Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu theo pháp luật việt nam hiện nay...

Tài liệu Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu theo pháp luật việt nam hiện nay

.PDF
79
260
136

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THÚY BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, năm 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THÚY BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO Hà Nội, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Học viên Nguyễn Thị Thúy MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÃN HIỆUVÀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆĐỐI VỚI NHÃN HIỆU ..... 6 1.1. Quyền SHTT đối với Nhãn hiệu ................................................................ 6 1.2. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu ........................................ 17 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM............................................................ 30 2.1. Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu tại Việt Nam ......................................................................................................... 30 2.2. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu .................................................................................................................. 43 CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................... 49 3.1. Những yêu cầu đặt ra với hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu tại Việt Nam hiện nay ..................................................................... 49 3.2. Giải pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu tại Việt Nam hiện nay ........................................................................................................... 51 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTA : Bilateral Trade Agreement: Hiệp định thương mại song phương GPHI : Giải pháp hữu ích KDCN : Kiểu dáng công nghiệp NH : Nhãn hiệu SC : Sáng chế SHCN : Sở hữu công nghiệp SHTT : Sở hữu trí tuệ TRIPS : Agreement on Trade-related Aspects of Intellectual Property Rights Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ WIPO : World Intellectual Property Organization: Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WTO : World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Tình hình khiếu nại vi phạm quyền sở hữu công nghiệp 32 bảng Bảng 2.1. đối với nhãn hiệu từ năm 2006 đến năm 2016 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang tích cực mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới để tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng sâu rộng như hiện nay. Tuy nhiên, để hội nhập thành công, tận dụng được các cơ hội, Chính phủ Việt Nam và cả các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xây dựng được một chiến lược chủ động, một chiến lược có thể phát huy một cách hiệu quả nội lực và nâng cao được năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mà trước tiên là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Chính vì vậy, NH là một tài sản quan trọng của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu hàng hóa, là công cụ hữu hiệu để giúp doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Do đó, bên cạnh việc xác lập quyền SHTT thì bảo vệ quyền SHTT đối với NH một cách kịp thời là một việc làm cần thiết. Điều đó giúp doanh nghiệp thâm nhập, tạo lập, giữ vững và phát triển thị trường chống lại mọi hành vi vi phạm, hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hành vi chiếm đoạt của các đối thủ cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền SHTT đối với NH nói riêng đã được quan tâm. Tuy nhiên thực trạng vi phạm quyền SHTT đối với NH vẫn đang diễn ra và ngày càng gia tăng theo chiều hướng phức tạp hơn. Thực tế này đã gây cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính những thiệt hại, tổn thất lớn về vật chất và tinh thần, đồng thời cũng gây thiệt hại và ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Nạn hàng giả, sử dụng NH giả đang làm cho 1 người tiêu dùng trở nên hoang mang và luôn lo ngại với tâm lý sẽ mua phải hàng nhái, hàng kém chất lượng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức được tác dụng của NH trong cạnh tranh, do đó chưa coi trọng và chưa đầu tư đúng mức để xây dựng và phát triển NH. Đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm chú ý đến việc xây dựng, bảo hộ và phát triển nhãn hiệu của mình nếu muốn đứng vững trên thị trường trong nước, từng bước vươn ra chiếm lĩnh thị trường thế giới. Nhưng giải pháp nào cho việc bảo vệ quyền SHTT đối với NH một cách phù hợp trong điều kiện này? Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách cụ thể vấn đề này. Từ đó, người viết chọn đề tài “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho luận văn cao học, chuyên ngành Luật Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới, hiện đã có một số công trình nghiên cứu ít nhiều có liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền SHTT đối với NH, như: “Cẩm nang sở hữu trí tuệ: chính sách, pháp luật, và áp dụng” (2005) và “Sở hữu trí tuệ một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế” (2004) của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới. Tại Việt Nam, hiện tại có một số luận văn thạc sỹ có liên quan đến quyền SHTT đối với NHNH. Cụ thể: luận văn “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ đáp ứng yêu cầu Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” (2002) của Đỗ Việt Dũng; “Những giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý về bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam nhằm phát triển thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” (2004) của Nguyễn Thị Phương Lan; “Bảo vệ sở hữu trí tuệ tại biên giới: thực trạng và giải pháp” (2006) của Bùi Thiện Phú; “Những khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp và khả năng khai thác đối với doanh nghiệp Việt Nam” (2007) của Nguyễn Thị Thu Hiền; “Bảo hộ quyền sở hữu 2 trí tuệ đối với NH khi Việt Nam trở thành thành viên WTO” (2008) của Trần Minh Hương… Tuy nhiên chưa có luận văn hay công trình nghiên cứu đề cập hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với NH. Như vậy, đề tài “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam hiện nay”là đề tài nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích tình hình bảo vệ quyền SHTT đối với NH tại Việt Nam hiện nay và nêu rõ những bất cập trong hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với NH tại Việt Nam, đề tài đề xuất giải pháp bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ: - Nghiên cứu tổng quan về NH cũng như nội dung của hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với NH; - Phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ quyền SHTT đối với NH trong từng giai đoạn; - Phân tích và đánh giá những tồn tại, hạn chế của hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với NH tại Việt Nam; - Đề xuất giải pháp bảo vệ quyền SHTT đối với NH của Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với NH tại Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các quy định của WTO, của Việt Nam về NH, về SHTT và về bảo hộ quyền SHTT đối với NH. 3 4.2. Phạm vi nghiên cứu Bảo hộ quyền SHTT là một khái niệm rộng mà nội dung của nó bao hàm cả việc xác lập quyền SHTT, bảo vệ quyền SHTT, xử lý vi phạm và cơ chế thực thi bảo hộ quyền SHTT. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, nội dung của luận văn giới hạn ở việc phân tích hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với NH tại Việt Nam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp để nghiên cứu dựa trên các số liệu thống kê, thông tin về hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với NH tại Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đánh giá thực trạng bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu giúp đánh giá những tồn tại hạn chế của việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại Việt Nam qua đó đề xuất giái pháp và phương hướng trong thời gian tới. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 4 - Chương 1.Những vấn đề lý luận về nhãn hiệu và hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu. - Chương 2. Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại Việt Nam. - Chương 3. Giải pháp bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại Việt Nam hiện nay. 5 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÃN HIỆU VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1. Quyền Sở hữu trí tuệ đối với Nhãn hiệu 1.1.1. Sự hình thành nhãn hiệu Nhãn hiệu đã được sử dụng để nhận biết nguồn gốc của sản phẩm. Cách đây 4000 năm về trước, thợ thủ công ở Trung Quốc, Ấn Độ và Ba Tư đã sử dụng chữ ký của họ hoặc biểu tượng để phân biệt sản phẩm của họ. Thợ gốm La Mã đã sử dụng hơn 100 nhãn hiệu khác nhau để phân biệt tác phẩm của mình, nổi tiếng nhất là nhãn hiệu Fortis mà nhiều sản phẩm khác đã làm giả, làm nhái nhãn hiệu này. Người ta tin rằng các thợ thủ công đó đã sử dụng NH cho nhiều mục đích, bao gồm sử dụng để quảng cáo cho người làm ra các sản phẩm đó, làm bằng chứng để khẳng định các sản phẩm thuộc về một thương gia cụ thể nào đó khi có tranh chấp về quyền sở hữu cũng như sử dụng làm một sự đảm bảo về chất lượng đối với người tiêu dùng. Trong thời Trung cổ, việc sử dụng NH đã được gắn với sự phát triển và tăng trưởng của thương mại. NH đã được sử dụng để chỉ ra rằng một sản phẩm do một thành viên của một phường hội được biết đến là do có kinh nghiệm trong ngành buôn bán đó làm ra. Trong tiếng Pháp, thuật ngữ được sử dụng là “marque deposée” trong đó từ deposée có nghĩa là nhãn hiệu đã được đăng ký với một phường hội buôn bán lúc bấy giờ. Ngày nay, NH đã phát triển nhanh chóng thành công cụ để nhận biết sản phẩm của những công ty riêng biệt và là tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Việc sử dụng NH trong quá trình tiếp thị hàng hóa không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế công nghiệp nội địa, mà còn có ý nghĩa to lớn trong hoạt động 6 thương mại quốc tế. Nhu cầu và hoạt động của các thương nhân trong thương mại quốc tế đòi hỏi phải có một chế độ pháp lý phù hợp, cả trong nội địa và quốc tế, để điều chỉnh các vấn đề phát sinh xung quanh NH. Điều đó đã dẫn tới sự hình thành, bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, các điều ước quốc tế về NH cũng như pháp luật về SHTT đối với NH của quốc gia cũng ra đời. Như vậy, NH là dấu hiệu dùng để phẩn phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. 1.1.2. Khái niệm về nhãn hiệu a. Định nghĩa Theo Hiệp định TRIPS - Hiệp định về những khía cạnh thương mại của quyền SHTT của WTO, “nhãn hiệu” được định nghĩa là “bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu”[30]. Từ khái niệm trên cho thấy, trong pháp luật quốc tế, các khái niệm thường được quy định một cách khái quát, chung chung, mang tầm vĩ mô. Việc xác định một đối tượng bất kỳ có phải là NH hay không thì người ta sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng của nó và “bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác” thì đều có thể xem là yếu tố cấu thành nên một NH. Theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005– đạo luật chuyên ngành đầu tiên của Việt Nam về SHTT, NH được định nghĩa như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”[19,tr.3]. 7 Qua các định nghĩa trên ta thấy có hai khía cạnh của NH, nhưng phụ thuộc lẫn nhau và trong thực tế cần luôn được xem xét cùng nhau. Để người tiêu dùng có dùng để phân biệt một sản phẩm, NH phải chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa. Điều này không có nghĩa là NH phải thông tin cho người tiêu dùng về người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm chí người bán sản phẩm, chỉ cần cho người tiêu dùng có thể tin tưởng vào doanh nghiệp nhất định, là bên có trách nhiệm về sản phẩm được bán ra mang NH, chịu trách nhiệm về hàng hóa. Việc chỉ dẫn nguồn gốc này cho thấy NH phân biệt hàng hóa của một doanh nghiệp này với hàng hóa cùng loại của những doanh nghiệp khác. Chỉ khi NH cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới NH đó với những hàng hóa của doanh nghiệp khác bán trên thị trường thì lúc đó NH đã hoàn thành nhiệm vụ phân biệt. Như vậy, có thể nói không thể tách biệt giữa khía cạnh phân biệt và chỉ dẫn nguồn gốc của NH. b. Các thành tố của nhãn hiệu Nhãn hiệu có 2 thành tố cấu thành là tên nhãn hiệu và biểu tượng nhãn hiệu: Tên nhãn hiệu mang ý nghĩa quan trọng của NH, là thành tố cơ bản vì nó thường là yếu tố chính hoặc là liên hệ chính của sản phẩm một cách cô đọng và tinh tế. Tên nhãn hiệu là ấn tượng đầu tiên về một loại sản phẩm, dịch vụ trong nhận thức nhãn hiệu của người tiêu dùng. Dưới góc độ pháp luật, tên nhãn hiệu được tạo thành từ sự kết hợp của từ ngữ hoặc các chữ cái có khả năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp này với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp khác đã được bảo hộ và không thuộc các dấu hiệu loại trừ. Đáp ứng được yêu cầu này, tên nhãn hiệu sẽ được bảo hộ với tư cách là NH. Các tiêu chí để đặt tên nhãn hiệu gồm: - Dễ nhớ: tên nhãn hiệu phải tạo được sự chú ý và có thể gợi tính hiếu kỳ từ phía người tiêu dùng, đơn giản, dễ phát âm, dễ đánh vần. - Có ý nghĩa: tên nhãn hiệu cần gợi ra một hình ảnh thân thuộc và có ý 8 nghĩa, có khả năng liên tưởng. - Dễ chuyển đổi: tên nhãn hiệu có thể dùng cho nhiều sản phẩm trong cùng một chủng loại, dễ chấp nhận giữa các lãnh thổ và nền văn hóa khác nhau. - Đáp ứng yêu cầu bảo hộ: không trùng, không tương tự với nhãn hiệu của người khác đã nộp đơn hoặc bảo hộ. Biểu tượng có thể trở thành những điểm quan trọng chính yếu trong NH. Biểu tượng phải kết hợp chặt chẽ với tên nhãn hiệu. Dưới góc độ xây dựng NH, biểu tượng là thành tố đồ họa của nhãn hiệu góp phần quan trọng trong nhận thức của khách hàng về nhãn hiệu. Dưới góc độ pháp luật, biểu tượng gồm các yếu tố hình độc đáo, riêng có tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Biểu tượng tạo ra sự phân biệt của sản phẩm vì vậy biểu tượng được xem xét bảo hộ với tư cách là NH. Các quy tắc sáng tạo biểu tượng gồm: - Biểu tượng mang hình ảnh của doanh nghiệp: các yếu tố hình cần khắc họa được điểm khác biệt của doanh nghiệp. - Biểu tượng có ý nghĩa văn hóa đặc thù. - Dễ hiểu: các yếu tố hàm chứa hình ảnh thông dụng. - Biểu tượng phải đảm bảo tính cân đối và hài hòa, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Ví dụ: Nhãn hiệu VNPT của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam bao gồm tên nhãn hiệu là chữ “VNPT cuộc sống đích thực” và biểu tượng là chữ V được vẽ cách điệu. 9 c. Phân biệt nhãn hiệu với một số khái niệm khác Trong thực tế có một số khái niệm rất dễ gây nhầm lẫn với khái niệm nhãn hiệu như tên thương mại, nhãn hàng hoá, thương hiệu. Vì vậy cần phân biệt các khái niệm trên với khái niệm NH. Tên thương mại và nhãn hiệu đều là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, tuy nhiên NH có thể được bảo hộ thông qua việc đăng ký còn quyền sở hữu đối với tên thương mại tự động phát sinh khi hội đủ các điều kiện quy định mà không cần phải đăng ký. Bên cạnh đó, NH có chức năng phân biệt hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác nhau còn chức năng của tên thương mại là phân biệt các doanh nghiệp khác nhau trong cùng một lĩnh vực hoạt động sản xuất hoặc kinh doanh. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng hoặc không sử dụng NH nhưng bắt buộc phải có tên thương mại để đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước để có thể tiến hành hoạt động. Cuối cùng, thời hạn bảo hộ đối với NH là 10 năm (có thể gia hạn nhiều lần) còn quyền sở hữu đối với tên thương mại được bảo hộ khi chủ sở hữu còn duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh dưới tên thương mại đó. Ví dụ: “Công ty cổ phần thép DANA-UC” là Tên thương mại, trong khi đó “DANA-UC” là thành phần phân biệt của các tên thương mại đó đã được bảo hộ là nhãn hiệu. Nhãn hiệu khác nhãn hàng hóa ở những điểm sau: Thứ nhất, NH dùng để phân biệt hàng hóa cùng loại của các cơ sở sản xuất khác nhau và không được mang tính mô tả hàng hóa trong khi nhãn hàng hóa chủ yếu chứa các thông tin mang tính mô tả hàng hóa giúp người tiêu dùng nhận biết được hàng hóa đó. Thứ hai, NH có thể được bảo hộ thông qua việc đăng ký NH còn nhãn hàng hóa không cần đăng ký bảo hộ, tuy nhiên, đối với những nhãn hàng hóa ngoài những thông tin về hàng hóa còn có những họa tiết, hoa văn mang tính thẩm mỹ thì có thể đăng ký bảo hộ như một đối tượng kiểu dáng công nghiệp. Thứ ba, sản phẩm lưu thông trên thị trường có thể gắn hoặc không gắn NH nhưng 10 bắt buộc phải có nhãn hàng hóa. Nhãn hàng hóa phải có những thông tin chủ yếu sau: tên hàng hóa, tên, địa chỉ của chủ doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa, thành phần cấu tạo, công dụng, thời hạn sử dụng, điều kiện bảo quản… Thứ tư, một NH có thể sử dụng cho nhiều loại hàng hóa (ghi trong danh mục hàng hóa/dịch vụ có trong Giấy chứng nhận NH) nhưng một nhãn hàng hóa chỉ sử dụng cho một hàng hóa. Sự khác biệt giữa thương hiệu và nhãn hiệu là ở chỗ cùng một tên nhưng NH là kết quả của việc đăng ký với cơ quan chức năng trong một quốc gia, một khu vực để chứng nhận cho sự hiện diện của hàng hoá trên thị trường, còn thương hiệu là kết quả của những nỗ lực xây dựng, phát triển của doanh nghiệp và tuỳ thuộc cả vào sự nhận thức của người tiêu dùng đối với cái tên đó trên thị trường. NH đại diện cho sự hiện hữu của cái tên đó, còn thương hiệu thể hiện cho “phần hồn” của nó. Như vậy, thương hiệu và NH là hai phạm trù khác biệt nhau. NH thuộc phạm trù về pháp lý, về SHTT, còn thương hiệu thuộc phạm trù về nhận thức của người tiêu dùng đối với các sản phẩm hoặc đối với một doanh nghiệp. Một bên để bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, còn một bên bảo vệ quyền lợi của sản phẩm trong ý thức của người tiêu dùng. Cụ thể hơn, khi gắn với sản phẩm thì nó là NH và khi gắn với hình ảnh của doanh nghiệp thì nó là thương hiệu, khi thương hiệu gắn cho sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ thì nó trở thành NH. Ngoài ra, theo quy định của luật quốc tế và luật quốc gia, thương hiệu không phải là đối tượng bảo hộ của quyền SHTT nhưng NH lại là đối tượng bảo hộ của quyền SHTT. 1.1.3. Các loại nhãn hiệu Bên cạnh NH hàng hóa thông thường, NH hàng hóa còn gồm NH tập thể, NH chứng nhận, NH liên kết và NH nổi tiếng. a. Nhãn hiệu tập thể NH tập thể là NH dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành 11 viên của tổ chức là chủ sở hữu NH đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó[19,tr.3]. Gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, cốm làng Vòng, tranh Đông Hồ….là những NH tập thể nổi tiếng tại Việt Nam. Như vậy, NH tập thể thường là của một hiệp hội hoặc một tập thể mà các thành viên của nó có thể sử dụng NH tập thể để quảng bá cho sản phẩm của mình. Hiệp hội thường thiết lập một hệ thống các tiêu chuẩn nhất định cho việc sử dụng NH tập thể (ví dụ như tiêu chuẩn về chất lượng) và cho phép các thành viên sử dụng NH nếu họ đáp ứng được các tiêu chuẩn đó. NH tập thể có thể là một hình thức hiệu quả để cùng quảng bá sản phẩm của một nhóm doanh nghiệp mà nếu là với từng NH riêng biệt, khó có thể được người tiêu dùng nhận biết hoặc được các đại lý lớn chấp nhận. b. Nhãn hiệu chứng nhận Nhãn hiệu chứng nhận là NH mà chủ sở hữu NH cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang NH[19,tr.3]. Các tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hoá, dịch vụ có quyền đăng ký NH chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ đó. ISO 9000 (quản lý chất lượng một tổ chức), ISO 14000 (Quản lý môi trường), HACCP (quản lý về an toàn vệ sinh thực phẩm), SA. 8000 (hệ thống quản trị xã hội) ...là những NH chứng nhận quốc tế rất quen thuộc ở Việt Nam. NH chứng nhận đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn cụ thể, nhưng việc cấp NH chứng nhận không hạn chế số hội viên. NH có thể được bất cứ ai sử dụng với điều kiện sản phẩm của họ phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định (về môi trường, về quy trình sản xuất….). Tại nhiều quốc gia, điểm khác biệt giữa NH 12 chứng nhận và NH tập thể là người sử dụng: đối với NH tập thể thì người sử dụng giới hạn trong số những thành viên của hiệp hội, trong khi đó bất cứ người nào đáp ứng được tiêu chuẩn quy định của chủ NH chứng nhận thì đều có quyền sử dụng. Một yêu cầu quan trọng đối với NH chứng nhận chính là dấu hiệu được gắn trên giấy chứng nhận phải được coi là “dấu hiệu chứng nhận” cho loại sản phẩm mang NH. c. Nhãn hiệu liên kết Nhãn hiệu liên kết là các NH do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau[19,tr.3]. Việc đăng ký NH liên kết làm tăng phạm vi bảo hộ của NH, tránh trường hợp doanh nghiệp khác sử dụng NH tương tự với NH đó. Tuy nhiên, khi đăng ký NH liên kết, doanh nghiệp phải chỉ ra NH nào là NH cơ bản, nếu không các NH đó sẽ được coi là độc lập với nhau. Chẳng hạn khi đăng ký bảo hộ NH Phú Hưng và các NH liên quan như Phí Hưng, Phúc Hưng, PH Hưng, Phu Hưng…. thì phải chỉ ra Phú Hưng là NH cơ bản còn các NH kia là NH liên kết. d. Nhãn hiệu nổi tiếng Nhãn hiệu nổi tiếng là NH được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam[19,tr.3]. Các NH nổi tiếng trên thị trường Việt Nam như Coca - Cola, Pepsi, Honda, Bảo Việt….. là những NH mà hầu hết mọi người dân Việt Nam đều biết đến: đi xe Honda, uống nước giải khát Coca Cola hay mua bảo hiểm của Bảo Việt….Quyền đối với NH nổi tiếng cũng giống như quyền đối với các NH thông thường. Ngoài ra, nó còn được mở rộng thêm đối với người sử dụng NH đó, hoặc NH tương tự cho các hàng hoá không liên quan, không tương tự, nhưng nếu gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, hay là gây nhầm lẫn về quan hệ giữa người sử dụng NH với người chủ sở hữu NH, ví dụ như quan hệ công ty mẹ, công ty con, quan hệ liên doanh, lúc 13 đó vẫn có thể bị coi là xâm phạm quyền đối với NH nổi tiếng. Như vậy, phạm vi bảo hộ của NH nổi tiếng bao gồm tất cả các loại sản phẩm dịch vụ trên thị trường chứ không giới hạn trong lĩnh vực kinh doanh của chủ sở hữu NH đó. Cả Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp và pháp luật Việt Nam đều quy định về việc xác lập quyền SHTT đối với NH nổi tiếng mà không cần phải đăng ký[19,tr.4]. Theo đó, quyền đối với NH nổi tiếng được xác lập khi NH đó được công nhận là NH nổi tiếng. 1.1.4. Vai trò của nhãn hiệu Trong số các đối tượng khác nhau của SHTT (trừ một số dạng liên quan chặt chẽ với nhãn hiệu), nhãn hiệu là đối tượng duy nhất tạo cho chủ sở hữu sự độc quyền vô thời hạn. Do đó, nhãn hiệu là một yếu tố quan trọng trong chiến lược tạo ra tài sản cho doanh nghiệp. Nhãn hiệu có 2 vai trò cơ bản: (1) khuyến khích người tiêu dùng quyết định chọn mua sản phẩm trên thị trường, (2) thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào việc phát triển cung cấp hàng hóa và dịch vụ với chất lượng như người tiêu dùng mong muốn[15,pg.150]. Vai trò thứ nhất của NH là giúp người tiêu dùng quyết định chọn mua sản phẩm trên thị trường. Thực tế, người tiêu dùng luôn luôn phải đối mặt với vấn đề chọn lựa giữa nhiều sản phẩm của các doanh nghiệp khác nhau trong cùng lĩnh vực, nhưng sự tương tự bề ngoài của các sản phẩm có thể che đậy sự khác nhau về đặc tính và chất lượng của hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, người tiêu dùng cần một phương pháp để nhận biết sự khác nhau về chất lượng, đặc tính của các sản phẩm để có thể mua được hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mình. Trong trường hợp này, nhãn hiệu có thể giúp người tiêu dùng giảm chi phí tìm kiếm thông qua chức năng thể hiện sản phẩm, đưa ra thông tin về sản phẩm. Người tiêu dùng có thể có kinh nghiệm về sản phẩm và nhãn hiệu đi kèm với nó. Một NH có thể cho người tiêu dùng biết cái nào trong số danh mục và sản 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan