Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử...

Tài liệu Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

.PDF
110
8
96

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TIẾN ĐẠT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2021 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TIẾN ĐẠT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ QUẾ ANH HÀ NỘI - 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Tiến Đạt MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ..................................... 8 1.1. Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và các quyền lợi cơ bản của ngƣời tiêu dùng ............................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng .......................................................................... 8 1.1.2. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng .......................................................... 11 1.2. Khái quát chung về thƣơng mại điện tử và quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử ................................................................... 16 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thương mại điện tử ................................................ 16 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử...................................................................................................... 20 1.2.3. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng trong thương mại điện tử ...................... 24 1.2.4. Trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong thương mại điện tử............................................................................................................. 35 1.2.5. Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ......................................................................................... 41 1.3. Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử theo pháp luật Quốc tế ......................................................................................... 44 1.3.1. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương .................. 44 1.3.2. Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng ............................ 45 1.3.3. Luật Mẫu về Thương mại điện tử .................................................................. 47 Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 50 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM ................................................................................................... 51 2.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử ....................................................................................... 51 2.1.1. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam ........................................................................................ 52 2.1.2. Các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam .................................................................... 55 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử tại Việt Nam...................................................... 71 2.2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ................................................ 71 2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn trại trong quá trình pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ................................ 77 Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 86 CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ .................................................................................................................. 89 3.1. Định hƣớng và xây dựng chính sách bảo vệ ngƣời tiêu ............................ 89 3.2. Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử ....................................................................................... 90 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử ................................................ 95 Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................... 99 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 102 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, trên thế giới việc người sử dụng các thiết bị điện tử có kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động và mạng mở khác để thực hiện các thương mại điện tử đang mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng, góp phần thúc đẩy tăng tỷ trọng GDP cho nền kinh tế. Phát triển kinh doanh theo định hướng toàn cầu hóa; thông qua thành tựu công nghệ với các mô hình kinh doanh mới ngày càng phát triển, góp phần thay đổi và phát triển thị trường thương mại điện tử. Cách thức cung ứng sản phẩm, dịch vụ bằng phương pháp truyền thống cùng với sự hỗ trợ từ sức mạnh của công nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng tiện lợi, toàn diện và đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế nói chung cũng như thị trường thương mại điện tử nói riêng. Cho đến nay, thương mại điện tử đã và đang thể hiện được rất nhiều lợi thế và tác động tích cực tơi người tiêu dùng như cung cấp nhiều lựa chọn về sản phẩm, dịch vụ, cho phép mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với hầu hết các sản phẩm, dịch vụ trên khắp thế giới thông qua các phương tiện thông tin điện tử. Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, hình thức mua bán hàng hóa qua thương mại điện tử đã và đang phát triển mạnh mẽ nhưng các quy định về cơ chế quản lý, kiểm soát, chế tài xử phạt vẫn còn nhiều hạn chế, làm cho môi trường thương mại điện tử ở Việt Nam diễn biến theo cách thiếu được kiểm soát. Vì vậy, rất nhiều vụ việc vi phạm quyền lợi NTD đã diễn ra, gây tâm lý e ngại cho người tiêu dùng khi tham gia các thương mại điện tử, ảnh hưởng đến các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội. Tại Việt Nam, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử đã là vấn đề được Nhà nước ta đã đưa ra và xây dựng thành quy định pháp luật nhằm áp dụng chung trên toàn phạm vi lãnh thổ. Các văn bản pháp luật được ban hành từ khá lâu như: Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Viễn thông năm 2009, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 và các văn bản dưới luật có liên quan. Có thể nhận 1 thấy, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dung vẫn đang nằm rải rác ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, đồng thời, nội dung điều chỉnh để đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dung khi bị xâm phạm cũng chưa phù hợp với yêu cầu thực tế. Mặt khác, các thiết chế Nhà nước và phi Nhà nước tỏ ra rất yếu kém, có vai trò khá mờ nhạt trong việc thực hiện chức năng của mình và đặc biệt là để chuyển các quy định của hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử đang hiện hữu trở thành hiện thực. Trước tình hình thực tiễn như vậy, nhưng có khá ít công trình khoa học nghiên cứu, đi sâu vào pháp luật bảo vệ quyền lợi của NTD nói chung cũng như vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong thương mại điện tử nói riêng. Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu về vấn đề này cho đến nay vẫn đang chỉ dừng lại ở việc phân tích các vấn đề cơ bản mà chưa đánh giá, phân tích một cách toàn diện, đầy đủ về lý luận và thực trạng của vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Với những lí do trên, tác giả sử dụng đề tài: “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử” làm đề nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của một số học giả. Tuy nhiên, những bài nghiên cứu này mới dừng lại ở hình thức là các bài báo, bài viết hoặc những bài báo, bài viết có liên quan. Có thể kể đến các công trình khoa học như: - Đoàn Văn Trường (2002), “Nghiên cứu người tiêu dùng những vấn đề về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam”, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. Tác phẩm này mô tả khái quát về các vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dung tại Việt Nam, đồng thời xác định và chỉ rõ quyền lợi của NTD và những hành vi xâm hại, bên cạnh đó cũng chỉ ra trách nhiệm của Chính phủ, của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam. - Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2008); Chuyên đề “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam thực trạng và hướng hoàn thiện”, Thông tin Khoa học 2 pháp lý số 1/2008. Tác giả của công trình nghiên cứu đã lý luận một số vấn đề cơ bản của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, và đưa ra cái nhìn khách quan, cụ thể đối với thực trạng pháp luật bảo vệ NTD tại Việt Nam hiện nay nhằm hoàn thiện pháp luật đối với vấn đề này. - Bùi Thị Long (2007), “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ. Công trình nghiên cứu chỉ ra thực trạng của vấn nạn xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, qua đó vận dụng lý luận và quan điểm cá nhân để đóng góp những kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. - Trần Thanh Điện, “Tài liệu hướng dẫn học tập thương mại điện tử”, Đại học Cần Thơ, 2013. Thông qua công trình nghiên cứu, tác giả đã xây dựng lý luận những vấn đề cơ bản về thương mại điện tử, thực hiện an toàn và bảo mật cùng các chính sách và pháp luật về giao dịch thông qua phương tiện điện tử. - GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2015), “Cẩm nang pháp lý về hợp đồng điện tử”. Công trình nghiên cứu được nhà xuất bản lao động in và xuất bản với nội dung phong phú. Tác giả đã chỉ ra được nội hàm cơ bản của khái niệm hợp đồng điện tử; các nội dung cần nắm bắt khi áp dụng hợp đồng điện tử trên thực tiến; đồng thời làm rõ khung pháp lý cơ bản của hợp đồng điện tử. Ngoài ra phải kể đến một số các công trình nghiên cứu như: - Nguyễn Trọng Điệp, "Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; 2014; - Vũ Đức Tuấn, “Những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam và những vấn đề đặt ra”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Quản trị kinh doanh - Đại học Ngoại thương, 2011; - Tống Phước Long, “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật - Đại học Huế, 2018; - Nguyễn Thị Ngọc Hà (2018); "Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam", Luận văn thạc sĩ; 3 - Vũ Hải Việt, “Bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch qua mạng điện tử”, Số chuyên đề 1, Tạp chí Dân chủ pháp luật, 2014; - Cao Xuân Quảng, “Bảo vệ thông tin cá nhân trong các giao dịch tiêu dùng”, tr.15-18, số 47, Tạp chí Bản tin cạnh tranh và người tiêu dùng, 2014; - N.H, “Pháp luật của các nước trên thế giới về bảo vệ người tiêu dùng”, Tạp chí Bưu chính và Viễn thông, website: tapchibcvt.gov.vn, 2015; - Bùi Hiền, “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, website: tcdcpl.moj.gov.vn, 2016; Có thể thấy, các công trình trên mới chỉ đưa ra những vấn đề về bảo vệ thông tin NTD hoặc bảo vệ NTD khi tham gia giao dịch qua mạng điện tử hoặc nghiên cứu quyền của NTD dưới góc độ một quyền được pháp luật bảo vệ. Số lượng các nghiên cứu chuyên biệt về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử còn rất hạn chế và chỉ nghiên cứu một vài khía cạnh của quyền này chứ chưa nghiên cứu thành hệ thống. Đề tài “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử” tuy không còn là một đề tài quá mới, nhưng tại công trình nghiên cứu này, tác giả sẽ khái quát một cách đầy đủ và rõ rang hơn những vấn đề lý luận, thực trạng của hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi thương mại điện tử nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích luận văn - Làm sáng tỏ lý luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử; đồng thời phân tích, đánh giá được thực trạng pháp luật hiện hành nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD khi thực hiện các giao dịch thương mại thông qua các phương tiện thông tin điện tử. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được xác định cụ thể như sau: 4 - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, đặc điểm và nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. - Nghiên cứu so sánh sự ghi nhận pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử quốc tế và một số quốc gia trên thế giới, những vấn đề pháp lý để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam. - Phân tích các quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử khi quyền lợi của NTD bị xâm phạm. - Nêu lên thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử, qua đó nêu rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của chúng. - Phân tích, đánh giá xu hướng vận động của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử hiện nay trên thế giới, đưa ra định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử của Việt Nam giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. - Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở phương diện thực thi các quyền của người tiêu dùng có hiệu quả khi tham gia vào các thương mại điện tử với các tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài là những quy định pháp luật liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử; thực tiễn xây dựng và thực thi các quy định pháp luật ở Việt Nam; kinh nghiệm thế giới về xây dựng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao thương mại điện tử là một vấn đề rất lớn, có thể phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn không thể phân tích hết các vấn đề đó mà 5 chủ yếu đi sâu nghiên cứu lý luận chung về quyền lợi của người tiêu dùng trong thương mại điện tử, khái quát chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử, đồng thời, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử và thực tiễn áp dụng. Về mặt thời gian, với đặc thù của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu từ thời điểm Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 và Bộ Luật dân sự năm 2015 cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này được ban hành cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác – Lênin kế hợp tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và tuân thủ theo chủ trương, đường lối của Đảng về thương mại điện tử; quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo vệ người tiêu dùng trong giai đoạn hiện nay. Đây là phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn để đánh giá khách quan sự hoàn thiện của pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Trong từng nội dung nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng một cách linh hoạt, cụ thể: Phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh luật học, phương pháp thống kê, quy nạp, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn giảng, chứng minh … Trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Đây là công trình nghiên cứu được thực hiện một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về lý luận và pháp lý của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Từ đó, góp phần làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở Việt Nam. 6 Thứ nhất: Luận văn đưa ra nhũng ý kiến làm rõ những vấn đề mang tính lý luận của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Thứ hai: Nêu lên, chỉ rõ và đánh giá xác thực về thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Qua đó chỉ ra các vướng mắc, bất cập của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử cần sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tiễn khách quan. Thứ ba: Kiến nghị và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ hữu hiệu quyền lợi người tiêu dùng khi tham gia hoạt động thương mại điện tử. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục kèm theo, luận văn gồm có 3 Chương với những nội dung cơ bản sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. 7 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 1.1. Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và các quyền lợi cơ bản của ngƣời tiêu dùng 1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng 1.1.1.1. Khái niệm về tiêu dùng Tiêu dùng là một trong những hoạt động cơ bản và phổ biến trong đời sống dân sự thường nhật tại bất kỳ khu vực nào trên thế giới hay bất cứ giai đoạn nào của tiến trình vận động, phát triển của xã hội dân sự. Đây được xem là quá trình sử dụng và làm tiêu hao những của cải, vật chất được sáng tạo hoặc sản xuất ra nhằm phục vụ cho các nhu cầu khác nhau trong đời sống con người [16]. Dưới góc độ kinh tế, tiêu dùng được hiểu là hành vi sử dụng hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Đối với kinh tế vi mô, tiêu dùng được xem xét gắn liền với từng hàng hóa cụ thể được thể hiện thông qua hành vi mua bán của người tiêu dùng. Trong khi đó, đối với kinh tế vĩ mô, tiêu dùng được biết đến với vai trò là một trong các yếu tố chính cấu thành nên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia. Theo đó, tiêu dùng có vai trò thiết yếu trong việc xây dựng và phát triển mọi nền kinh tế. Dưới góc độ pháp lý, tiêu dùng là hành vi xuất hiện trong các quan hệ pháp luật mà ở đó, các chủ thể của quan hệ tiêu dùng có sự thỏa thuận thống nhất tiến hành giao dịch đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ từ đơn vị sản xuất, kinh doanh đến tay người sử dụng nhằm mục đích phục vụ nhu cầu sử dụng. Hoạt động tiêu dùng được xem như trọng tâm của để tạo nên các giao dịch tiêu dùng, theo đó, người tiêu dùng đưa ra ý chí chủ quan của mình về nhu cầu, mong muốn đối với sản phẩm trong giao dịch và nhà sản xuất, kinh doanh cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đến với người tiêu dùng theo đúng thỏa thuận của các bên. Trong đời sống thường nhật, các hoạt động tiêu dùng được thực hiện phổ biến, rộng rãi, do đó quan hệ tiêu dùng được xem như các quan hệ pháp luật phổ biến và cơ bản của xã hội. 8 Do vậy, có thể hiểu tiêu dùng là hành vi sử dụng của cải vật chất, hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu của đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nói cách khác, tiêu dùng được hiểu là sử dụng các sản phẩm đã được sáng tạo, sản xuất ra để phục vụ đời sống sinh hoạt thường nhật của mỗi con người. Đồng thời đây cũng là mục đích cuối cùng mà con người hướng tới trong hoạt động kinh tế. Tiêu dùng có vai trò là một khâu quan trọng và có ảnh hưởng quyết định tới sản xuất và kinh doanh, bởi sản xuất và kinh doanh để có thể tổn tại luôn phải đáp ứng được thực trạng nhu cầu tiêu dùng của con người để mỗi sản phẩm làm ra thực sự đi vào đời sống thường nhật, được con người sử dụng và hoàn thành chức năng của sản phẩm là phục vụ nhu cầu của con người. 1.1.1.2. Khái niệm người tiêu dùng Với ý nghĩa là mục đích cuối cùng mà quá trình sản xuất hướng tới, tiêu dùng chính là cầu nối kết nối nhà sản xuất với người sử dụng các sản phẩm mà nhà sản xuất cung cấp ra thị trường. Chủ thể của các hành vi tiêu dùng, sử dụng sản phẩm, dịch vụ chính là đối tượng phục vụ của sản xuất và cung ứng sản phẩm trên thị trường hay còn được gọi là người tiêu dùng. Trong tiếng Anh, người tiêu dùng được gọi bằng thuật ngữ “consumer” để phân biệt với thuật ngữ “customer” là người mua, khách hàng nói chung, theo đó “customer” mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ tất cả các chủ thể bao gồm những người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên liệu sản xuất, kinh doanh. Với việc lý giải như trên, việc xác định một người nào đó có phải là người tiêu dùng hay không được những nhà làm luật xác định dựa trên cơ sở: Người này có phải là người đã thực hiện hành vi sử dụng mặt hàng hoặc dịch vụ nào đó nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân hoặc những người khác được đáp ứng nhu cầu từ hành vi đó hay không. Hoặc nói khác đi – theo cách giải thích của Cộng hòa Liên bang Đức – để xác định người tiêu dùng thì cần phải xác định xem người đó có phải là người sử dụng cuối cùng hay không. Với cách giải thích này, người tiêu dùng được xác định là người cuối cùng sử dụng sản phẩm và khiến cho sản phẩm thực hiện được đúng chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người đồng thời 9 làm cho sản phẩm bị tiêu hao. Đây là quan điểm đã định nghĩa bao quát hết được nội hàm của khái niệm về người tiêu dùng và có thể dễ dàng áp dụng trong thực tiễn để xác định đâu và người tiêu dùng và hành vi tiêu dùng [19]. Tại Pháp, đại đa số cho rằng “người tiêu dùng” được xác định là chủ thể không phải người sở hữu doanh nghiệp, hay có thể xem là những con người tự nhiên tiến hành giao dịch để có được các sản phẩm và dịch vụ nhưng không phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp hay kiếm lời mà nhằm đáp ứng cho nhu cầu gia đình hoặc cho bản thân. “Chính sự đánh đồng người tiêu dùng với người không phải chủ doanh nghiệp là xuất phát điểm của luật pháp và thực tiễn tư pháp của Pháp”. Theo đó, người tiêu dùng được xác định vừa gắn với hành vi mua các sản phẩm, nhưng phải đáp ứng được mục đích tiêu dùng ngoài các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận, và đặc biệt, người tiêu dùng được xác định rõ là những con người tự nhiên và không phải là các chủ doanh nghiệp. Với cách lý giải này, khái niệm người tiêu dùng đã được định nghĩa một cách chi tiết và cụ thể, tuy nhiên cách xác định người tiêu dùng đối với quan điểm này không dễ dàng áp dụng trên thực tiễn bởi quan điểm này đi sâu vào tư cách chủ thể chứ không gắn liền với bản chất của hành vi mà con người thực hiện, do đó có thể gặp khó khăn trong việc xác định người tiêu dùng và bỏ sót các chủ thể khác cũng có tư cách của một người tiêu dùng [34]. Việc xác định tư cách chủ thể là người tiêu dùng được thực hiện nhằm mục đích áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Hoạt động bảo vệ người tiêu dùng chính là một trong những phương pháp bảo vệ lợi ích của các cá nhân thực hiện các tiêu dùng cơ bản. “Người tiêu dùng là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ để sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình mà không có ý định bán lại; là một tự nhiên nhân sử dụng sản phẩm phục vụ mục đích cá nhân, không phải nhằm mục đích kinh doanh” [34], nói cách khác, người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh sẽ không thuộc phạm vi điều chính của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Tại Việt Nam, khái niệm người tiêu dùng cũng đã được pháp luật đề cập đến. Điều 1 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Điều 2 Nghị định 10 69/2001/NĐ-CP ngày 2/10/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nói trên đã đưa ra định nghĩa rằng: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức”. Như vậy, người tiêu dung có thể là: (1) Người mua và là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản thân mình; (2) Người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc tổ chức sử dụng; (3) Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác mua hoặc do được cho, tặng. Các định nghĩa “người tiêu dùng” ở đây đã có sự phân biệt hai chủ thể tiêu dùng khác nhau: Người tiêu dùng là cá nhân, tổ chức trực tiếp sử dụng và người tiêu dùng là người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác sử dụng với cùng một mục đích sử dụng là tiêu dùng sinh hoạt. Như vậy, theo quan điểm của các nhà lập pháp tại Việt Nam, tất cả nhưng người mua bán các sản phẩm, hàng hóa cho chính bản thân hoặc cho cá nhân, tổ chức khác sử dụng đều là người tiêu dùng. Cơ sở để đưa ra định nghĩa về người tiêu dung có thể được dựa trên mục đích tiêu dùng cho sinh hoạt và đời sống thường ngày. Quan điểm này dường như khá đầy đủ và dễ dàng xác định được người tiêu dùng khi căn cứ để xác định dựa trên phân loại người tiêu dùng và xác định bản chất của hành vi tiêu dùng. Tựu chung lại, dù có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm người tiêu dùng, tuy nhiên nội hàm của khái niệm người tiêu dùng của các quan điểm trên đều có các đặc điểm chung về người tiêu dùng đó là chủ thể này được xác định là các chủ thể thực hiện các giao dịch mua sản phẩm, dịch vụ không nhằm mục đích thương mại. 1.1.2. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng Quyền cơ bản của người tiêu dùng là thuật ngữ pháp lý hàm ý chỉ quyền và lợi ích chính đáng được hưởng của người tiêu dùng và phải được pháp luật bảo vệ. Trên thế giới đã hình thành và phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD được từ những năm 50 – 60 của Thế kỷ XX, thế nhưng chưa làm rõ được những quyền cơ bản của người tiêu dùng. Cho đến ngày 15/3/1962 khi Tổng thống Mỹ John Kenedy trong cuộc họp của Thượng viện Mỹ tuyên bố: 11 … Theo định nghĩa, người tiêu dùng là tất cả chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có tác động và chịu tác động của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Thế nhưng họ lại là nhóm người quan trọng duy nhất mà quan điểm của họ lại thưởng không được lắng nghe…, khi đó cột mốc mới về sự phát triển của quyền lợi người tiêu dung mới thực sự bắt đầu [44]. Theo Tuyên bố Kenedy, các quyền cơ bản của người tiêu dùng được xác định là: thứ nhất, quyền được an toàn; thứ hai, quyền được thông tin; Thứ ba, quyền được lựa chọn và thứ tư, quyền được bày tỏ quan điểm. Qua quá trình hoạt động thực tiễn của Quốc tế người tiêu dùng (Consumer International – CI) và các tổ chức người tiêu dùng các nước, các quyền cơ bản của người tiêu dùng đã được bổ sung thêm. Đó là các quyền: quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được bồi thường, quyền được giáo dục và quyền được sống trong môi trường lành mạnh. Ngày 15/3 hàng năm là ngày quyền của người tiêu dùng thế giới (World Consumer Rights Day) theo tuyên bố chính thức của Liên hợp quốc nhằm. Hành động này đã tạo nên sự quan tâm sâu sắc đế quyền lợi của người tiêu dùng đồng thời góp phần giúp người tiêu dùng nâng cao nhận thức về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cho đến nay, Liên hợp quốc đã ban hành Hướng dẫn về bảo vệ người tiêu dùng, làm cơ sở pháp lý để nhiều nước đã xây dựng các quy định về quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật quốc gia. Tại Việt Nam, Ngày 17/11/2010, Luật số 59/2010/QH12 về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Quốc hội khóa 12 thông qua, tuy không đưa ra khái niệm quyền cơ bản của NTD nhưng hiểu theo tinh thần pháp luật điều chỉnh của Luật này thì quyền cơ bản của NTD là "thuật ngữ pháp lý chỉ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức". Theo đó, bất kể cá nhân hay tổ chức khi thực hiện các hành vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho chính bản thân hình hay cho người khác sử dụng vì mục đích tiêu dùng thì đều được hưởng những quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng [17]. 12 Các quyền cơ bản của NTD được xem như các quyền thiết yếu và cơ bản nhất mà NTD phải được hưởng. Những quyền này không ai có thể xâm phạm trong bất kể trường hợp nào, bởi nếu xâm hại các quyền này, NTD sẽ phải chịu những thiệt hại vô cùng nặng nề và không tương xứng với nhu cầu cũng như chi phí đã bỏ ra. Để xác định nội dung các quyền cơ bản của NTD, có thể xác định nhìn nhận dưới các quyền sau: Thứ nhất, quyền an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác. Đây là quyền cơ bản và tiên quyết ảnh hưởng trực tiếp đến NTD. Bởi khi NTD sử dụng hoàng hóa, sản phẩm, dịch vụ mua được phải đảm bảo cho việc hàng hóa phục vụ được nhu cầu và mục đích sinh hoạt, để duy trì sự sống và các hoạt động thường nhật. Do đó, các sản phẩm đến tay người tiêu dùng không được phép làm tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản hay các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người tiêu dùng Thứ hai, quyền được cung cấp thông tin chính xác. Đối với NTD, khi tham gia vào giao dịch tiêu dùng, họ là những người yếu thế khi không thể tự mình thu thập, kiểm chứng và đánh giá các thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà mình có nhu cầu. Bởi vậy việc thiếu thông tin chính xác có thể gây nhầm lẫn hoặc không có đủ cơ sở để NTD đưa ra các quyết định mua các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không đáp ứng được nhu cầu cũng như mục đích sử dụng của họ, dẫn tới việc nhà sản xuất, kinh doanh đưa ra thị trường và tới tay NTD những sản phẩm không phù hợp với yêu cầu thực tiến, sản phẩm kém chất lượng hoặc gây hại cho NTD. Do đó, NTD cần phải được tiếp cận các thông tin về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch; nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch. Thứ ba, quyền được tự quyết. Đây là quyền cơ bản và quyết định đến việc NTD đưa ra ý chí chủ quan của mình về việc lựa chọn hàng hóa, sản phẩm dịch vụ hay chủ thể cung cấp theo nhu cầu của mình. Việc mua các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ được căn cứ trên nhu cầu, mục đích sử dụng của NTD do đó, chỉ có NTD mới biết sự cần thiết và vai trò của sản phầm mà minh lựa chọn khi đưa ra quyết 13 định mua hoặc không mua. Không ai có quyền ép buộc hay tác động trái pháp luật đến quyền lựa chọn của NTD, khiến cho NTD tạo nên những giao dịch tiêu dùng không hiệu quả, không tự do, tự nguyện và xâm hại trực tiếp đến quyền lựa chọn của NTD. Do đó, những lựa chọn của người tiêu dùng phải được hoàn toàn độc lập theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Thứ tư, quyền được đóng góp ý kiến. Với vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, NTD là chủ thể chính cảm nhận được chất lượng và giá trị sử dụng thực tế của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà mình được cung cấp. Do đó, những ý kiến của NTD về các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà minh đã sử dụng thường mang tính thực tiễn, góp phần xác định những yếu tố không phù hợp trong sản phẩm tiêu dùng hoặc trong chính khâu sản xuất, kinh doanh nhằm đảm bảo cho việc hoàn thiện sản phẩm tiêu dùng, giúp cải thiện chất lượng và giá trị sử dụng đến với người tiêu dùng. Đồng thời, NTD cũng phải được quyền phản ánh ý kiến cá nhân của mình về sản phẩm tiêu dùng bởi NTD là chủ thể chính phải chịu thiệt hại về cả vật chất, sức khỏe và tinh thần khi sử dụng các sản phẩm không phù hợp với giao dịch tiêu dùng. Do đó, NTD cần được đảm bảo rằng, ý kiến cá nhân trung thực của mình phải được đưa ra đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Thứ năm, quyền xây dựng định hướng và áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cơ sở vững chắc nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD chính là hệ thống pháp luật quốc gia, nơi chứa đựng các quy tắc xử sự bắt buộc áp dụng chung cho toàn xã hội. Đối với các giao dịch tiêu dùng, pháp luật về bảo vệ quyền của NTD chính là thước đo cho sự đảm bảo của nhà nước đối với NTD, khi đó một hệ thống pháp luật về quyền của NTD cần được xây dựng phù hợp với các quyền và lợi ích cũng như nhu cầu thực tế của NTD, trong khi đó chỉ 14 NTD mới thực sự hiểu được nhu cầu cũng như các quyền lợi chính đáng, thiết thực cần được pháp luật bảo đảm. Chính vì vậy, khi xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD, nhà nước cần đảm bảo quyền đóng góp dây dựng ý kiến, quan điểm để hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng một cách hợp lý và thực tế hơn. Bên cạnh đó, việc tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng hệ thống pháp luật cũng là một trong những quyền hiến định của con người. Việc đảm bảo cho NTD được tham gia xây dựng hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng chính là đảm bảo quyền con người trong công tác xây dựng pháp luật. Thứ sau, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong mỗi giao dịch tiêu dùng, NTD luôn là các chủ thể yếu thế hơn khi là chủ thể chính mà các đối tượng sản xuất, kinh doanh nhắm tới nhằm tìm kiếm và khai thác lợi nhuận. Bên cạnh đó, việc sử dụng các sản phẩm tiêu dùng cũng chính là quá trình NTD hấp thụ, cảm nhận và chịu tác động trực tiếp từ sản phẩm tiêu dùng mà minh sử dụng. Do đó, khi các sản phẩm tiêu dùng được sử dụng nhưng không đáp ứng được nhu cầu, mục đích sử dụng hay chất lượng của sản phẩm thì đồng nghĩa với việc NTD đã và đang chịu thiệt hại một cách trái luật, những thiệt hại này phải được bù đắp bởi người gây nên thiệt hại. Chính vì vậy, việc phải bồi thường thiệt hại khi gây ra cho NTD sẽ bị chính NTD yêu cầu hoàn trả, khắc phục. Đây là quyền lợi rất cần thiết phải được bảo đảm bởi nó chính là biện pháp bù đắp cho những tổn thất mà người tiêu dùng phải hứng chịu, đồng thời cũng là chế tài xử lý những hành vi sản xuất, kinh doanh không trung thực. Thứ bảy, quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện. Khi các hành vi xâm hại đến quyền lợi của NTD xuất hiện trên thực tế, NTD vừa là người gánh chịu thiệu hại, vừa phải là người chủ động có các biện pháp để bảo đảm quyền lợi của mình. Trong khi đó, NTD luôn không có đủ tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, kiến thức và sự chủ động cũng như thực quyền để yêu cầu người trực tiếp xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thực hiện khắc phục hậu quả hay chấm dứt các hành vi sai phạm. Do đó, sự cần thiết của các cơ quan có thẩm quyền nhằm thực hiện chức năng sử dụng quyền lực công ra đời để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho NTD đồng thời 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan