Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
97
3
59

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VŨ PHƢƠNG BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN NINH CÁ NHÂN BẰNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VŨ PHƢƠNG BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN NINH CÁ NHÂN BẰNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Duy Giảng HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Vũ Phƣơng MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN NINH CÁ NHÂN BẰNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........... 8 1.1. Khái niệm về quyền con ngƣời, tự do và an ninh cá nhân ............. 8 1.1.1. Khái niệm về quyền con người ............................................................ 8 1.1.2. Khái niệm về tự do và an ninh cá nhân ................................................ 9 Khái niệm và những đặc điểm cơ bản về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam ............. 13 1.2.1. Khái niệm về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam ....................................................................... 13 1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .......................................... 14 1.2. 1.3. Ý nghĩa của bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam................................................................. 19 Chƣơng 2: SỰ THỂ HIỆN CỦA BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN NINH CÁ NHÂN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.... 23 2.1. Lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân ...................................................................... 23 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - BLTTHS Việt Nam năm 1988 ............. 23 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLTTHS năm 1988 cho đến BLTTHS năm 2003 ............................................................................................ 26 2.2. Sự thể hiện việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay ........................................ 28 2.2.1. Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự ..................................................................... 29 2.2.2. Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng các quy định về các biện pháp ngăn chặn ................................................................................... 47 2.2.3. Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng các quy định về việc áp dụng biện pháp tố tụng đặc biệt ......................................................... 49 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN GIẢI GÓP PHẦN NÂNG CAO VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN NINH CÁ NHÂN .............. 53 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân.............................................. 53 3.1.1. Những kết quả đạt được ..................................................................... 53 3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế ....................................................................... 62 3.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ........................................... 67 3.2. Một số khó khăn, vƣớng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân ................................................................................ 70 3.3. Một số kiến giải góp phần nâng cao hiệu quả việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự ................ 74 3.3.1. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam theo hướng bảo vệ tự do và an ninh cá nhân ................................................................ 74 3.3.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp lý và phẩm chất đạo đức cho những cán bộ có thẩm quyền trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân ......................................................................... 80 3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát ................................................. 81 3.3.4. Tăng cường phối hợp giữa các đơn vị, cơ quan hữu quan trong bảo vệ tự do và an ninh cá nhân theo luật tố tụng hình sự ................. 84 KẾT LUẬN .................................................................................................... 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1: Tình hình giải quyết người bị tạm giữ giai đoạn 2015 2019 54 Bảng 3.2: Tình hình giải quyết người bị tạm giam giai đoạn 2015 - 2019 56 Bảng 3.3: Các trường hợp CQĐT đình chỉ điều tra bị can 57 Bảng 3.4: Tỷ lệ giải quyết án hình sự 62 Bảng 3.5: Tỷ lệ xét xử bị cáo 62 Bảng 3.6: Tổng hợp hành vi dùng nhục hình, số lần vi phạm quy định về bào chữa trong giai đoạn điều tra 65 Bảng 3.7: Một số vi phạm của Viện kiểm sát 65 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1: Kết quả công tác của VKS trong việc áp dụng, thi hành biện pháp ngăn chặn 59 Biểu đồ 3.2: Số lần VKS không phê chuẩn lệnh khám xét, lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại Bưu điện 61 Biểu đồ 3.3: Vi phạm trong việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn 64 Biểu đồ 3.4: Một số vi phạm của Tòa án trong giai đoạn xét xử 66 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên đề tài Quyền tự do và an ninh cá nhân, là các quyền thuộc nhóm quyền dân sự chính trị của con người, đây là nhóm quyền quan trọng bậc nhất trong nhóm các quyền con người, được pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia luôn trú trọng hướng tới bảo vệ. Nhóm quyền này được ghi nhận rất sớm trong các văn kiện pháp lý của quốc tế về quyền con người, trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, tại Điều 3 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [23]. Có thể nói việc bảo vệ và phát triển quyền con người, đặc biệt là các quyền về dân sự, chính trị đã dần trở thành thước đo đánh giá sự tiến bộ, văn minh của mỗi quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, ngay từ khi đất nước còn trong hoàn cảnh chiến tranh, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện ước vọng giải phóng quyền tự do của con người thông qua câu nói giản dị “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Sau Cách mạng tháng tám đến nay, việc bảo vệ, phát triển của con người luôn là lý tưởng mục tiêu phát triển của đất nước, thông qua việc toàn Đảng, toàn dân nỗ lực xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ấy, pháp luật luôn được thượng tôn đối với bất kỳ ai, ở bất kỳ hoàn cảnh nào; Hiến pháp và pháp luật cũng chính là công cụ để duy trì và bảo vệ các quyền của con người. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [16]; Trong đó, việc bảo vệ các quyền tự do và an ninh cá nhân 1 được nhấn mạnh, tại Khoản 1 Điều 20: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp vào trong các lĩnh vực pháp luật cụ thể là rất cần thiết. Một trong các lĩnh vực pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân là pháp luật tố tụng hình sự. Bởi lẽ đây là lĩnh vực mà Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, do đó có nguy cơ dễ gây xâm phạm nhất đến quyền con người con người nói chung, đặc biệt là nhóm quyền về tự do và an ninh cá nhân. Trong bối cảnh tình hình kinh tế phát triển, kéo theo tình trạng tội phạm gia tăng và diễn biến phức tạp, bên cạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, việc bảo đảm tôn trọng quyền tự do và an ninh cá nhân của con người cũng phải được thực hiện song hành. Trước đòi hỏi đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận và thực tiễn việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta trong bối cảnh hiện nay là rất cần thiết, vì vậy, học viên đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ, hy vọng kết quả nghiên cứu của chúng tôi sẽ đóng góp một phần nào đó vào việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay, cũng như nâng cao nhận thức và thống nhất việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về tự do và an ninh cá nhân ở Việt Nam nói chung và bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng ngày càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh và góc độ khác nhau, cụ thể: 2 Dưới góc độ các giáo trình, sách chuyên khảo có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có đề cập đến đề tài này như: Nguyễn Ngọc Chí, Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2015; Trần Quang Tiệp, Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Đinh Văn Mậu, Quyền lực Nhà nước và quyền con người, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2003; Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Bảo đảm quyền con người trong Tư pháp hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010; … Ngoài các sách chuyên khảo, vấn đề bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự còn được đề cập trong một số bài viết, bài nghiên cứu, như: Nguyễn Ngọc Chí, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật TTHS Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 6/2011; Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 06/2006; Trịnh Tiến Việt, Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về oan sai và các giải pháp phòng, chống nhìn từ góc độ cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3, 4/2012; Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Pháp luật về phòng chống tra tấn và những yêu cầu đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 10/2008. Nguyễn Huy Đoàn, Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay;... Qua nghiên cứu các sách chuyên khảo và công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, chủ yếu các công trình nghiên cứu đề cập đến việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, chưa có công trình nghiên 3 cứu nào chuyên sâu, có hệ thống, trực tiếp nghiên cứu về vấn đề bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, vẫn là một đề tài mang tính mới, góp phần vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm gắn với việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Luận văn đặt ra mục tiêu nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến giải góp phần hoàn thiện các quy định về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Làm rõ các vấn đề chung về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự, như: khái niệm “bảo vệ tự do và an ninh cá nhân”, “bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự”, ý nghĩa của các quy định về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân trong pháp luật tố tụng hình sự. Nghiên cứu sự thể hiện của các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân qua các thời kỳ, đặc biệt trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015. Khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến vấn đề bảo vệ tự do và an ninh cá nhân; làm rõ những 4 ưu điểm cũng như những hạn chế của công tác áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực này. Đề xuất hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân đối với người bị buộc tội bằng pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về mặt nội dung luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, chủ yếu tập trung vào bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, để thể hiện rõ hơn về quá trình phát triển của các quy định trong pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân, luận văn cũng đề cập đến việc nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự qua các thời kỳ từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay. Về không gian và thời gian, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ luật học, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự thể hiện của các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân và thực tiễn thi hành các quy định này trong các hoạt động tố tụng trên phạm vi cả nước trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Về cơ sở lý luận Luận văn được tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và chủ nghĩa duy vật 5 lịch sử và những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Cụ thể là các chủ trương, quan điểm về cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả thực hiện việc nghiên cứu đề tài bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, trong đó chú trọng các phương pháp nghiên cứu đặc thù đối với ngành luật, luật tố tụng hình sự, cụ thể: - Phương pháp so sánh, đối chiếu; - Phương pháp phân tích, tổng hợp; - Phương pháp lịch sử; - Phương pháp phân loại và hệ thống hóa; - Phương pháp thống kê, đánh giá dựa trên các số liệu thực tiễn về quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn cả nước. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học có tính hệ thống, tương đối toàn diện về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng các pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam, luận văn dự kiến sẽ có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như sau: Luận văn đã phân tích một cách tương đối toàn diện những vấn đề lý luận về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự: khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự; Phân tích, làm rõ sự thể hiện của những quy định trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân, thống nhất một số cách hiểu và áp dụng các quy định này trên thực tiễn; Nêu ra một số bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành của nước ta trong việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân; 6 Đánh giá tổng quan về thực trạng áp dụng các quy định về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân trong pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng ở Việt Nam trong những năm gần đây. Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam trong bảo vệ tự do và an ninh cá nhân trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; kết cấu của luận văn được triển khai gồm 3 chương cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật tố tụng hình sự. Chương 2: Sự thể hiện của bảo vệ tự do và an ninh cá nhân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực trạng và một số kiến giải góp phần nâng cao việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong bảo vệ tự do và an ninh cá nhân. 7 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN NINH CÁ NHÂN BẰNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm về quyền con ngƣời, tự do và an ninh cá nhân 1.1.1. Khái niệm về quyền con người Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người: Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, thì quyền con người là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [17, tr.21]. Tại buổi quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) của Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao ngày 26/02/2014 khi nói về những điểm mới về quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Phó giáo sư, Tiến sỹ Trần Văn Độ - Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao khái quát: “quyền con người là quyền của cá nhân mà khi sinh ra vốn dĩ là đã có, còn quyền công dân là quyền được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước nó gắn liền với quốc tịch của mỗi công dân”. Đây là cách khái quát dể hiểu và cơ bản nhất về quyền con người. Nó phù hợp với học thuyết về “quyền tự nhiên” (natural rights) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Như vậy, khó có thể đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về quyền con người, tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa có thể nêu ra một số thuộc tính cơ bản của khái niệm quyền con người sau đây: Thứ nhất, quyền con người là những giá trị gắn với mỗi con người vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng. 8 Thứ hai, quyền con người là những giá trị phải được xã hội hóa bằng cách thể chế hóa thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, giới tính… Thứ ba, quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là những giá trị sản sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một nhà nước cụ thể. Ghi nhận quyền con người, pháp luật phản ánh các nhu cầu và khả năng khách quan phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, dân chí cụ thể… Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác định và mới bảo đảm trở thành hiện thực trong thực tiễn. Với ba yếu tố trên đây, quan niệm nhân quyền vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một quốc gia, một dân tộc [12]. 1.1.2. Khái niệm về tự do và an ninh cá nhân Tự do và an ninh cá nhân là những quyền cơ bản trong các quyền con người cần được tôn trọng và bảo vệ, thể hiện một tình trạng cuộc sống bình thường, ổn định và hạnh phúc của con người; đối lập với tình trạng con người bị áp bức, đối xử bất công, tàn nhẫn, bị đe dọa xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản hay bị những tai họa do con người gây ra. Cùng với quá trình phát triển của nhân loại quyền con người nói chung và quyền tự do và an ninh cá nhân nói riêng ngày càng được phát triển, thể hiện trong hai văn kiện quốc tế quan trọng là – Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR). Theo đó, tự do và an ninh cá nhân (UDHR-3, ICCPR-9) được đề cập trong hai văn bản này cùng với tư cách là quyền dân sự quan trọng trong số nhiều quyền quan trọng khác của con người mà toàn thể nhân 9 loại đặt ra cần bảo vệ như: quyền sống (ICCPR-6), quyền được bảo vệ không bị bắt làm nô lệ (UDHR-4, ICCPR-8); quyền được bảo vệ để không bị tra tấn (UDHR-5, ICCPR-7); quyền có tư cách pháp lý (UDHR-6, ICCPR-16); quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng (UDHR-7, ICCPR-14, 16); quyền được bồi thường về mặt pháp lý khi bị vi phạm (UDHR-8, ICCPR-2); quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ, giam cầm hoặc lưu đầy một cách tùy tiện (UDHR-9, ICCPR-9); quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập và không thiên vị (UDHR-10, ICCPR-14); quyền được suy đoán vô tội (UDHR-11, ICCPR-14); quyền được bảo vệ không bị áp dụng luật hồi tố (UDHR-11, ICCPR-15); quyền về đời tư (UDHR-12, ICCPR-17) [29]. Do vậy, khi nghiên cứu về quyền tự do và an ninh cá nhân, có thể thấy rằng, “tự do” và “an ninh cá nhân”, tuy là hai khái niệm độc lập nhưng xét trong mối quan hệ liên quan đến quyền con người, “tự do” và “an ninh cá nhân” có mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau. Về khái niệm “tự do” trong mối tương quan với quyền an ninh cá nhân, có thể nói: “tự do” là một yếu tố nền tảng của “an ninh cá nhân” và đến lượt mình, “an ninh cá nhân” là một trong những hệ quả mà cá nhân (con người) có được do “tự do” mang lại. Cả tự do và an ninh cá nhân đều là những quyền gắn với bản thân mỗi con người, tuy nhiên, không chỉ là quyền mà tự do và an ninh cá nhân còn là trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. Nhà nước ghi nhận vào hệ thống pháp luật các quyền con người, theo đó, con người có được quyền tự do làm những gì họ muốn và nhà nước bảo đảm cho những quyền đó được thực thi trên thực tế. Mặt khác, con người được thừa hưởng quyền lợi đó phải góp phần bảo đảm cho những hành vi của mình và giúp cho những hành vi của người khác không xâm phạm đến những điều mà pháp luật cấm. Bởi: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”. Lịch sử đã chứng minh rằng con người không thể có cuộc sống 10 ổn định, tự do và phát triển bền vững nếu như không có an ninh. Và con người chỉ có thể có được tự do tuyệt đối khi mọi hoạt động của họ được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Cụ thể: Quyền tự do cá nhân không được các văn kiện pháp lý quốc tế định nghĩa mà chủ yếu được giải thích trong thực tiễn áp dụng. Mạng lưới chuyên gia độc lập của Liên minh Châu Âu về các quyền cơ bản giải thích về quyền này như sau: Quyền tự do cá nhân, chỉ liên quan đến một khía cạnh rất cụ thể của quyền tự do của con người, tự do di chuyển cơ thể theo nghĩa hẹp trong việc bắt bớ và giam giữ. Tất cả các hình thức ít nghiêm trọng khác hạn chế về tự do di chuyển của cơ thể, chẳng hạn như quản chế hoặc cấm cư trú, trục xuất, lưu vong, lệnh giới nghiêm hoặc sự giám sát đối với các tù nhân được phóng thích không thuộc phạm vi của quyền tự do. Tác giả cũng cho rằng, tự do cá nhân là việc con người được bảo đảm tránh khỏi sự cưỡng chế về mặt hình thức – các hành vi bắt, giam giữ cá nhân một cách tùy tiện mà không căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, tự do cá nhân không hướng tới lý tưởng về một xã hội không có nhà tù mà chỉ hướng tới một sự bảo đảm về mặt thủ tục. Theo đó, quyền tự do cá nhân không phủ nhận chính việc tước quyền tự do cá nhân mà chỉ phản đối việc bắt giữ và giam cầm một cách tùy tiện. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng đã có những quy định rất chặt chẽ về các trường hợp bắt, giữ, giam người bị buộc tội, trình tự thủ tục và thẩm quyền áp dụng ... tránh việc bắt giữ, giam người một cách tùy tiện, trái pháp luật. Về vấn đề “an ninh cá nhân”: “An ninh” trong tiếng Anh gọi là security và có hàm ý là mức độ an toàn (safety) cao nhất cho chủ thể. Hiện nay, ngay cả trong bản dịch Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc năm 1948 mà tác giả sử dụng nghiên cứu ở đây cũng có nhiều tài liệu dịch là tự do và “an toàn” cá nhân. Thực ra cả “an toàn” và “an ninh” đều đúng. Tuy nhiên, 11 theo tác giả, khái niệm “an ninh” là khái niệm rộng hơn mà trong nội hàm của nó bao hàm cả nội dung về khái niệm “an toàn”, theo đó: an ninh có ý nghĩa là sự tồn tại, an toàn, bình an, không có nỗi lo, rủi ro, mối nguy, sự cố hay tổn thất về người và tài sản… Ngoài ra, sử dụng thuật ngữ “an ninh cá nhân” thể hiện cả khía cạnh trách nhiệm bảo vệ từ phía Nhà nước trước sự xâm hại đến cá nhân về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền tự do khác đối với cá nhân trong xã hội thông qua các quy định của pháp luật. Mặt khác, khái niệm “An ninh cá nhân” (Personal security) trong pháp luật quốc tế được thừa nhận là một trong bảy lĩnh vực chính của an ninh con người (bao gồm: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh y tế, an ninh môi trường, an ninh chính trị, an ninh cộng đồng và an ninh cá nhân) – thể hiện ở việc được bảo vệ trước những hành vi phạm tội, bạo lực hoặc lạm dụng thể chất do bất kể chủ thể nào gây ra”. Theo đó, việc bảo vệ được an ninh cá nhân cũng chính là hoạt động nhằm phòng, chống các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến quyền tự do khác của con người. Pháp luật bảo vệ sự bất khả xâm phạm về thân thể của con người và công dân. Khi xét về mối quan hệ giữa “tự do cá nhân” và “an ninh cá nhân”, tác giả nhận thấy: “tự do cá nhân” và “an ninh cá nhân” có mối quan hệ biện chứng với nhau, thể hiện ở chỗ tự do không mang lại an ninh mà an ninh mới mang lại tự do - được bảo đảm an toàn thì mới tự do thực sự, ngược lại, tự do thân thể, không bị bắt giữ, giam cầm nhưng bị tấn công, bạo hành thì không phải là tự do thực sự. Nói như học giả người Anh, J.E.S. Fawcett: “Tự do cá nhân theo nghĩa gốc, tức là sự tự do thể chất của con người... Quyền an ninh cá nhân, mặt khác, là quyền được pháp luật bảo vệ trong việc thực hiện các quyền tự do”. Như vậy, trong khi quyền tự do cá nhân là điều kiện thiết yếu để có được tất cả các quyền và tự do khác thì quyền an ninh cá nhân là 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan