Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo luật xử lý vi phạm hành chính 2...

Tài liệu Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo luật xử lý vi phạm hành chính 2012 từ thực tiễn tỉnh bình dương

.PDF
89
300
79

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THỊ TRÂM ANH BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC THEO LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 2012 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THỊ TRÂM ANH BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC THEO LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 2012 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. VŨ VĂN NHIÊM Hà Nội, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này! Tác giả Võ Thị Trâm Anh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ........... 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................. 8 1.2. Mục đích, vai trò của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................................................................... 17 1.3. Đối tượng, thời hiệu, thẩm quyền và nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ....................................... 19 1.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................................................................... 25 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .............................................................. 31 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG ....................................................... 35 2.1. Thực trạng các quy phạm pháp luật hiện hành về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .................................................... 36 2.2. Khái quát chung về tình hình người nghiện ma túy và việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại tỉnh Bình Dương ....................... 43 2.3. Thực tiễn thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ năm 2015 đến nay ........................................................ 45 2.4. Đánh giá chung về thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................................................................................... 54 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VỀ VIỆC THỰC HIỆN BIỆN PHÁP VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ........................ 64 3.1. Quan điểm về việc thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................................................................................... 64 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................... 66 KẾT LUẬN ................................................................................................ 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TAND : Tòa án nhân dân UBND : Ủy ban nhân dân XLHC : Xử lý hành chính XLVPHC : Xử lý vi phạm hành chính MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới đất nước là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân. Những thành tựu của quá trình đổi mới là sự tổng hợp của các mặt độc lập chủ quyền của dân tộc, tốc độ phát triển kinh tế, sự ổn định của đời sống xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia, những thành tựu về văn hóa, xã hội, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ… Đồng hành cùng những thành tựu của đất nước, dưới tác động của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế thì vẫn xuất hiện những mặt trái, những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, gây nguy hại đến phong tục tập quán, đạo đức, phẩm chất của con người Việt Nam chúng ta. Một trong những tác hại đó có thể nói đến tệ nạn ma túy là vấn đề nóng, phá vỡ hạnh phúc gia đình, đe dọa tương lai thế hệ trẻ của đất nước. Trước tình hình đó, việc đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy đang trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của nước ta. Tỉnh Bình Dương thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, với diện tích 2.694,4 km2, gồm 09 đơn vị hành chính cấp huyện (01 thành phố, 04 thị xã và 04 huyện) với 41 phường, 04 thị trấn và 46 xã. Tính đến ngày 01/6/2018, dân số toàn tỉnh là 343.131 hộ, 2.247.811 nhân khẩu, thường trú: 272.034 hộ, 1.104.984 nhân khẩu; tạm trú: 71.097 hộ, 1.142.827 nhân khẩu. Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 29 khu công nghiệp, 12 cụm công nghiệp, thu hút 33.355 doanh nghiệp trong nước đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký 264.725 tỷ đồng; 3.406 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 31,08 tỷ đô la Mỹ. Với điều kiện đó, đã thu hút số lượng lớn dân nhập cư đến sinh sống và làm việc. Đây là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, gây áp lực lớn cho công tác đảm bảo an ninh trật tự nói chung và công tác phòng, chống tội phạm nói riêng. Đã xuất hiện nhiều băng, nhóm tội phạm hoạt động liên tỉnh, tập trung ở các khu vực giáp ranh để sau khi gây án hoặc bị phát hiện, truy đuổi sẽ chạy sang ẩn nấp ở các địa bàn khác, gây khó khăn cho quá trình truy bắt, điều tra tội phạm. Các loại tội phạm về hình sự, ma túy, người nghiện ma túy đã di chuyển đến và chọn các địa bàn trọng điểm, phức tạp, khu vực giáp ranh, các địa bàn tập trung nhiều dân nhập cư như: Dĩ An, Thuận An, Thủ Dầu Một, Bến Cát, Tân Uyên của tỉnh Bình Dương làm nơi ẩn náu và hoạt động phạm tội [22, tr.1]. Để giải quyết tốt công tác cai nghiện trên địa bàn tỉnh, nhất là việc đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc, tỉnh Bình Dương đã thực hiện nhiều giải pháp như: Mở các cơ sở điều trị bằng Methadone (tại thành phố Thủ Dầu Một và thị xã Dĩ An) để hướng dẫn, tạo điều kiện cho người nghiện tiếp cận với các dịch vụ điều trị thích hợp tại cộng đồng; đẩy mạnh việc hỗ trợ vốn, cho vay vốn tạo việc làm, dạy nghề và tái hòa nhập cộng đồng đối với người nghiện ma túy; tăng cường tuyên tuyền, vận động để người nghiện đi cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm…. Tuy nhiên, công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hiện vẫn còn nhiều hạn chế, chưa hiệu quả; việc đưa đi cai nghiện bắt buộc còn nhiều vướng mắc do các quy định của pháp luật chưa cụ thể, đồng bộ và thiếu khả thi so với thực tế… từ đó dẫn đến số người nghiện ở cộng đồng, số tội phạm liên quan đến ma túy ngày càng cao. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật những năm gần đây đặc biệt nhấn mạnh việc bảo đảm quyền con người, quyền tự do và dân chủ 2 của mỗi người dân; qua đó, các quan điểm về tệ nạn xã hội và các biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội đã có những thay đổi nhất định, trong đó quy định về các biện pháp XLHC nói chung và quy định về biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nói riêng cần được sửa đổi theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch và bảo đảm dân chủ, công bằng. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn về mục tiêu cải cách bộ máy nhà nước nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước, cũng như hiệu quả của hoạt động XLVPHC, thì việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên chọn đề tài “Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xác định rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật XLVPHC 2012. Yêu cầu đặt ra khi nghiên cứu cần đặt nó trong tổng thể các quy định pháp luật về XLVPHC. * Liên quan đến lĩnh vực này, đã có một số công trình nghiên cứu phải kể đến như: Luận văn thạc sĩ “Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” (năm 2017) của Lê Thị Lan Phương – Học viện Khoa học xã hội. Luận văn này đã đưa ra một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ở Thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” (năm 2014) của Phạm Tiến Thành - Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn này đã chỉ ra được những 3 biện pháp XLHC dựa trên quy định của pháp luật. Tuy nhiên, phần lý luận còn mang tính pháp lý, chưa nêu được điểm nổi trội và áp dụng vào thực tiễn. Luận văn thạc sĩ “Đảm bảo quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt buộc qua thực tiễn thành phố Hải Phòng” (năm 2016) của Nguyễn Quốc Hiệu - Đại học quốc gia Hà Nội. Đây là đề tài nêu cao tinh thần bảo vệ quyền con người khi bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trước đó chưa có một công trình nghiện cứu nào đề cập đến. Các công trình nghiên cứu trên đây, đã đưa ra một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài ra, trực tiếp đề cập nội dung về các biện pháp XLHC khác có thể kể đến một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả như: Bài viết “Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong dự thảo luật xử lý vi phạm hành chính” của tác giả Đào Thị Thu An trong Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 20/2011. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp “Các biện pháp XLHC khác và việc bảo đảm quyền con người” do Thạc sĩ Đặng Thanh Sơn làm chủ nhiệm đề tài cùng nhóm nghiên cứu. Đây là công trình có tính quy mô và khá chi tiết về các biện pháp XLHC khác. “Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi giai đoạn 2001-2010”, Uỷ ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tế nạn ma túy, mại dâm, Hà Nội, 2002. Báo cáo “sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của Thủ tướng Chính phủ về cai nghiện-phục hồi”, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 2004. Tài liệu “Giới thiệu và hướng dẫn áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu 4 quả, Cục phòng chống tệ nạn xã hội”, Hà Nội 2007. Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin lớn về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đây là những nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả khi thực hiện đề tài này. Với đề tài này, tác giả nghiên cứu và thực hiện có tính khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại tỉnh Bình Dương góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy và hạn chế thấp nhất số người nghiện còn tồn tại ở ngoài cộng đồng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu chỉ ra thực trạng pháp luật về biện pháp đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn tại tỉnh Bình Dương. Từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại tỉnh Bình Dương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Quan niệm, đặc điểm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các các biện pháp bảo đảm thực hiện …. Đánh giá thực trạng pháp luật và việc thực hiện các quy định của pháp luật về các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại tỉnh Bình Dương. Đề xuất, kiến nghị những giải pháp khoa học có tính khả thi cho việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện 5 pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn tỉnh Bình Dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Không gian: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại tỉnh Bình Dương, không mở rộng đến những địa phương khác. Thời gian: Từ năm 2015 đến nay 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mac – Lênin kết hợp với Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với vấn đề đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Dựa trên góc độ tiếp cận lý luận và thực tiễn để từ đó hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc áp dụng đối với các đối tượng bị nghiện ma túy hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn, tác giả sử dụng linh hoạt, kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu, suy luận logic. Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được có thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đó là 6 cơ sở chính xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả thi. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Hiểu rõ khái niệm, cách thức thực hiện biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Qua đó viện dẫn đến các văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này. Hệ thống hóa các quy định pháp luật về việc thực hiện biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Từ đó, có cơ sở khoa học để đánh giá cụ thể, chi tiết góp phần hoàn thiện khung pháp lý chuyên ngành, cũng như sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở khoa học để điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện chính sách, pháp luật góp phần thực hiện có hiệu quả biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Bình Dương. Chương 3: Quan điểm và giải pháp về việc thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC 1.1. Khái niệm, đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Ma túy và tác hại của ma túy là mầm mống gây ra những hậu quả nguy hại nghiêm trọng cho xã hội nói chung, bản thân người nghiện ma túy và gia đình họ nói riêng. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, đưa ra nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa, phòng, chống ma túy. Một trong những biện pháp đó là XLHC đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp XLHC áp dụng đối với người nghiện ma túy để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc; Áp dụng biện pháp XLHC đối với người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy định cụ thể tại Luật XLVPHC năm 2012, Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp XLVPHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐCP. 1.1.1. Khái niệm về ma túy và người nghiện ma túy 1.1.1.1. Khái niệm về ma túy Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích mà sử dụng nhiều lần có thể gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Không có một định nghĩa chung thống nhất nào về khái niệm này. Ở mỗi góc độ tiếp cận, ma túy lại được hiểu theo những cách khác nhau. Theo định nghĩa của Tổ chức Liên Hợp Quốc, ma tuý được hiểu là 8 “Các chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ làm thay đổi trạng thái tâm sinh lý của người sử dụng”. Tổ chức Y tế thế định nghĩa: “Ma túy là các chất độc, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng”. Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều 2 Luật Phòng, Chống ma tuý năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2008 định nghĩa về chất ma túy như sau [17, Điều 2]: - Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. - Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. - Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Điều 1 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất bao gồm 515 chất ma túy và 44 tiền chất. Cụ thể: - Danh Mục I: Các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền (46 chất). - Danh Mục II: Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền (398 chất). - Danh Mục III: Các chất ma túy được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, Điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế, thú y theo quy định của cơ quan có thẩm quyền (71 chất). 9 - Danh Mục IV: Các tiền chất sử dụng vì Mục đích quốc phòng, an ninh do Bộ Công an quản lý và cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu. Các tiền chất sử dụng trong lĩnh vực thú y do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý và cấp phép xuất khẩu, nhập khẩu. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về ma tuý theo hướng liệt kê như sau: Ma tuý bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11, các chất ma túy khác ở thể rắn hoặc thể lỏng. Từ những khái niệm trên, có thể thấy ma túy có đặc tính làm thay đổi trạng thái, ý thức, trí tuệ và tâm trạng của người sử dụng khiến cho họ có cảm giác giảm đau, dễ chịu, lâng lâng và không tự chủ được hành vi của bản thân, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người sử dụng. Tùy vào loại ma túy cũng như số lượng và sự điều độ trong việc sử dụng là những tác nhân có thể dẫn đến việc nghiện của người sử dụng. Thông thường, số lớn chất ma túy tổng hợp có khả năng gây nghiện cao đồng thời có sức tàn phá cơ thể của người dùng hơn chất tinh khiết tự nhiên. Nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc về cơ thể, tâm thần hoặc cả hai. Người sử dụng ma túy do không kiểm soát được bản thân sẽ có những hành vi gây hậu quả nặng nề cho chính mình, gia đình và xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm người nghiện ma túy Người nghiện ma túy là những đối tượng tiềm ẩn gây nguy hiểm cho xã hội thông qua những hành vi mà một khi lên cơn sẽ không kiểm soát được. Những đối tượng này thường tập trung theo nhóm và tụ tập hút hít ở những nơi vắng, ít người qua lại…Tùy theo từng mức độ nghiện mà người nghiện sẽ có những biểu hiện bên ngoài khác nhau. Tại Khoản 11 Điều 2 Luật Phòng, Chống ma tuý năm 2000, sửa đổi bổ 10 sung năm 2008 định nghĩa [17, Điều 2]: “Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này”. Người nghiện ma túy thường có những biểu hiện: Cảm thấy cần phải sử dụng thuốc thường xuyên hơn, có thể là 1 ngày 1 lần hoặc thậm chí vài lần một ngày; Có sự ham muốn mãnh liệt với thuốc; Trong bất cứ khoảng thời gian nào, cần thêm thuốc để duy trì những hoạt động hằng ngày; Không đáp ứng được các nghĩa vụ và trách nhiệm với công việc, hoặc cắt giảm các hoạt động xã hội, giải trí để dành thời gian sử dụng ma túy. Làm bất cứ điều gì kể cả những điều trước kia họ nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ có thể làm để có được thuốc thỏa mãn cơn nghiện; Tập trung nhiều thời gian và năng lượng vào việc sử dụng thuốc; Thất bại trong nỗ lực ngừng sử dụng thuốc. Họ có thói quen tụ tập, đi lại đàn đúm với người có đời sống sinh hoạt buông thả như không lao động, không học hành… hoặc chơi thân với người sử dụng heroin, thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người (kể cả người thân trong gia đình). Tiêu chuẩn xác định nghiện ma túy [8, Điều 5] * Đối với nghiện ma túy nhóm Opiats: Người được xác định là nghiện ma túy nhóm Opiats thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và đã bị áp dụng biện pháp XLHC về nghiện ma túy; - Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng ma túy từ 2 lần trở lên; - Kết quả áp dụng nghiệm pháp Naloxone dương tính (+); - Xét nghiệm dương tính với ma túy nhóm Opiats và có ít nhất 3 trong 12 triệu chứng của trạng thái cai (theo Phụ lục số 1 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này). 11 * Đối với nghiện ma túy nhóm Amphetamine: Người được xác định là nghiện ma túy tổng hợp chất dạng Amphetamine khi có ít nhất 3 trong 6 triệu chứng sau trong 12 tháng vừa qua: - Có sự thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng chất dạng Amphetamine; - Khó khăn trong việc kiểm soát các hành vi sử dụng chất dạng Amphetamine như bắt đầu, chấm dứt hoặc mức độ sử dụng; - Có trạng thái cai khi ngừng hoặc giảm sử dụng chất dạng Amphetamine; - Có hiện tượng tăng dung nạp với chất dạng Amphetamine; - Ngày càng trở nên thờ ơ với các thú vui hoặc sở thích khác; - Tiếp tục sử dụng chất dạng Amphetamine mặc dù biết rõ về các hậu quả có hại. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ sở cai nghiện bắt buộc 1.1.2.1. Khái niệm cơ sở cai nghiện bắt buộc Cơ sở cai nghiện bắt buộc là nơi cách ly có thời hạn từ 12 đến 24 tháng cho những người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định nhằm tách ra khỏi cộng đồng theo quy định của pháp luật để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề và cải tạo thành người bình thường. Cơ sở cai nghiện bắt buộc thành lập theo quy định tại Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28 tháng 06 năm 2012 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định việc thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện bắt buộc phù hợp quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Địa phương có ít người nghiện ma túy có thể gửi đối tượng 12 đến cơ sở cai nghiện bắt buộc của địa phương khác trên cơ sở thống nhất giữa hai địa phương [12, Điều 33]. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, có tư cách pháp nhân, trụ sở, con dấu, tài khoản riêng theo quy định của pháp luật. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp về chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức, nhân sự, tài chính và cơ sở vật chất của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập có các chức năng gồm: tổ chức cai nghiện ma túy bắt buộc; tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện; tổ chức tiếp nhận người sử dụng, người nghiện ma tuý không có nơi cư trú ổn định; tổ chức điều trị thay thế [4, Điều 2]. Do các đối tượng nghiện ngày càng nhiều đã dẫn đến tình trạng quá tải tại các cơ sở công lập. Để khắc phục tình trạng trên, một số địa phương đã xây dựng nên cơ sở cai nghiện ngoài công lập và hoạt động dựa trên nguồn ngân sách của địa phương đó. Dù là cai nghiện ở các cơ sở công lập hay ngoài công lập thì người nghiện vẫn được khám chữa bệnh với các phương pháp như cắt cơn và sử dụng thuốc để cai nghiện. 1.1.2.2. Đặc điểm của cơ sở cai nghiện bắt buộc Xuất phát từ khái niệm trên, cơ sở cai nghiện bắt buộc có các đặc điểm như sau: Một là, cơ sở cai nghiện bắt buộc là tổ chức được hình thành căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương và hoạt động dựa trên nguồn ngân sách của nhà nước. Hai là, đây là nơi cách ly của những người bị nghiện nhằm mục đích khám, chữa bệnh, điều trị cắt cơn, tư vấn dạy nghề và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng theo quy định của pháp luật. Ba là, các cơ sở cai nghiện ma túy công lập có các chức năng gồm: tổ 13 chức cai nghiện ma túy bắt buộc; tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện; tổ chức tiếp nhận người sử dụng, người nghiện ma tuý không có nơi cư trú ổn định; tổ chức điều trị thay thế. 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 1.1.3.1. Khái niệm về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp XLHC được quy định tại Luật XLVPHC năm 2012. Đây là biện pháp do TAND cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định nhằm mục đích cách ly người nghiện ma túy khỏi cộng động, buộc họ chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trước ngày 01 tháng 01 năm 2014, việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Pháp lệnh XLVPHC năm 2002. Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh là biện pháp XLHC được áp dụng đối với người nghiện ma túy và người bán dâm với mục đích là bắt buộc cai nghiện, chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của các cơ sở chữa bệnh. Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh nói riêng và các biện pháp XLHC khác nói chung là những biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, do người đứng đầu cơ quan hành chính ở địa phương quyết định. Việc trao thẩm quyền cho những người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương để đưa phán quyết ảnh hưởng đến các quyền hiến định về bất khả xâm phạm về thân thể, được bảo vệ về danh dự, nhân phẩm, tự do đi lại, tự do cư trú của công dân… là chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan