Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng bình...

Tài liệu Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng bình

.PDF
101
17
138

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG ANH THANH BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG ANH THANH BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự chỉ dẫn của thầy hướng dẫn khoa học. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tác giả luận văn Hoàng Anh Thanh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI VÀ QUY ĐỊNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................ 8 1.1. Lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.......... 8 1.2. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người ..................................................................................................................... 19 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH................................................. 30 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bắt người ..................................................................................................................... 30 2.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ........................................ 45 2.3. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................. 52 CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ....................................................... 62 3.1. Một số yêu cầu góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................ 62 3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .................. 65 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CAND: Công an nhân dân CQĐT: Cơ quan điều tra CSĐT: Cảnh sát điều tra ĐTV: Điều tra viên KSV: Kiểm sát viên PCTP: Phòng, chống tội phạm TAND: Tòa án nhân dân THTT: Tiến hành tố tụng TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VPPL: Vi phạm pháp luật VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những BPNC thì bắt người chiếm vị trí quan trọng và được áp dụng thường xuyên để đấu tranh PCTP. Bắt người là một BPNC trong TTHS phục vụ hiệu quả cho việc ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, giải quyết VAHS, với mục đích: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án” [35, tr.101]. Biện pháp bắt người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ biến trong thực tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết VAHS. Việc áp dụng biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan trọng cho việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội cũng như không để lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Tuy nhiên, bắt người là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nếu bắt oan, sai thì hậu quả của nó rất phức tạp và có thể không lường trước được. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền con người và quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người...; nó liên quan nhiều đến việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, những VPPL về biện pháp bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền con người trong TTHS rất dễ bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều quy định mới về biện pháp bắt người cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ. Quảng Bình là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp hai tỉnh Khăm Muộn và Sa Vẳn Na Khệt 1 của nước CHDCND Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị. Quảng Bình có diện tích tự nhiên là 8.065 km2; dân số đến năm 2019 là 953.914 người. Thời gian qua, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, tình hình các loại tội phạm diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều loại tội phạm mới, hình thức, thủ đoạn phạm tội hết sức phức tạp và tinh vi. Theo số liệu báo cáo tổng kết công tác đấu tranh PCTP cho thấy trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, các lực lượng chức năng trên địa bàn tỉnh đã phát hiện, khởi tố mới 3.680 vụ phạm pháp hình sự. Theo đó, từ năm 2011 đến năm 2015, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Quảng Bình đã bắt 4.960 đối tượng, trong đó: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 1.019 đối tượng (chiếm tỷ lệ 20,54%); bắt người phạm tội quả tang 2.235 đối tượng (chiếm tỷ lệ 45,06%); bắt người đang bị truy nã 195 đối tượng (chiếm tỷ lệ 3,93%); bắt bị can, bị cáo để tạm giam 1.511 đối tượng (chiếm tỷ lệ 30,47%) [47, tr.14]. Những số liệu trên đã cho thấy tính chất công tác bắt giữ đối tượng phạm tội là vấn đề được tiến hành thường xuyên. Trong khi đó, công tác xử lý các vụ án, các đối tượng gây án còn nhiều bất cập, gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật hình sự, nhất là vấn đề áp dụng BPNC bắt người theo pháp luật TTHS. Về biện pháp bắt người, cho đến nay cũng đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, do khác nhau về phương pháp tiếp cận, về giới hạn địa bàn nghiên cứu, về thời gian và phạm vi khảo sát cho nên nhiều vấn đề có liên quan đến biện pháp bắt người còn chưa được đề cập, nghiên cứu tới. Vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện lý luận, nâng cao hiệu quả biện pháp bắt người trong TTHS tại tỉnh Quảng Bình là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh PCTP đảm bảo sự ổn định về TTATXH, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về nội dung này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thời gian qua, ở nước ta đã có rất nhiều các công trình khoa học, như: giáo trình, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khoa 2 học, bài báo khoa học nghiên cứu, đề cập đến biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam, cụ thể như: - “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb.CAND, Hà Nội, 2005; - “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016; - “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, 2008; - “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự” của GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb. CAND, 2007; - “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của TS. Trần Văn Biên - TS. Đinh Thế Hưng (đồng chủ biên), Nxb. Thế giới, 2017; - Sách chuyên khảo “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng Phúc, Nxb. Chính trị quốc gia, 2015; - Sách chuyên khảo “Hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân” của TS. Trịnh Văn Thanh, Nxb. CAND, 2001; - Sách chuyên khảo “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011; - Luận án Tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ” của Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, 2005; - Luận văn Thạc sĩ “Vấn đề bắt oan, sai trong hoạt động điều tra vụ án hình sự và một số giải pháp khắc phục của Cơ quan Cảnh sát điều tra hiện nay” của Võ Quốc Công, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2005; - Luận văn Thạc sĩ “Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” của Lê Thị Thu Nguyệt, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017. Những công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam. Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ cơ 3 sở lý luận về BPNC bắt người, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt người. Tuy nhiên, nhìn chung biện pháp bắt người được các nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề cập ở trên với các mức độ, khía cạnh khác nhau và gắn với các địa bàn khác nhau. Theo khảo sát của tác giả trong những năm gần đây chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng BPNC bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam tại địa bàn tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về BPNC bắt người. - Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng BPNC bắt người hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, tồn tại của việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC bắt người và phòng ngừa những vi phạm trong việc áp dụng biện pháp này của cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Hệ thống hóa và thống nhất nhận thức một số vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về BPNC bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành. - Khảo sát thu thập thông tin, số liệu thực tế nhằm phân tích tình hình áp dụng BPNC bắt người để minh họa cho quá trình thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. - Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới của cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2003. - Các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2015. - Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu các quy định về biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam. - Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Bình. - Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật nói chung, Nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật với tư tưởng Nhân dân là chủ thể của quyền lực xã hội, mọi hoạt động của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, Nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh, phân tích các tài liệu, số liệu, phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận 5 văn; tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát. - Phương pháp thống kê: được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thực tế thu thập tại địa bàn Quảng Bình nhằm minh họa, làm rõ thực trạng của tình hình áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019 trong chương 2 của luận văn. - Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình (được sử dụng chủ yếu tại chương 2): Để có cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, đánh giá trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu, tìm hiểu hồ sơ một số vụ án trong đó có áp dụng biện pháp bắt người đạt kết quả cao hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt động TTHS tại địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019. + Phương pháp trao đổi, tọa đàm: được sử dụng để trao đổi, tìm hiểu một số thông tin thực tế từ các cán bộ điều tra, ĐTV của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình có kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo và tiến hành hoạt động bắt người theo pháp luật TTHS. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về BPNC nói chung, biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng. Đây là tài liệu có thể dùng trong công tác nghiên cứu, học tập, tham khảo dành cho các học viên ngành Luật nói chung, Luật hình sự và TTHS nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và TTHS để ngăn chặn, đấu tranh PCTP trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên khảo sát một cách toàn diện và sâu sắc về thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình từ năm 2015 đến năm 2019. Làm rõ những kết quả đạt được, các hạn chế, nguyên nhân những hạn chế, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự, TTHS để thực hiện biện pháp bắt người trong đấu tranh PCTP ở 6 địa bàn tỉnh Quảng Bình. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự và TTTHS nói chung, các BPNC nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục phần nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương. Chương 1: Lý luận về bắt người và quy định theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn chặn bắt người và thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình 7 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI VÀ QUY ĐỊNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Lý luận về biện pháp bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt người Để làm rõ nội dung pháp lý của biện pháp bắt người trong TTHS chúng ta cần phải làm rõ một số khái niệm có liên quan như: Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong TTHS. Thứ nhất, về biện pháp ngăn chặn: Các BPNC trong TTHS được quy định tại Điều 109, BLTTHS năm 2015 như sau: “1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền THTT trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. 2. Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.” [35, tr.101]. Thứ hai, biện pháp cưỡng chế: Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010: “Cưỡng chế là bắt phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực” [50, tr.599]. Căn cứ vào loại VPPL khác nhau, cưỡng chế cũng có được chia thành các loại khác nhau, như: cưỡng chế dân sự, cưỡng chế hành chính, cưỡng chế hình sự và cưỡng chế TTHS. Các biện pháp cưỡng chế trong TTHS được quy định tại Điều 126 - BLTTHS năm 2015 như sau: “Để bảo đảm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan, người có thẩm quyền THTT có thể áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản” [35, tr.121]. Như vậy, có thể khẳng định rằng biện pháp bắt người là BPNC mang tính cưỡng chế trong TTHS, là một thuật ngữ đã xuất hiện từ lâu đời và được mọi người sử dụng thường xuyên trong đời sống xã hội. 8 Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010 thì: “Bắt là một động từ diễn tả sự nắm lại, giữ lại một người hay một sinh vật nào đó không để cho tự do hoạt động hoặc cử động” [50, tr.60]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý xuất bản năm 1998 thì “Bắt là nắm lại, giữ lại, không để cho tự do hoạt động hoặc cử động” [53, tr.74]. Như vậy, bắt được bắt đầu khi chủ thể thực hiện hành động nắm, giữ và kết thúc khi hành động nắm giữ đó chấm dứt. Bắt ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Khi tiếp cận bắt với tư cách là một BPNC trong TTHS, do chưa có định nghĩa pháp lý về biện pháp bắt người, cho nên đã có nhiều quan điểm khác nhau, đáng chú ý là một số quan điểm sau: ThS. Nguyễn Hữu Huân cho rằng: “Bắt người là BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt người nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ mà pháp luật quy định” [24, tr.5]. Theo quan niệm của ThS. Nguyễn Hồng Ly: “Bắt người là giữ người phạm pháp, không cho tiếp tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phòng người đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại cho việc điều tra. Bắt người là một trong những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhất của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn những hành động phạm tội… Bắt người là một trong những BPNC do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật” [27, tr.31-32]. Theo Từ điển Bách khoa CAND của Nxb. CAND xuất bản năm 2005: “Bắt người phạm tội là một BPNC trong TTHS, được tiến hành theo quy định của pháp luật và theo lệnh của CQĐT, VKS, Tòa án nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc đảm bảo thi hành luật” [4, tr.35]. Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: “Bắt nguời là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, nguời đang bị truy nã và trong truờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với nguời chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, 9 ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.” [45, tr.200]. Còn theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ xa Đại học Mở Hà Nội thì: “Bắt người là BPNC trong TTHS do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc người phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi và đúng pháp luật” [46, tr.214]. Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm biện pháp bắt người trong TTHS như sau: “Biện pháp bắt người trong TTHS là BPNC trong TTHS, do những người có thẩm quyền theo luật định tiến hành áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã hoặc người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố khi có những căn cứ do luật định, theo trình tự thủ tục nhất định nhằm ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật”. Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội mà là BPNC trong TTHS được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội phạm, chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của những cơ quan có thẩm quyền THTT. Bắt người trong TTHS là giữ người thực hiện hành vi phạm tội, không cho người đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đề phòng người đó bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công cuộc đấu tranh PCTP cũng như yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN; bảo đảm quyền con người của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật TTHS trước đây. BLTTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người gồm: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ [35, tr.101]. 1.1.2. Những yêu cầu và vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người 1.1.2.1. Những yêu cầu của biện pháp ngăn chặn bắt người Trong hệ thống các BPNC của TTHS thì bắt người là biện pháp quan trọng 10 được áp dụng rất phổ biến. Việc áp dụng biện pháp bắt người không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác đấu tranh PCTP nói chung và việc giải quyết các nhiệm vụ của quá trình TTHS nói riêng mà còn gắn liền với việc hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, nhất là các quyền tự do cá nhân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Do đó, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS, là cơ sở cho hoạt động bắt người trên thực tiễn, tránh vận dụng biện pháp bắt người một cách tuỳ tiện, dẫn đến bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt trái thẩm quyền. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp bắt người theo pháp luật TTHS các chủ thể tiến hành cần đảm bảo một số yêu cầu sau: - Yêu cầu về chính trị Bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan, sai có ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản của công dân, do đó biện pháp bắt người theo TTHS luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, liên quan đến quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, có rất nhiều những thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước đang tìm mọi cách để chống phá Nhà nước ta. Hoạt động bắt người phải đảm bảo tốt cho nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và của địa phương trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của đất nước. Công tác đấu tranh PCTP nói chung và việc áp dụng BPNC bắt người trong quá trình giải quyết VAHS nói riêng đều nhằm mục đích bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Xuất phát từ yêu cầy này, Đảng và Nhà nước đã có các hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động bắt người liên quan đến các đối tượng có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Khi tiến hành áp dụng BPNC bắt người đối với những đối tượng này thường tạo ra những luồng dư luận, ảnh hưởng đến những vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế dễ bị những thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, tuyên truyền nhằm làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nuớc. Vì vậy, trong quá trình thực hiện cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật và tiên quyết thực hiện theo các chỉ đạo hướng dẫn của Đảng và Nhà nước về BPNC bắt người với những đối tượng đặc biệt. Đồng thời, xây dựng kế hoạch hạn chế những tiêu cực xảy ra khi tiến hành. - Yêu cầu về pháp luật 11 Khoản 2, Điều 20, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định” [32, tr.25]. Tại Điều 10 BLTTHS năm 2015 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này…” [35, tr.15]. Như vậy, để đảm bảo bắt đúng đối tượng, BPNC bắt người được quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS đây là cơ sở cho hoạt động bắt trên thực tiễn. Trong quá trình tiến hành bắt, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần có tài liệu, chứng cứ cần thiết chứng minh rằng họ là đối tượng bị áp dụng BPNC bắt người. Hoạt động bắt người được tiến hành không đảm bảo yêu cầu sẽ gây tác hại nhiều mặt như xâm phạm quyền con người và quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan THTT, gây hoang mang trong dư luận Nhân dân, là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động cả trong và ngoài nước xuyên tạc để chống lại Nhà nước ta. Vì vậy, những tài liệu chứng cứ để bắt người cần thu thập qua quá trình điều tra xác minh, cũng có thể thu thập bằng những biện pháp nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện hoạt động bắt cần phải tuân thủ đúng các điều kiện do luật định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền. Bắt người về bản chất là biện pháp cưỡng chế, tác động trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân tuy nhiên lại không nhằm xâm phạm đến thân thể họ như là sự trừng phạt hành vi họ đã thực hiện mà chỉ nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm diễn ra và hạn chế sự nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, cơ quan THTT không được xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của người bị bắt; tuyệt đối không thực hiện hành vi tra tấn, bức cung, nhục hình hoặc là bất kỳ hình thức đối xử vô nhân đạo nào khác xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Không được dựa vào các tài liệu chưa được kiểm tra, xác minh hay dựa trên ý chí chủ quan làm căn cứ để thực hiện hoạt động bắt dẫn đến tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành hoạt động bắt người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần phải biết vận 12 dụng linh hoạt, đúng pháp luật trong từng trường hợp bắt cụ thể. Để làm được điều đó cơ quan, người có thẩm quyền THTT cần nắm vững các quy định của pháp luật về biện pháp bắt người và áp dụng một cách chính xác, triệt để và đảm bảo an toàn. - Yêu cầu về nghiệp vụ Điều tra VAHS là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan của vụ án nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội. Trong hoạt động điều tra, bắt người là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để trấn áp, ngăn chặn hành vi phạm tội và có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh PCTP, trốn tránh pháp luật cũng như gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS. Trong hoạt động bắt người, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có như vậy khi thực hiện việc bắt người mới không vấp phải những khó khăn, vướng mắc. Yêu cầu đối với hoạt động bắt phải đảm bảo tính bất ngờ, khách quan và chính xác. Bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng bảo đảm cho việc bắt người được tiến hành một cách hiệu quả nhất, khi tiến hành hoạt động bắt người không để đối tượng biết, bỏ trốn, hoặc gây cản trở cho cuộc bắt, hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Yếu tố bất ngờ được biểu hiện trong kế hoạch bắt người như: bí mật về thời gian, địa điểm sẽ tiến hành bắt đối tượng, bí mật về sự chuẩn bị lực lượng bắt... Bí mật là yếu tố cần thiết cho sự thành công của hoạt động bắt người, làm sao để đối tượng bắt chỉ biết là chúng bị bắt khi lực lượng tiến hành bắt xuất hiện và triển khai lệnh bắt. Muốn đạt được yêu cầu như vậy, đòi hỏi công tác chuẩn bị cho việc bắt cần phải tỉ mỉ, cẩn trọng và chu đáo. Trước khi bắt người cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nhân thân của đối tượng và những tài liệu xác minh ban đầu, phải lập kế hoạch của việc bắt người chi tiết về thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, công cụ phương tiện hỗ trợ... đặc biệt cần tính toán các phương án có thể xảy ra để chủ động, linh hoạt trong quá trình tiến hành. Việc bắt người có thành công phải đảm bảo tất cả những mục tiêu trong kế hoạch đã hoạch định trước và linh hoạt trong mọi tình huống có thể xảy ra, khi triển khai bắt phải tiến hành một cách khẩn trương và nhanh chóng. 1.1.2.2. Vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người Là một trong những quyền cơ bản, quan trọng bậc nhất của công dân được 13 quy định trong Hiến pháp, tuy nhiên quyền nhân thân, quyền tự do về thân thể rất dễ bị tác động trực tiếp bởi hoạt động bắt trong TTHS. Vì vậy, cần phải có sự cân nhắc hết sức quan trọng khi quyết định việc bắt người. Hiệu quả đấu tranh PCTP, sẽ được nâng cao rõ rệt, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, đồng thời bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi nếu việc bắt người đúng pháp luật. Ngược lại, việc bắt người không đúng pháp luật sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nghiêm trọng hơn nó sẽ xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch lợi dụng, mượn cớ để xuyên tạc nói xấu chế độ, nói xấu chính quyền và chống lại Nhà nước. Quy định và thi hành biện pháp bắt người trong TTHS có vai trò lớn trong việc giải quyết VAHS, bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm: Một là, “BPNC bắt người thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh, PCTP” [16, tr.95]. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, khái niệm tội phạm quy định trong BLHS phải do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà theo quy định của BLHS hiện hành phải bị truy cứu TNHS. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến sự bền vững và ổn định của chế độ Nhà nước XHCN, chế độ chính trị, chế độ kinh tế - xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN. Quy định về biện pháp bắt người là thể hiện đường lối, chính sách của Nhà nước ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội và thể hiện thái độ kiên quyết, triệt để của Nhà nước trong việc đấu tranh PCTP. Hai là, “bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền THTT được thuận lợi, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh PCTP” [16, tr.95]. Khi tiến hành bắt người, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự 14 cần thiết của biện pháp bắt người đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi BPNC bắt người nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện đúng Hiến pháp, đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân theo hiến định. Hiện nay, nhiều vụ án do tính chất phức tạp, người thực hiện hành vi phạm tội cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do đó, nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu những hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội thì việc áp dụng BPNC bắt người là thực sự cần thiết. Cùng với đó, việc bắt các đối tượng này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết VAHS. Ba là, BPNC bắt người giúp việc ngăn chặn tội phạm được kịp thời và hiệu quả [16, tr.96]. Việc này có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm hậu quả của tội phạm. Kịp thời ngăn chặn tội phạm góp phần bảo vệ những đối tượng dễ bị tội phạm tác động tới, đồng thời ngăn chặn và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra. Bốn là, cơ sở pháp lý để cơ quan, người có thẩm quyền THTT áp dụng BPNC bắt người trong những trường hợp cần thiết, nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ của TTHS [16, tr.96]. Việc bắt người có tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do về thân thể bởi vậy khi áp dụng cần phải tính toán hợp lý. Bắt người đảm bảo các quy định của pháp luật TTHS sẽ góp phần tăng cường hiệu quả cuộc đấu tranh PCTP. Ngược lại, bắt người không đúng pháp luật sẽ gây tác hại lớn, không những xâm thêm lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, lực lượng cứu hộ y tế, bác sĩ các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận quần chúng Nhân dân, dễ pháp y, cơ quan quản lý đường sông, cơ quan quản lý công trình đối với vụ tai xấu chế độ, chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, việc quy định các cơ sở pháp lý đảm bảo chặt chẽ sẽ góp phần giúp cho việc áp dụng biện pháp bắt người là một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong TTHS Việt Nam 1.1.3. Bản chất pháp lý biện pháp bắt người 1.1.3.1. Tính cưỡng chế của Nhà nước Trong xã hội XHCN, giáo dục, thuyết phục là phương pháp chủ yếu, cơ bản 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan