Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự việt nam và đề xuất hoàn thiện...

Tài liệu Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự việt nam và đề xuất hoàn thiện

.PDF
18
12
81

Mô tả:

A. PHẦN MỞ BÀI: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định trong bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Trong quá hình tiến hành tố tụng, để đảm bảo cho việc phát hiện, tìm ra kẻ phạm tội. Xác định tội phạm không đế lọt kẻ phạm tội và phục vụ công tác xét xử người phạm tội được chính xác, nghiêm minh, các cơ quan và những người có thẩm quyền theo pháp luật quy định áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định trong bộ luật tố tụng hình sự. Tạm giam là việc thể hiện sự bắt buộc của nhà nước đối với bị cán bị cáo, sự bắt buộc đó thể hiện ở chỗ biện pháp tạm giam được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, do các cơ quan có chức năng thẩm quyền thực hiện. Trong phạm vi bài viết này, em xin hình bày về biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và đề xuất hoàn thiện. B. PHẦN THÂN BÀI: I. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003, hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự bao gồm 6 biện pháp: bắt, tạm giam, tạm giam , cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Trong số các biện pháp nêu trên tạm giam là biện pháp mang tính nghiêm khắc nhất. Xung quanh khái niệm về biện pháp tạm giam hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm nhìn nhận tạm giam dưới một góc độ khác nhau nhất định, nhưng căn cứ vào Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đưa ra khái niệm về biện pháp tạm giam: “ Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tổ tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đổi với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình 1 sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tổ, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội ” . Thực tế việc tạm giam làm hạn chế đi một số quyền công dân của người bị tạm giam, nhưng không phải là bị Luật pháp tước bỏ hết các quyền công dân của người bị tạm giam mà người bị tạm giam vẫn còn bị tước bỏ một số quyền theo luật định của người bị tạm giam chỉ dẫn ra trong một thời gian nhất định do các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành theo luật định. Khi áp dụng biện pháp tạm giam, mục đích là đế ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, phục vụ cho việc đấu hanh phòng chống tội phạm có hiệu quả cao. Là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, nhưng tạm giam không phải là hình phạt tù vì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Toà áp dụng không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo trở thành con người tốt có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội với hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu hanh và phòng ngừa tội phạm. Tạm giam cũng khác với “giam giữ hành chính” là một biện pháp phạt đối với người vi phạm hành chính. Các cấp thẩm quyền áp dụng biện pháp giam giữ hành chính để nhằm giáo dục họ về ý thức tuân thủ pháp luật chứ không nhằm ngăn chặn tội phạm. Từ đó, tạm giao và tạm giữ đều là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự nhưng tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc hơn tạm giữ. Thời gian tạm giam dài hơn thời gian tạm giữ và cũng khác nhau về đối tượng. Đối tượng của biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo : Còn đối tượng của biện pháp tạm giữ là người chưa bị khởi tố, họ bị bắt tạm giữ hành chính, tạm giữ trong những trường họp khẩn cấp hay phạm tội quả tang. II. Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tế tụng hình sự Việt Nam: 1. Đối tượng bị tạm giam: Khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “ Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: + Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng + Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm mà có căn cứ cho rằng nguời đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” Theo quy định trên thì đối tuợng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can bị cáo. Bị can là những nguời đã bị khởi tố về hình sự ( khoản 1 Điều 49 BLTTHS), tức là những nguời đã có quyết định khởi tố bị can về một tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự. Còn bị cáo là những nguời đã bị Tòa án quyết định đua ra xét xử ( khoản 1 Điều 50 BLTTHS ). Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp tạm giam, mà chỉ áp dụng với họ trong hai truờng họp sau: Trường hợp 1: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, tội phạm rất nghiêm trọng là tội gây hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù ( khoản 3 Điều 8 BLHS). Nếu bị can, bị cáo thuộc những truờng họp này, những nguời có thẩm quyền ra lệnh tạm giam ngay mà không cần có thêm các căn cứ khác. Trường hợp 2: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng nguời đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tộ ấy là đến 3 năm tù. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hinihf phạt tù từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác không phải là hình phạt tù thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Nếu cần thiết, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp khác nhu cấm đi khỏi nơi cu trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị đế bảo đảm. Tội phạm nghiêm họng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù ( khoản 3 Điều 8 BLHS). Trong truờng họp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng, mà Bộ luật hình sự quy định, hình phạt tù trên 2 năm đế tạm giam họ cần phải có thêm điều kiện thứ hai, đó là có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội. Các căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tổ, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội: + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn: Không đuợc quy định trong luật. Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những căn cứ chủ yếu cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cu hú của bị can, bị cáo (Có nơi cu trú? Thuờng trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền hay không? Nơi cu trú có ở quá xa nơi tiến hành các hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng nghề nghiệp (Có nghề nghiệp không? Làm việc trong cơ quan, tố chức hay làm nghề tự do?); Tính chất hành vi đã thực hiện (cuóp, trộm cắp, giết nguời hay lừa đảo...); Nhân thân (tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân...); Sự ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc; Mối tuơng quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý truớc pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo nhu liên hệ với nguời thân ở xa, mua vé đi xa... Khi vận dụng các căn cứ để xét bị can, bị cáo có thể trốn cần luu ý là không phải khi nào cũng có thể làm rõ đuợc tất cả các nội dung trên mà tùy thuộc vào từng trường họp cụ thể và phải biết căn cứ vào nội dung nào là chủ yếu. Để quyết định việc tạm giam không nhất thiết phải làm rõ tất cả các nội dung trên, có thể chỉ một nội dung cũng đã đủ để nhận định là đối tượng sẽ trốn. + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tổ, xét xử: Được biếu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, huy tố, xét xử là trường họp “gây khó khăn cho việc điều ha, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc xác định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, huy tố, xét xử phải dựa trên những căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, huy tố, xét xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những căn cứ cần xem xét để nhận định bị can, bị cáo cản trở việc tiến hành tố tụng thường là: • Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Những bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì thuờng tiến hành nhiều hoạt động đối phó hoạt động tố tụng. • Nhân thân nguời phạm tội, nhu loại đối tuợng luu manh, côn đồ thuờng có hành động đe dọa, khống chế nguời làm chứng, nguời bị hại hoặc thông đồng với đồng bọn về những lời khai gian dối. • Sự ràng buộc với gia đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp. • Tình hạng chứng minh là mức độ làm rõ về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, đối với những đối tuợng mà hành vi của họ cơ bản đã đuợc làm rõ thì hành vi đối phó hoạt động tố tụng sẽ hạn chế và nguợc lại. • Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo nhu tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có... + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: Phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng họp. Những tình tiết đó thuờng là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo nhu đe dọa, khống chế, mua chuộc nguời làm chứng, nguời bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm. Thể hiện tinh thần nhân đạo Xã hội chủ nghĩa. Bộ luật tố tụng hình sự quy định một số truờng họp không áp dụng biện pháp tạm giam; các truờng hợp đó là: Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con duới 36 tháng tuổi; nguời già yếu, nguời bị bệnh nặng. Những truờng họp hên phải có thêm một điều kiện khác đó là có nơi cu trú rõ ràng. Trong truờng họp không có nơi cu trú hoặc không xác định đuợc nơi cu hú, có nhiều nơi cu trú, nơi cu trú quá xa nơi tiến hành điều tra hoặc trong truờng họp đặc biệt thì vẫn phải áp dụng biện pháp tạm giam. Những truờng họp đặc biệt nói hên theo quy định tại khoản 2, Điều 88 gồm: - Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; - Bị can, bị cáo đuợc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhung tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản hở nghiêm trọng đến việc điều ha, truy tố, xét xử; 5 - Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Với việc quy định này Bộ luật tố tụng hình sự ở nuớc ta thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo Xã hội chủ nghĩa, tôn họng quyền con nguời, bảo vệ quyền trẻ em. Với điều kiện sinh hoạt trong các hại giam thì không thể bảo đảm đầy đủ những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi con duới 36 tháng tuổi, nguời già yếu, nguời bị bệnh nặng. Hơn nữa trong những truờng hợp này thì bị can, bị cáo đã có nơi cu trú rõ ràng, nếu họ không thuộc các truờng họp đặc biệt kể hên, các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng. 2. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam: Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp tạm giam. Điều 79 Bộ luật tố tụng hình dụng biện pháp ngăn chặn sự 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm các căn cứ: - Đe kịp thời ngăn chặn tội phạm - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, xét xử cáo sẽ tiếp tục phạm tội. - Đe đảm bảo thi hành án. Trong số các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn kể trên, “ căn cứ để ngăn chặn tội phạm ” chỉ áp dụng cho các truờng họp bắt nguời phạm tội qủa tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt nguời trong truờng họp khẩn cấp theo điểm a khoản 1 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội không đế tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành, hay không đế nguời phạm tội gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam gồm: Căn cứ thứ nhất: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tổ, xét xử Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều ha, truy tố, xét xử thể hiện việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, nguời thực hiện tội phạm có thế hủy, làm giả hoặc thay đối chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua chuộc dụ dỗ, lừa phỉnh, cuông ép, khống chế nguời làm chứng, nguời bị 6 hại... dẫn đến việc gây khó khăn phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật khách quan vụ án. Trong các giai đoạn điều tra, huy tố, xét xử, có thể áp dụng căn cứ này để tạm giam. Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể đuợc thể hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân của các bị can, bị cáo:bị can, bị cáo là những phần tử xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tên tội phạm có tính chất chuyên nghiệp, những tên côn đồ hung hãn coi thuờng pháp luật. Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội còn thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo nhu đe dọa hả thù nguời làm chứng, nguời bị hại và sự đe dọa có khả năng hở thành hiện thực. Căn cứ thứ ba: Để đảm bảo thi hành án. Công tác thi hành án hình sự là vấn đề vô cùng quan họng. Các bản án, quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật cần phải đuợc đua ra thi hành. Có nhu vậy mới nâng cao đuợc tính hiệu quả của pháp luật trong đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để thi hành án là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất cụ thể cửa từng vụ án, tùy theo nhân thân của nguời bị kết án, Tòa án có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn thích họp trong đó tòa án có thể sử dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, còn nếu có đủ cơ sở cho rằng bị cáo sẽ không bỏ trốn, không gây cản hở khó khăn cho việc thi hành án thì không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn nhu: cấm đi khỏi nơi cu trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo cũng đủ để đảm bảo cho việc chấp hành án của nguời bị kết án. 3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: Khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “ những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quỵ định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cẩp phê chuẩn trước khi thi hành ” Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, những nguời sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: - Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp; 7 - Chánh án, Phó Chánh án TAND và TAQS các cấp; - thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC; Hội đồng xét xử; - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong hường họp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Như vậy thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định cho nhiều Cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau ở tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. Viện kiểm sát với chức năng là Cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với lệnh tạm giam của thủ trưởng, Phó Thủ hưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. 4. Thủ tục tạm giam: Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định, vì vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cần phải tuân theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyền ký. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên địa chỉ người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Theo quy định tại khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra phải được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thâm thể, quyền lợi ích và danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến cả nhân thân của họ. Vì vậy, sau khi ra lệnh tạm giam cơ quan đã ra lệnh tạm giam cần phải báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư hú, làm việc biết. Bên cạnh đó, khi tiến hành tạm giam một người cần phải đảm bảo cácthủ tục liên quan khác như: thực hiện viện chăm nom người thân thích, bảo quản tài sản người bị tạm giam (Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự 2003) 5. Thòi hạn tạm giam: Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thời hạn tạm giam không được quy định tập trung tại một điều 8 luật mà được quy định theo từng giai đoạn của quá hình tố tụng. Thời hạn tạm giam trong tố tụng được chia thành: thời hạn tạm giam để điều ha; thời hạn tạm giam để truy tố; thời hạn tạm giam đế xét xử sơ thẩm; thời hạn tạm giam đế xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam đế thi hành án. a) Thời hạn tạm giam để điều tra: Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm họng, không quá ba tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá bốn tháng với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thêm thời gian dài hơn cho việc điều ha và không có căn cứ để thay đổi, hủy bỏ Biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày hước khi hết hạn tạm giam. Cơ quan phải có văn bản đề nghị VKs gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam quy định như sau: đối với tội phạm ít nghiêm họng có thể được gia hạn hơn một lần không quá một tháng. Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng, với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng. Như vậy đối với tội phạm ít nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể là ba tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng thời hạn tạm giam điều ha tối đa có thể là 6 tháng, đối với tội phạm rất nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể là chín tháng, còn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều ha tối đa có thể lên đến mười sáu tháng, trong hường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điếm b khoản 3 Điều 120 đã hết và vụ án có tình tiết phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba trong trường hợp cần thiết đối với 9 tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện hưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá 4 tháng (Điều 120) So sánh thời hạn tạm giam để điều tra ( quy định tại Điều 120 ) với thời hạn điều tra ( quy định tại Điều 119 ) thì thời hạn tạm giam để điều tra bằng với thời hạn điều tra còn thời hạn tạm giam để điều tra đối với các tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng ngắn hơn thời hạn gia hạn để điều tra. Với quy định này nhà làm luật nhằm mục đích hạn chế việc lạm dụng thời hạn tạm giam, đồng thời còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo cơ quan điều ha phải đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, nếu không thời hạn tạm giam sẽ hết mặc dù thời hạn điều ha vẫn còn. b) Thời hạn tạm giam để truy tổ: Khoản 2 Điều 166 BLHS 2003 quy định: “ thời hạn tạm giam để truy tổ không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 166 : Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong cá quyết định sau : quyết định truy tố bị cáo trước Tòa án bằng bản cáo trạng; quyết định trả hồ sơ để điều ha bổ sung; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong trường họp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn tạm giam nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy thời hạn tạm giam để huy tố đối với tội phạm ít nghiêm họng và tội phạm nghiêm trọng tối đa có thể lên đến ba mươi ngày, đối với tội phạm rất nghiêm họng tối đa có thể lên đến ba mươi ngày, đối với tội phạm rất nghiêm họng tối đa có thể lên đến bốn mươi lăm ngày, còn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thời hạn tạm giam để truy tố tối đa có thể lên đến sáu mươi ngày. c) Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm: 10 Điều 177 BLTTHS 2003 quy định: " thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điều 176 của Bộ luật này” . Theo quy định tại Điều 176, thời hạn chuẩn bị xét xử là ba muơi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn muơi lãm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ này nhận hồ sơ vụ án.... Đối với những vụ án phải thi hành án tòa án có thể quyết định gia hạn nhung không quá muời lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; không quá ba muơi muơi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm họng. Sau khi quyết định đua vụ án ra xét xử thì thời hạn tạm giam để mở phiên tòa là từ năm ngày đến ba muơi ngày. Ngoài ra, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết thì tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Nhu vậy, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa ( kể cả gia hạn muời lăm ngày đối với tội ít phạm nghiêm trọng, chín muơi ngày đối với tội phạm nghiêm họng, một hăm hai muơi ngày đối với tội phạm rất nghiêm họng, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn này có thể lên đến một trăm năm muơi ngày. d) Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm: Điều 243 BLTTHS 2003 quy định: Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng , thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó chánh án TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quận, Chánh tòa, Phó chánh tòa phúc thẩm TANDTC quyết định. Thời hạn tạm giam không đuợc quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự. Theo quy định tại Điều 242 BLTTHS 2003, TAND cấp tỉnh, TAQS cấp phúc thẩm TANDTC, TAQS trung uơng phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn chín muơi ngày kế từ ngày nhận đuợc hồ sơ vụ án. e) Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án: 11 Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hội đồng xét xử quyết định việc tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, Điều 228 BLTTHS 2003 quy định: Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhung đến ngày thời hạn tạm giam đã hết thì hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Trong truờng họp bị cáo không bị tạm giam thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có nhận thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam bị cáo bốn muơi lăm này, kể từ ngày tuyên án. Tại phiên tòa phúc thẩm, theo quy định tại Điều 243 BLTTHS 2003 bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, thời hạn tạm giam là bốn muơi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. 6. Một số quy định chung khác liên quan đến việc tạm giam: a) về chế độ tạm giam: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn đuợc áp dụng để đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thi hành tố tụng và không để cho nguời phạm tội tiếp tục thuwcj hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng đây không phải là hình phạt đối với nguời phạm tội. Đây là đặc điểm để phân biệt “ tạm giam” với “ giam”. “ Giam” là biện pháp chấp hành hình phạt tù, nguời bị kết án phải chấp hành cải tạo và sinh sống trong trại cải tạo ( hại giam ) một thời gian bằng thời hạn tù mà tòa án đã tuyên ( đuợc khấu trừ thời hạn đã bị tạm giam ). Do tạm giam không phải là hình phạt nên chế độ tạm giam khác với chế độ nguời đang chấp hành hình phạt tù ( Điều 89 BLTTHS) Ngày 07/11/1998 Chính Phủ đã ban hành Nghị định 89/NĐ-CP về Quy chế tạm giữ, tạm giam. Nghị định này thay thế Nghị định 149 - HĐBT ngày 5/5/1992 của Hội Đồng Bộ Truởng ( nay là Chính phủ ) về chế độ tạm giữ, tạm giam. Sự ra đời của Nghị định số 89 có ý nghĩa quan họng, thể hiện sự tiến bộ trong công tác đấu hanh phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. b) về chế độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giam: 12 Chế độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giam được quy định tại Điều 90 BLTTHS như sau: Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc, cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường họp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao cho chính quyền sở tại chăm nom. Trong trường họp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản riêng cho người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giữ chỉ áp dụng biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng. Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người tạm giam biết biện pháp được áp dụng. Việc pháp luật quy định về chế độ chăm nom người thân và bảo quản người bị tạm giam thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta, người bị tạm giam người có trách nhiệm đối với người thân nhất là những người này để tự mình chăm sóc được cho mình chính vì vậy mà khi đã tạm giam phải có những chính sách để đảm bảo cuộc sống cho người bị tạm giam cũng như tài sản của người bị tạm giam. c) Việc khẩu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt: Theo quy định của Điều 33 BLHS 1999, thời hạn tạm giam được tính chấp hành hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giam bằng một ngày tù, không chỉ áp dụng với người bị tạm giam liên tục mà áp dụng với cả những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác tạm giam. Những hình phạt khác không phải là hình phạt tù. Riêng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc kỷ luật của quân đội và hình phạt tù chung thân thì thời hạn tù tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. d) về quyền của người bị tạm giam: Theo quy định của BLTTHS 2003 đối tượng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là bị can, bị cáo, người đã bị kết án phạt tù hoặc tử hình bỏ trốn bị bắt để tạm giam. 13 Khi bị tạm giam bị can, bị cáo có đầy đủ quyền của bị can, bị cáo được quy định tại Điều 49, Điều 50 và khi họ là người bị kết án đang chờ thi hành hình phạt tù họ có các quyền được quy định tại điều 260 BLTTHS 2003. Theo Điều 49 và Điều 50 BLTTHS thì mặc dù bị can, bị cáo lúc đó có thể đang bị tạm giam để đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải đảm bảo các điều kiện cần thiết để cho bị can, bị cáo thực hiện được các quyền của mình, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bản thân. Việc quy định các quyền của bị can, bị cáo ngoài mục đích để bị can, bị cáo chủ động tham gia tố tụng còn góp phần vào việc tránh bỏ lọt tội phạm, tránh bắt giam người vô tội trong khi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ của mình. Đối với người bị kết án đang bị tạm giam theo quy định tại Điều 260 BLTTHS quy định: trong trường hợp người bị kết án đang bị tạm giam thì theo yêu cầu của người thân thích người bị kết án, cơ quan công an phải cho người bị kết án gặp người thân thích trước khi thi hành án. Ban giám thị trại giam phải thông báo cho gia đình người bị kết án để người đó chấp hành hình phạt. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng đạt được hiệu quả cao, đồng thời thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với người có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích họp pháp của công dân. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giam trong qui trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, để đảm bảo các quyền của công dân, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn tạm giam còn thể hiện ở chỗ: đây là những biện pháp cưỡng chế của nhà nước áp dụng đối với những đối tượng nhất định và trong những trường họp do pháp luật quy định nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. III. Đề xuất hoàn thiện các quy định về tạm giam trong tế tụng hình sự Việt Nam: Xuất phát từ thực trạng quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong thời gian qua ta thấy rằng biện pháp ngăn chặn tạm giam đã mang lại những kết quả rất khả quan, góp phần to lớn trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, song cũng đã bộc lộ những yếu kém, vướng 14 mắc, bất cập cần được giải quyết, thảo luận. Qua việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp ngăn chặn tạm giam, thực trạng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, từ những tồn tại, bất cập và các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại bất cập đó. Thứ nhất'. Trong BLTTHS hiện hành chưa có quy định về khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam. Tại điều 88 BLTTHS 2003 mới chỉ nêu ra được đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 như sau: “1. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can bị cáo phạm tội nghiêm trọng phạm tội ít nghiêm họng mà BLHS quy định hình phạt tù hên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể hoặc cản trở việc điều ha, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội; với phạm tội quả tang hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù trung thân đang trong thời gian chờ thi hành án nhằm mục đích ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội.” Thứ hai: Là việc bắt tạm giam bị cáo ngay tại phiên tòa cần có quy định là phải có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo, do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS. Thứ ba: Là vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì BLTTHS nên quy định các mức thời hạn phê chuẩn lệnh của VKS, theo từng loại vụ án đơn giản hay phức tạp, kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án. Hiện nay tại khoản 3 Điều 88 có quy định về thời hạn của VKS xem xét đó là: trong thời hạn ba ngày, kế từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Theo tác giả thì BLTTHS nên quy định cụ thể hơn thời hạn này theo hướng quy định các mức thời gian theo từng vụ án đơn giản hay phức tạp, nếu vụ án đơn giản, hồ sơ tài liệu đầy đủ thì chỉ cần một ngày nhưng có nhúng vụ án mà hồ sơ, tài liệu nhiều lại phức tạp thì cần phải có nhiều thời gian hơn đế VKS nghiên cứu trong khi phê chuẩn. 15 Thứ tư: về trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê chuẩn cần phải có quy định rõ ràng. Nếu tạm giam trái pháp luật Điều tra và phải chịu trách nhiệm của người đề xuất, Thủ hưởng Cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh còn nếu việc tạm giam sau đó lại được VKS phê chuẩn thì người đã đề xuất phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người đề xuất, người đã phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người đã phê chuẩn. Thứ năm '. Là vấn đề thời hạn tạm giam về điều tra và thời hạn điều tra. BLTTHS nên quy định thời gian bằng nhau vì có nhiều vụ án phức tạp thời hạn điều tra thì vẫn còn nhưng thời hạn tạm giam đế điều tra thì hết, vì vậy đã gây khó khăn cho Cơ quan điều tra cũng như cho quá trình xét xử thi hành án. Thứ sáu: Là trong xu thế cải cách tư pháp hiện nay, Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010 đã nêu rõ: cần phải thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam: “ xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đổi với một sổ loại tội phạm; thu hẹp đổi tượng người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam ” . Trong phần bất cập, vướng mắc tác giả đã phân tích, nhà làm luật nên sửa đổi những điều luật liên quan đến vấn đề này cho phù họp với thực tiễn áp dụng, theo đó nên bỏ quy định Cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ở giai đoạn điều tra, mà chỉ quy định Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS các cấp có thẩm quyền ra lệnh tạm giam ở giai đoạn này, có thể trên cơ sở đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc do VKS tự quyết định khi có căn cứ. C. PHÀN KẾT LUẬN Các quy định vệ biện pháp ngăn chặn tạm giam là cơ sở pháp lý cần thiết, quan trọng cho các Cơ quan tiến hành tố tụng và công dân trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Muốn áp dụng đúng đắn các quy định đó trước hết các quy định đó phải chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất, bài viết đã dựa trên những tìm hiểu về biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam để đưa ra những đề xuất hoàn thiện những quy định này. 16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, nxb Tư pháp. Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực hạng, nguyên nhân và giải pháp: Luận án tiến sĩ Luật học/ Nguyễn Văn Điệp; Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Hiện, PGS.TS Võ Khánh Vinh. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, nxb Công an nhân dân. Thời hạn tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí Luật học. Trường đại học Luật học Hà Nội Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tạm giam nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Lê Minh Tuấn, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. số 9/2008, tr 3440 17 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ BÀI................................................................................................................... 1 B. PHẦN THẦN BÀI..............................................................................................................1 I................................................................................................................................................. Kh ái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam.....................................................................................1 II................................................................................................................................................ Biệ n pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam....................................................2 1. Đối tượng bị tạm giam.........................................................................................................2 2. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam....................................................................6 3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam..............................................................................................7 4. Thủ tục tạm giam.................................................................................................................. 8 5. Thời hạn tạm giam................................................................................................................ 9 6. Một số quy định chung khác liên quan đến việc tạm giam.................................................12 III. Đồ xuất hoàn thiện các quy định về tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam................14 c. PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................................... 16 C................................................................................................................................................... 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan