặt hàng trong năm 1999 . Đó là : lạc nhân, cao su, chè, điều,
gạo, hạt tiêu, than đá, dầu thô, thuỷ sản, rau quả, hàng dệt may, giầy
dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính, hàng thủ công mỹ nghệ .
Nếu tính đạt kim ngạch từ 100 triệu USD/năm trở lên thì số mặt
hàng này năm 1991 mới có 4 năm 1999 đã lên tới 11 .
Việt Nam có 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực chia làm 3 nhóm
chính : Nông, lâm, thuỷ sản; Nhiên liệu, khoáng sản; Công nghiệp
và thủ công mỹ nghệ . Do trình độ và định hướng đề tài có hạn, ở
đây em chỉ xin trình bày về năm mặt hàng ở nhóm mặt hàng nông
sản chủ lực : Gạo, cà phê, điều , cao su , chè.
Nông nghiệp là ngành khởi đầu , đóng vai trò chủ đạo trong
quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, sản xuất trong lĩnh vực
nông nghiệp rất phong phú, phối hợp từ công nghệ đơn giản nhất
đến những kỹ thuật tiên tiến. Ngành nông nghiệp có khả năng tạo
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để
10
tích luỹ làm tiền nhằm phát triển các ngành công nghiệp khác góp
phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. Nông
nghiệp liên quan chặt chẽ với sự phát triển của các ngành công
nghiêp khác, bởi vì nông nghiệp là ngành hàng đầu của nền kinh tế,
nó sẽ cần một khối lượng nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực
và vì thế tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành kinh tế này và
ngược lại, ngành công nghiệp lớn mạnh sẽ là động lực để ngành
nông nghiệp tạo đà đi lên
Việt nam là một nước nông nghiệp dựa vào sản xuất lúa gạo là
chính, nông nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Nó đóng góp khoảng 42% tổng sản phẩm quốc nội ( GDP), 71
% lượng lao động của cả nước hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp . Việt Nam có nhiều ưu thế để sản xuất nông nghiệp như :
Lợi thế đầu tiên phải kể đến là tài nguyên đất , tổng diện tích tự
nhiên của cả nước có trên 33.1 triệu ha . trong đó có 8,1 triệu ha đất
nông nghiệp rất phù hợp cho việc trồng lúa và các loại cây công
nghiệp như cao su, cà phê, điều, chè, hạt tiêu... cùng với đất, nước,
có ảnh hưởng lớn đến khả năng khai thác nông nghiệp. Tài nguyên
nước dồi dào cũng là một trong lợi thế nổi bật của sản xuất nông
nghiệp Việt Nam. Ngoài ra nước ta còn có lợi thế về khí hậu, độ ẩm,
nhiệt độ, lượng mưa lớn rất thích hợp cho sự tăng trưởng của cây
lương thực, cây công nghiệp. Nguồn nhân lực cũng là một lợi thế
Việt Nam có nguồn nhân lực lớn cả về số lượng lẫn chất lượng với
gần 29 triệu lao động chiếm 70% lực lượng lao động của cả nước.
Đó là những ưu thế về sản xuất nông nghiệp, ưu thế đó ngày càng
rõ ràng hơn khi đặt trong bối cảnh khó khăn của tình hình lương
thực thế giới ngày nay. Thế mà, như đã khẳng định ở trên, luật chơi
của kinh tế ngày nay là luật chơi của kinh tế thị trường trong đó mỗi
quốc gia chỉ có thể trông cậy vào vũ khí duy nhất là hướng vào xuất
khẩu những mặt hàng có lợi thế so sánh cao nhất của mình .
Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản chủ lực cần phải kể
đến đó là:
a. Xuất khẩu nông sản chủ lực nhằm giải quyết vấn đề ngoại tệ
cho quốc gia có ngoại tệ để nhập khẩu nhằm phục vụ cho công cuộc
Công Nghiệp Hoá- Hiện Đại Hoá đất nước .
11
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là
con đường tất yếu khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát
triển của nước ta để công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn
đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị công
nghệ tiên tiến .
b. Xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu đóng góp vào
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển .
Với quan điểm coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để
tổ chức sản xuất và xuất khẩu.Quan điểm này tác động tích cực đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc dẩy sản xuất phát triển đê thực hiện
Xuất khẩu sẽ tạo điềukiện cho các ngành khác cùng cơ hội
phát triển
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm góp phần ổn định sản xuất
Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia
Thông qua xuất khẩu nông sản việt nam sẽ có điều kiện tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả và chất
lượng . cuộc cạnh tranh này có tác dụng ngược trở lại buộc các
doanh nghiệp việt nam phải tổ chức, xem xét lại khâu sản xuất ,
hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp , các doanh nghiệp phải
nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những biến
động của thị trường thế giới.
c. Xuất khẩu nông sản có tác dụng tác động tích cực đến việc
giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân .
Tác động của xuất khẩu nông sản đến đời sống nhân dân khá
rõ nét, được thể hiện trên nhiều phương diện . Một mặt sản xuất
nông sản là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm có thu nhập khá
ổn định, mặt khác xuất khẩu nông sản tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu
sản phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú
của nhân dân . Ngoài ra thông qua xuất khẩu nông sản chúng ta
phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu của thị trường đối với mặt hàng
nông sản . Mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài và sản xuất
12
trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là một cách tốt nhất để
nâng cao trình độ và hiệu quả của nền công nghiệp .
Nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
nước ta hiện nay, các sản phẩm nông sản có vai trò rất to lớn , góp
phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu , xuất khẩu hàng nông sản đem
lại nhiều lợi ích như tích luỹ vốn cho sự nghiệp Công Nghiệp HoáHiện Đại Hoá đất nước giúp Việt Nam khai thác được các lợi thế
của mình về đất đai khí hậu. Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của
các vùng sinh thái và các địa phương như trong cả nước , đã hình
thành được phần chuyên canh sản xuất hàng hoá nông sản xuất khẩu
trên quy mô lớn như lúa gạo ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
,Đồng Bằng Sông Hồng ; cà phê vùng Tây Nguyên ; cao su vùng
Đông Nam Bộ ; chè vung miền Núi -Trung Du phía Bắc ; và một số
vùng cây ăn quả đặc sản khác ... đã góp phần nâng cao được khối
lượng hàng hoá và kim ngạch nông sản xuất khẩu (bình quân tăng
20%/ năm )
Triªu USD
3000
2500
2500
1900
2200
2650
2600
2230
2000
1500
909.5
1000
500
0
N¨m
1990
N¨m
1995
N¨m
1996
N¨m
1997
N¨m
1999
N¨m
20000
N¨m
2001
Những con số phản ánh ở trên tuy là những kết quả bước đầu,
song đã góp phần đáng kể trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp và nông thôn theo từng bước Công Nghiệp HoáHiện Đại Hoá đất nước, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ từ nền
kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhằm nâng
13
cao vị thế của nền nông nghiệp Việt Nam trên thương trường quốc
tế.
Biểu I.1. Mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thời kì
1996- 2001:
Mặt hàng
Lạc nhân
Đơn vị
1996 1997
nghìn tấn 127,0 83,3
1998
87,0
1999 2000 2001
56,0 80,0
76,2
Cao su
nghìn tấn 194,5 194,6 191,0 263,0 251,5 300
Cà phê
nghìn tấn 283,7 398,7 382,0 488,0 733,9 910
3
Chè
nghìn tấn 20,8 32,0 33,0 37,0 56,5
58,0
Hạt tiêu
nghìn tấn 25,3 23,0 15,0 38,4 37,9 50,6
Hạt điều nhân nghìn tấn 16,5 33,3 25,6 16,0 40,9
18,4
Hàng rau quả
Triệu
90,2 68,0 53,0 74,0 72,0 75,0
USD
Gạo
Triệu tấn 3,00 3,50 3,75 4,50 3,50 3,55
Nguồn: Niên gián thống kê 2001
Trong năm năm 1991- 1995. Việt Nam đã xuất khẩu được với
số lượng lớn, nhưng chỉ tới năm 1995 vị trí gạo mới được khẳng
định trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Cà phê cũng có những bước tiến
vượt bậc, năm 1990 là 89,6 nghìn tấn, năm 1999 là 488 nghìn tấn,
năm 2000 là 743 nghìn tấn và đạt 910 nghìn tấn và 2001. Với mặt
hàng chè năm 2000 xuất khẩu đạt 56,5 nghìn tấn nhưng đến năm
2001 đã xuất khẩu được 58 nghìn tấn. Hạt điều nhân cũng có sự
tăng trưởng đáng kể về số lượng xuất khẩu, năm 2000 là 18,4 nghìn
tấn, năm 2001 đã là 40,9 nghìn tấn.
Biểu I.2: Tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
Nhóm hàng
1996 1997 1998 1999 2000
2001
CN nặng và khoáng chất 28.74 28.0 27.87 27.16 26.08 25.40
2
CN nhẹ và thủ công 28.96 36.7 36.62 37.08 37.12 37.60
14
nghiệp
Nông sản
1
29.76 24.2 24.31 23.87 23.60 23.00
9
Lâm sản
2.90 2.45 2.04 1.86 1.88 1.80
Thuỷ sản
9.94 8.53 9.16 10.03 11.32 12.20
Nguồn : Niên gián thống kê 2001
Việt Nam là một nước có nhiều ưu thế về xuất khẩu hàng
nông sản, trong 14 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có 9
mặt hàng là nông sản : Lạc nhân, Cao su, Chè, Gạo, Hạt tiêu, Hạt
điều nhân... Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng nhanh qua các
năm, hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã trở thành mặt hàng
quen thuộc và ưa chuộng trên thế giới.
Tû träng xuÊt khÈu n«ng s¶n cña ViÖt Nam n¨m
2001
CN nÆng vµ
kho¸ng chÊt
12.2
CN nhÑ vµ thñ
25.4
1.8
c«ng nghiÖp
N«ng s¶n
23
L©m s¶n
Thuû s¶n
37.6
Xét về tỉ trọng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chúng
ta thấy rằng từ 1996 đến nay, tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và
khoáng sản có xu hướng giảm sút, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và
thủ công mỹ nghệ có chiều hướng gia tăng mặc dù có sự giảm nhẹ
năm 1998. Song với chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng đã
qua chế biến, tỷ trọng nhóm hàng này đã tăng lên gần 40% vào
những năm 1999, 2000, 2001. Nhóm hàng nông, lâm , thuỷ sản là
nhóm hàng xuất khẩu khá quan trọng của Việt Nam trong đó quan
trọng nhất thuộc về nhóm hàng nông thuỷ sản xuất khẩu. Trong
15
những năm qua, hàng nông sản xuất khẩu đang từng bước chiếm
được vị trí quan trọng trong xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay đang
dao động trong khoảng 23- 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam.
I.3. Nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với qúa trình hội
nhập quốc tế:
Với chính sách đổi mới, mở cửa. Việt Nam sẽ trở thành thị
trường cạnh tranh của các công ty Đa Quốc Gia và Việt Nam sẽ
phải cạnh tranh với các nước khác để đưa hàng hoá của mình xâm
nhập và thâu tóm thị trường thế giới, tiến tới Việt Nam sẽ tham gia
và Tổ chức thương mại Quốc Tế (WTO). Đó là những thuận lợi và
cơ hội rất tốt để Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Bởi lẽ,
nhờ tham gia và sự phân công, hiệp tác quốc tế, sẽ mở rộng được thị
trường nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng
Việt Nam có lợi thế so sánh và nâng cao khả năng cạnh tranh các
sản phẩm trên thị trường thế giới.
Song song với những thuận lợi trên, khi hội nhập vào thị
trường thế giới và khu vực, Việt Nam phải đương đầu với những
khó khăn: Chất lượng, khối lượng của hàng nông sản chưa cao,
chưa tạo lập được thị trường tiêu thụ ổn định, thiếu bạn hàng, giá cả
thường xuyên biến động gây không ít khó khăn cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng. Mặt khác, sản phẩm và dịch vụ của Việt
Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá nước ngoài. Do vậy vấn
đề đặt ra đối với Việt Nam là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của
sản phẩm xuất khẩu hòng đứng vững trên thị trường và ngày càng
hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Việc tiếp tục đổi mới nền kinh
tế, đổi mới cơ chế, luật pháp, phương thức quản lý để nâng cao năng
lực cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nông sản là vấn đề có tính
chất cơ bản giúp Việt Nam hội nhập một cách có hiệu quả vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
16
Theo các chuyên gia kinh tế, cùng với AFTA. Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ, sức ép gia tăng mạnh lên nền kinh tế và các
doanh nghiệp Việt Nam là năm 2006. Chúng ta sẽ hoàn tất lộ trình
thực hiện chương trình CEPT. Khi đó thuế xuất nhập khẩu theo
CEPT giảm xuống còn từ 0-5% và hàng rào phi thuế quan bị xoá bỏ,
hàng hóa của các nước ASEAN sẽ tràn vào thị trường Việt Nam với
giá thấp hơn hiện nay rất nhiều do thuế xuất nhập khẩu giảm. Nếu
Việt Nam không đầu tư, chuẩn bị thật kĩ lưỡng ngay từ bây giờ- mà
thực tế bây giờ không còn là sớm nữa- chắc chắn sẽ không thể cạnh
tranh với các doanh nghiệp ASEAN khác. Cũng có ý kiến cho rằng,
CEPT sẽ giúp hàng hoá Việt Nam rộng cửa vào các nước ASEAN
nên cơ hội chia đều cho các đối thủ. Tuy nhiên, khi xuất khẩu vào
các nước ASEAN, giá FOB cảng Việt Nam vẫn còn cao và số lượng
hàng hoá xuất khẩu không lớn, nên khả năng chiếm lĩnh thị trường
ASEAN của hàng hoá Việt Nam không cao. ASEAN là một thị
trường khá lớn với khoảng 500 triệu dân, tuy trước mắt gặp rất
nhiều khó khăn tạm thời song tiềm năm phát triển còn lớn, lâu nay
chiếm khoảng trên dưới 1/3 kim ngạch buôn bán của nước ta, sắp
tới khi AFTA hình thành càng mở ra triển vọng giao lưu buôn bán.
Mặt khác, ASEAN có nhiều hàng hoá giống ta đều hướng ra các thị
trường khác là chính chứ không phải là buôn bán trong khu vực là
chính, thêm vào đó các mặt hàng của ASEAN lại hơn ta về chất
lượng và số lượng, có bạn hàng lâu năm và ổn định hơn ta ( gạo
đứng đầu xuất khẩu thế giới là Thái Lan, cao su là Inđônêxia...)
trong khi đó với việc áp dụng biểu thuế AFTA, hàng của ASEAN
có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đi vào thị trường Việt Nam.
Do đó có thể làm cho cán cân thương mại càng bất lợi hơn với
chúng ta.
Vì vậy, Việt Nam cần chủ động hội nhập theo lộ trình phù hợp
với điều kiện của nứơc mình, đảm bảo xem trọng các cam kết song
phương và đa phương. Bên cạnh đó, cần làm cho doanh nghiệp xuất
khẩu thấy rõ thuận lợi và thách thức đan xen trong khi hội nhập
17
đang gõ cửa. Muốn vậy, phải bám sát lộ trình trong cơ chế mới
2001- 2005, cắt giảm từng bước các biện pháp bảo hộ, bao cấp cũ,
đề ra những bước đi phát triển bền vững, đoạn tuyệt với cách chụp
dựt, ăn xổi. Khi xuất khẩu, hàng hoá phải hấp dẫn về chất lượng,
kiểu dáng và giá cả. Khi nhập tìm được công nghệ cao, thị trường
gốc, hiệu quả cao, không thua thiệt với bên ngoài, cạnh tranh được
với hàng nhập khẩu ngay tại sân nhà.
Trong khi tiếp tục có các giải pháp hỗ trợ về xuất khẩu nông
sản, cần phải cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng có tính
toán đến yếu tố thị trường, với những liệu pháp mạnh về qui vùng,
đổi mới giống, qui trình sản xuất, bảo quản, chế biến. Bên cạnh
năng xuất cao phải có chất lượng tốt, giá cả hợp lý đáp ứng nhu cầu
của khách hàng quốc tế. Có chế định ưu đãi thu hút nhằm thực hiện
tự giác theo những nội dụng nêu trên.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trên cơ sở phát
huy tối đa nội lực, bảo đảm độc lập tự chủ, bình đẳng cùng có lợi.
Thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế trong quá trình hội
nhập, trước hết là lộ trình giảm thuế quan. Thực hiện chính sách bảo
hộ có trọng điểm, có điều kiện và có thời gian phù hợp với tiến trình
hội nhập. Tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác
song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, đặc biệt chú ý
tới các cam kết trong khuôn khổ ASEAN, diễn đàn hợp tác á-Âu
(ASEM), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương
( APEC), tiếp tục đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước bạn bè truyền thống,
các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu á, Châu
Phi, Trung Đông và Mỹ la tinh. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các
nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế
18
II. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
SẢN
II.1. Nội dung :
Việt Nam là một nước nông nghiệp , nông nghiệp có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó đóng góp khoảng 42%
tổng sản phẩm quốc nội (GDP), 71,9% lực lượng lao động của cả
nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đã chọn con
đường phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu. Thực tế cho thấy
ngành nông nghiệp đã đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu
của cả nước, đồng thời thay thế được nhập khẩu những nông sản
phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả hơn để khai thác tốt nhất
các lợi thế về nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kĩ thuật, công
nghệ, thị trường cho sự phát triển.
Để xuất khẩu được hàng hoá ra khỏi lãnh thổ của Việt Nam,
nội dung của hoạt động xuất khẩu được tổ chức gồm nhiều nghiệp
vụ: Từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng
hoá xuất khẩu, bạn hàng giao dịch , thông qua các bước giao dịch và
đàm phán đi đến kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho
đến khi hàng hoá được chuyển đến nước bạn, chuyển quyền sở hữu
hàng hoá cho người mua và người mua tiến hành thủ tục thanh toán.
Mỗi nội dung của hoạt động xuất khẩu chính là mõi khâu, mỗi
nhiệm cụ của hoạt động xuất khẩu và để đạt đựơc hiêu quả cao nhất
phục vụ được đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và cho tiêu dùng đòi hỏi
chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng mỗi nghiệp vụ và đặt chúng
trong mối quan hệ lẫn nhau.
1. Nghiên cứu thị trường: Nông sản xuất khẩu
Muốn khai thác và nghiên cứu, phát triển nguồn hàng của
mình, các doanh nghiệp ngoại thương phải luôn tìm cách tiếp cận
thị trường. Thị trường là một dạng thù khách quan gắn với lợi ích
19
nền sản xuất với lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất, lưu thông
thì ở đó có thị trường.
Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết và đầu tiên đối với
bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới.
Nghiên cứu thị trường là quá trình điều tra để tìm triển vọng
bán hàng cho một hoặc một nhóm sản phẩm. Công tác nghiên cứu
thị trường phải góp phần chủ yếu trong việc thực hiện phương châm
hành động “ chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái thị
trường có”.
Đối với doang nghiệp xuất khẩu, nghiên cứu thị trường cần
phải trả lời các câu hỏi: Nước nào là thị trường có triển vọng nhất
đối với sản phẩm; khả năng bán được bao nhiêu, bán cho ai; chọn
phương pháp bán nào là phù hợp nhất... Nghiên cứu thị trường hàng
hoá thế giới có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế.
2. Lập dự án kinh doanh:
Lập dự án kinh doanh chỉ có thể thực hiện được khi đã tiến
hành nghiên cứu thị trường. Dựa và kết quả thu được trong quá trình
nghiên cứu, tiếp cận thị trường đơn vị kinh doanh phải lập phương
án kinh doanh, phương án này là kế hoạch chiến lược, phương
hướng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đặt ra các mục tiêu
sao cho khả thi nhất.
Theo dự báo kế hoạch của Bộ NN- PTNT, mục tiêu phấn đấu
trong năm 2002 của ngành là: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất
nông nghiệp đạt 2,5%, lâm ngiệp đạt 3% so với năm 2001. Sản
lượng lương thực có hạt đạt 34,5 triệu tấn, trong đó thóc đạt 32-32,3
triệu tấn; ngô 2,3-2,5 triệu tấn; cà phê 750 ngàn tấn; hạt điều cả vỏ
146 ngàn tấn, chè búp khô 60 ngàn tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu
nông, lâm sản đạt 3 tỷ USD trong đó mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là
gạo 3,8 triệu tấn, cà phê 750 ngàn tấn; cao su mủ khô 310 ngàn tấn,
hạt tiêu 46 ngàn tấn; hạt điều 140 ngàn tấn, chè 80 ngàn tấn.
20
- Xem thêm -