Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo mật hệ thống truyền thông...

Tài liệu Bảo mật hệ thống truyền thông

.DOC
32
88
110

Mô tả:

Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ LỜI MỞ ĐẦU Chưa bao giờ vấn đề bảo mật và an toàn dữ liệu lại được coi trọng như hiện nay, trong bối cảnh mạng máy tính phá bỏ mọi ngăn cách, mọi lúc, mọi nơi người ta đều có thể lấy được thông tin cần thiết. Không thiếu chuyện những tay cao thủ dễ dàng đột nhập vào kho dữ liệu tối mật củ một quốc gia hay nhẹ nhàng nẫng đi khoản tiền kếch xù từ một ngân hàng danh tiếng. Hết rồi, thời của những tay trộm siêu hạng với chìa khóa vạn năng và những “găngxtơ” khét tiếng đao sung cầm tay. “Kỷ nguyên máy tính”, “thời đại Internet” hay những tên gọi tương tự hàm ý về sự văn minh, tiến bộ của xã hội con người. Nhưng tấm huy chương nào cũng có mặt trái. Cũng xã hội đó đã tạo ra những hình thức tội phạm mới: văn minh hơn, sạch sẽ hơn và cũng nguy hiểm hơn. Thông tin đã trở thành một nguồn tài nguyên quan trọng nhất với tổ chức, doanh nghiệp. Con người tập trung nhiều sức lực , trí tuệ để có thông tin nhanh, chính xác. Ai có thông tin kẻ đó chiến thắng. Bởi vậy, thông tin đã trở thành mục tiêu theo đuổi của những ai muốn vượt lên, và đồng thời là cái mà ai cũng cố gắng dữ.Vấn đề đặt ra: Bạn đã bảo mật nguồn dữ liệu quan trọng của bạn tốt nhất chưa? Bạn đã sử dụng những cộng nghệ hiệu quả nhất chưa? Xuất phát từ lý do đó chúng tôi đã thực hiện để tài :”BẢO MẬT HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG” Với sự cố gắng của cả nhóm cùng sự hướng dẫn của thấy chúng tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu về một số công nghệ bảo mật đang được ứng dụng rất phổ biến hiện nay. Nhưng do điều kiện thời gian có hạn, nhóm chúng em chỉ trình bày hai công nghệ hoạt động tốt đó là WAP & BLUETOOTH. Nội dung của đề tài được chia làm 3 phần gồm 5 chương: PHẦN 1: BẢO MẬT VỚI CÔNG NGHỆ WAP Chương I: Giới thiệu tổng quan về WAP : Giới thiệu tổng quan công nghệ WAP về kiến trúc cũng như ứng dụng. Chương II: Bảo mật trên WAP : Đi sâu tìm hiểu các kỹ thuật bảo mật của WAP PHẦN 2: BẢO MẬT VỚI CÔNG NGHỆ BLUETOOTH Chương I: Giới thiệu tổng quan về BLUETOOTH : Giới thiệu khái quát về BLUETOOTH như khái niệm và đặc điểm. Chương II: Vấn đề an toàn và bảo mật trong BLUETOOTH: Trình bày một số phương thức tấn công và kỹ thuật bảo mật. Chương III: Các giải pháp an toàn bảo mật khi sử dụng công nghệ mạng BLUETOOTH: Mách bạn những mẹo an toàn cho thiết bị BLUETOOTH và cách phòng chống virus trên Mobile Phone PHẦN 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG Nhóm 12 Trang 1 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ PHẦN I - BẢO MẬT VỚI CÔNG NGHỆ WAP 1.1Tổng quan về WAP 1.1.1 Giới thiệu về WAP WAP, viết tắt của Wireless Application Protocol (Giao thức ứng dụng không dây), kế thừa các chuẩn Internet (HTML, XML và TCP/IP), cho phép các thiết bị cầm tay có thể kết nối tới Server truy xuất thông tin và các dịch vụ. Giao thức này được thiết kế cho các trình duyệt siêu nhỏ (micro browser) dùng ngôn ngữ đánh dấu WML (Wireless Markup Language). Công nghệ WAP đang là công nghệ chuẩn chủ đạo cho các ứng dụng trên các thiết bị không dây như điện thoại di động. Một số ứng dụng WAP điển hình đang được áp dụng: đặt vé; kiểm tra email; xem dự báo thời tiết, tỉ giá, giá cổ phiếu; xem kết quả bóng đá; tra cứu danh bạ điện thoại… Wireless Application Protocol (WAP) là một dạng đặc tả theo chuẩn công nghiệp mở cho các ứng dụng thực thi trên môi trường mạng không dây, chú trọng vào các ứng dụng trên thiết bị di động, đặc biệt là điện thoại di động. WAP đã và sẽ được hỗ trợ trên nhiều loại thiết bị, từ đơn giản như điện thoại di động thông thường cho đến những thiết bị thế hệ mới - các điện thoại “thông minh” với màn hình rộng có thể chạy được nhiều ứng dụng; thậm chí là những máy trợ lý cá nhân kỹ thuật số (PDA), các máy tính với kích thước nhỏ gọn. Tất cả các thiết bị di động rồi sẽ được áp dụng công nghệ WAP, trực tiếp từ nhà sản xuất hay là từ phiên bản nâng cấp nào đó thuộc nhóm các công ty thứ ba (thirdparty). Mỗi một thiết bị có một cách hiển thị khác nhau và các phương pháp nhập liệu khác nhau. Công việc của công nghệ WAP là sắp xếp lại “mớ hỗn độn” đó và cung cấp một khung làm việc (framework) chung cho phép các ứng dụng chạy được trên cả tất hệ nền khác nhau này. 1.1.2 Kiến trúc ứng dụng WAP Các giao thức WAP được thiết kế trên nền của các giao thức web. Mục đích của WAP là sử dụng lại cấu trúc cơ sở của web, để từ đó nâng cao quá trình giao tiếp giữa nhà cung cấp và các thiết bị di động, giúp quá trình này trở nên hiệu quả và tốn ít thời gian hơn là sử dụng chính các giao thức web. Do kiến trúc của WAP được thiết kế gần giống với Web, nên nó cũng kế thừa mô hình client-server được dùng trên Internet của Web. Điểm khác nhau chính đó là sư có mặt của WAP gateway dùng cho việc chuyển đổi giữa HTTP và WAP. Khi WAP client truy cập đến một website, WAP request được thiết lập giữa WAP client và WAP gateway. Sau đó WAP gateway sẽ giải mã và dịch request này thành một HTTP request và chuyển đến Web server , sau khi Web server xử lý những yêu cầu này và trả về một HTTP response cho WAP gateway. Từ đây WAP gateway sẽ dịch HTTP response thành WAP response và mã hoá nó rồi chuyển về WAP client. Hình 1: Mô hình truyền thông WAP Nhóm 12 Trang 2 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Các thành phần truyền thông WAP được chỉ ra trên hình 1, người dùng đưa địa chỉ URL của dịch vụ cần truy nhập, cổng sẽ kết nối tới máy chủ và trả lại thông tin yêu cầu cho người sử dụng thiết bị đầu cuối di động. Mỗi khi bắt đầu một phiên WAP (WAP session) trên điện thoại di động chúng ta đều phải thức hiện theo các bước như sau: Hình 2: Các bước thực hiện khi tiến hành một phiên giao dịch WAP Nhóm 12 Trang 3 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ 1.1.3 Ngăn xếp giao thức WAP (WAP Protocol stack) Tương tự như mô hình kết nối hệ thống mở OSI, các ngăn xếp của giao thức WAP được chia thành các tầng cho phép dễ dàng mở rộng, thay đổi và phát triển. Giao thức truy nhập ứng dụng vô tuyến WAP gồm có 5 tầng:  Tầng ứng dụng –Môi trường ứng dụng vô tuyến(WAE)  Tầng phiên – Giao thức phiên vô tuyến(WSP)  Tầng tác vụ- Giao thức giao tác vô tuyến(WTP)  Tầng an ninh – Giao thức lớp truyền tải vô tuyến (WTLS)  Tầng vận chuyển – Giao thức datagram vô tuyến (WDP) Tầng ứng dụng(WAE) Wireless Application Environment Tầng phiên (WSP) Wireless Session Protocol Tầng tác vụ (WTP) Wireless Transaction Protocol Tầng an ninh (WTLS) Wireless Transprot Layer Security Tầng vận chuyển (WDP) Wireless Datagram rotocol Hình 3 – Mô hình ngăn xếp WAP Nhóm 12 Trang 4 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ 1.1.3.1 Tầng ứng dụng Wireless Application Environment - WAE Tầng ứng dụng của WAP (WAE) cung cấp tất cả các thành phần liên quan đến việc phát triển và thực thi ứng dụng. WAE cho phép những nhà phát triển có thể sử dụng các định dạng và dịch vụ riêng biệt để tạo ra hoặc tuỳ biến việc hiển thị nội dung và tương tác với các thiết bị di động vốn có nhiều giới hạn. WAE gồm có hai tác nhân người dùng khác nhau được đặt ở phía client đó là:  WAE User Agent (Wireless Application Environment User Agent) là một loại trình duyệt nhỏ (microbrowser) thực hiện hoàn trả nội dung phục vụ việc hiển thị. Nó nhận vào WML, WML Script đã được biên dịch và các hình ảnh từ WAP gateway, sau đó xử lý hoặc hiển thị chúng lên màn hình. WAE User Agent cũng quản lý việc giao tiếp với người dùng, chẳng hạn như nhập liệu văn bản, thông báo lỗi hay các thông điệp cảnh báo khác.  WTA User Agent (Wireless Telephony Application User Agent) nhận các tập tin WTA được biên dịch từ WTA server và thực thi chúng. WTA User Agent bao gồm việc truy cập vào giao diện điện thoại và các chức năng mạng như quay số, trả lời cuộc gọi, tổ chức phonebook, quản lý thông điệp và các dịch vụ định vị 1.1.3.2 Tầng phiên Wireless Session Protocol cho phép các dịch vụ trao đổi dữ liệu với các ứng dụng theo một cách có tổ chức. Nó bao gồm hai giao thức khác nhau  Dịch vụ phiên hướng kết nối (Connection oriented session services)  Dịch vụ phiên phi kết nối (Connectionless session services) Các dịch vụ phiên (session service) là những chức năng giúp cho việc thiết lập kết nối giữa một client và một server. Dịch vụ này được phân phối thông qua việc dùng các ‘primitives’ mà nó cung cấp. Primitives là các thông điệp được định nghĩa mà một client dùng để gởi cho server yêu cầu dịch vụ. Chẳng hạn như trong WSP, một trong những primitives là SConnect, với nó chúng ta có thể yêu cầu việc tạo lập một nối kết với server. Dịch vụ phiên hướng kết nối (Connection-oriented session service) cung cấp khả năng quản lý một phiên làm việc và vận chuyển dữ liệu tin cậy giữa client và server. Phiên làm việc tạo ra có thể được hoãn lại và phục hồi sau đó nếu như việc truyền tải dữ liệu không thể thực hiện được. Trong kỹ thuật push, dữ liệu không mong muốn có thể được gởi đi từ server đến client theo hai cách: được xác nhận hoặc là không được xác nhận  Trường hợp được xác nhận (confirmed push), client sẽ thông báo cho server khi nhận được dữ liệu.  Trường hợp không được xác nhận (unconfirmed push) server không được thông báo khi dữ liệu push được nhận Phần lớn các chức năng được cung cấp bởi dịch vụ phiên hướng kết nối (connection-oriented session service) đều được xác nhận: client gởi các thông điệp yêu cầu (Request primitive) và nhận lại thông điệp xác nhận (Confirm primitive), server gởi các thông điệp phản hồi (Response primintive) và nhận lại các thông điệp chỉ dẫn (Indication primitive). Nhóm 12 Trang 5 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Dịch vụ phiên phi kết nối (Connectionless session service) chỉ cung cấp các dịch vụ không được xác nhận (non-confirmed services). Trong trường hợp này các client có thể chỉ sử dụng thông điệp yêu cầu (Request primitive) và các server cũng chỉ có thể dùng thông điệp chỉ dẫn (Indication primitive) 1.1.3.3 Tầng tác vụ (Wireless Transaction Protocol-WTP) Wireless Transaction Protocol cung cấp các dịch vụ nhằm thực hiện các giao tác tin cậy và không tin cậy, nó làm việc trên tầng WDP hay tầng an ninh WTLS. Cũng như tất cả các tầng khác trong WAP, WTP được tối ưu cho phù hợp với băng thông nhỏ của giao tiếp trên sóng vô tuyến, cố gắng giảm số lượng các giao tác thực hiện lại giữa client và server Cụ thể, có ba lớp khác nhau của các dịch vụ giao tác cung cấp cho các tầng bên trên là:  Cácyêucầukhông tin cậy - Unreliable requests  Các yêu cầu có thể tin cậy - Reliable requests  Các yêu cầu tin cậy với một thông điệp kết quả  . Yêu cầu không tin cậy - Unreliable request Trình khởi đầu (Initiator) (trong trường hợp này là một server chứa nội dung content server) gởi yêu cầu đến trình đáp ứng (Responder) (tác nhân người dùng), và không có một thông điệp xác nhận nào được gởi trả về. Giao tác này không có trạng thái và kết thúc ngay thông điệp yêu cầu được gởi đi: Hình 4-Yêu cầu không tin cậy  Yêu cầu có thể tin cậy - Reliable request Trình khởi đầu gởi một yêu cầu đến cho trình đáp ứng, trình này sẽ trả lời lại khi nhận được yêu cầu. Trình đáp ứng lưu trữ thông tin trạng thái của giao tác trong một thời gian để nó các thể gởi lại thông điệp xác nhận (acknowledgement message) nếu như server có yêu cầu lại lần nữa. Giao tác kết thúc tại trình khởi đầu khi trình này nhận được thông điệp xác nhận: Nhóm 12 Trang 6 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Hình 5-Yêu cầu có thể tin cậy  Yêu cầu tin cậy với một thông điệp kết quả Trình khởi đầu gởi yêu cầu đến cho trình đáp ứng, khi nhận được yêu cầu trình này sẽ gởi trả lại một thông điệp kết quả. Trình khởi đầu nhận thông điệp này, duy trì thông tin trạng thái của giao tác trong một thời gian sau khi xác nhận được gởi đi, phòng trường hợp thông báo gởi đi không đến được đích. Giao tác kết thúc tại trình đáp ứng khi nó nhận được thông điệp xác nhận. Hình 6-Yêu cầu tin cậy với một thông điệp kết quả 1.1.3.4 Tầng an ninh (Wireless Transprot Layer Security - WTLS ) WTLS được cung cấp bởi WAP Forum, đây là một giải pháp cho vấn đề bảo mật trên WAP. WTLS là một tầng tùy chọn hoạt động trên tầng vận chuyển (WDP), và được xây dựng dựa trên hai giao thức Internet đó là bảo mật lớp truyền tải TLS (Transport Layer Security) và lớp socket an toàn SSL (Socket Security Layer) WTLS cũng có cùng các đặc điểm cơ bản như tất cả các tầng trước đây trong ngăn xếp WAP: nó là điều chỉnh của một giao thức Internet cho phù hợp với điều kiện độ trễ cao, băng thông thấp, cùng với bộ nhớ và khả năng xử lý giới hạn của các thiết bị WAP. WTLS cũng cố gắng giảm bớt chi phí liên quan đến việc thiết lập một kết nối an toàn giữa hai ứng dụng. Các dịch vụ mà nó cung cấp là:  Tính bảo mật (Privacy) bảo đảm dữ liệu gởi đi giữa server và client không thể được truy cập từ bất kỳ người nào khác. Không ai có thể giải mã thông điệp cho dù họ có thể nhìn thấy các thông điệp này ở dạng đã được mã hóa  Định danh server đảm bảo một server thật sự.  Định danh client giúp server gốc giới hạn khả năng truy cập đến Nhóm 12 Trang 7 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ những nội dung mà nó cung cấp. Xác định chỉ một số client nào đó mới có thể truy cập vào những trang nào đó cho phép mà thôi.  Bảo toàn dữ liệu sẽ đảm bảo nội dung dữ liệu trên đường truyền giữa server và client sẽ không bị chỉnh sửa mà không được thông báo. WTLS là một tầng tùy chọn trong ngăn xếp WAP. Điều này có nghĩa là cơ chế bảo mật trong WAP chỉ có giá trị khi được yêu cầu và không được xây dựng như là một chức năng trong kiến trúc WAP. 1.1.3.5 Tầng vận chuyển (Wireless Datagram Protocol - WDP ) WDP là lớp dưới cùng trong ngăn xếp WAP và là một trong những phần tử làm cho WAP trở thành một giao thức cực kỳ di động, có thể thực thi trên nhiều loại mạng di động khác nhau. WDP che chở các tầng bên trên nhờ vào các dịch vụ nền mà mạng cung cấp. Các dịch vụ nền bao gồm: SMS và CDMA. 1.2 Bảo mật với công nghệ WAP 1.2.1 Điều gì sẽ xảy ra nếu những thiết bị về WAP không được bảo mật  Những nguy hiểm đều được kế thừa từ kỹ thuật không dây, trong đó có một số giống như mạng có dây, một số thì trầm trọng hơn do kết nối không dây và một số mới xuất hiện. Có lẽ hầu hết những nguy hiểm quan trọng đều do kỹ thuật này lấy sự giao tiếp trong không khí, một môi trường mở, làm cơ sở.  Những nguy hiểm đặc biệt và những yếu điểm của mạng không dây và thiết bị cầm tay bao gồm: + Tất cả những yếu điểm tồn tại trong mạng thông thường đều có trong mạng không dây + Những người xấu có thể giành được quyền truy cập bất hợp pháp vào một chi nhánh mạng thông qua kỹ thuật kết nối không dây + Kẻ xấu có thể can thiệp vào thông tin cá nhân của người dùng và theo dõi được mọi hoạt động của họ. + Virus hoặc những đoạn code nguy hiểm có thể làm hỏng dữ liệu trên thiết bị không dây và sau đó được đưa vào kết nối mạng có dây. + Kẻ xấu có thể thông qua mạng không dây kết nối đến những tổ chức hoặc những chi nhánh từ đó bắt đầu tấn công mà không để lại dấu vết nào + Những kẻ xâm nhập từ bên ngoài có thể chiếm được quyền điều khiển và quản lý mạng, từ đó họ có thể vô hiệu hóa hoặc phá vỡ mọi hoạt động Nhóm 12 Trang 8 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ 1.2.2 Bảo mật trên WAP WAP thì thực hiện bảo mật phần lớn trong WTLS Trong mô hình này, nối kết được thiết lập thông qua điện thoại di động, nhưng lúc này kết nối được quản lý bởi người điều khiển mạng chứ không phải từ ISP. Khi điện thoại thực hiện cuộc gọi, tín hiệu sẽ được truyền đến cho người quản lý, nó thực hiện việc tìm đường đi thông qua một trong những modem của mình và nối kết với RAS server cũng giống như trong mô hình mạng Internet. RAS server cũng sẽ thực hiện việc định danh, nhưng một khi gói tin đi qua RAS server thì mọi thứ bắt đầu khác đi. Thay vì tìm đường trên Internet đến web server, dữ liệu được định tuyến đến WAP gateway. Tại đây, dữ liệu sẽ được biên dịch thành dạng nhị phân (nếu cần), sau đó được chuyển đi trong không khí. Gateway cũng hoạt động như là một proxy đối với điện thoại, việc giao tiếp với web server được thực hiện thông qua các giao thức HTTP 1.1. Web server không Nhóm 12 Trang 9 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ quan tâm rằng mình đang giao tiếp với một WAP gateway, nó xem gateway đơn giản như là một thiết bị client khác. Web server có thể nằm ngay bên trong mạng, hay cũng có thể thuộc một tổ chức bên ngoài khác. WAP gateway sẽ gởi các gói tin HTTP của mình qua bức tường lửa đến với web server thuộc mạng cần đến. Nếu như WAP gateway hoạt động như là một proxy đối với điện thoại di động và sử dụng các giao thức HTTP 1.1 thông thường thì không có lý do gì TLS không được dùng đến để đảm bảo an toàn cho tất cả các giao tiếp giữa WAP gateway và web server, giống như trên Internet. Nhưng với hai chuẩn WAP đang được áp dụng hiện nay - WAP 1.x và WAP 2.0 - thì các giao thức được dùng cho việc bảo mật khác nhau:  WAP 1.x: do TLS đòi hỏi một truyền tải tin cậy - thường là TCP - còn điện thoại thì lại không sử dụng TCP để giao tiếp với WAP gateway nên TLS không thể dùng để bảo mật các giao tiếp giữa điện thoại di động và WAP gateway. Thay vào đó là sử dụng một giao thức mới có tên là WTLS (có khả năng hoạt động trên WDP và UDP). Giao thức này được phát triển dựa trên TLS và cung cấp cùng một mức bảo mật giống như trong TLS. Như vậy, hệ thống phải sử dụng hai cơ chế bảo mật: một được đặt từ thiết bị đến WAP gateway, một thì từ WAP gateway đến web server. Điều này có nghĩa là phải có một sử chuyển đổi từ WTLS sang TLS tại gateway.  WAP 2.0: do kiến trúc của ngăn xếp WAP 2.0 gần giống với kiến trúc trên web, giao thức được sử dụng trên Tầng vận chuyển là wTCP/IP (Wireless Profile TCP/IP). wTCP/IP được tối ưu hóa từ TCP/IP nhằm vào mục đích phục vụ cho hoạt động trên mội trường di động, giao thức này có thể phối hợp tốt giữa hai môi trường mạng đó là: di động và mạng Internet Do đó, cơ chế bảo mật được dùng trong WAP 2.0 cũng chính là TLS như trên môi trường web. 1.2.3 Các kỹ thuật bảo mật trên WAP 1.2.3.1 Chứng thực người dùng Khi muốn nối kết với ISP thì chúng ta cần phải cung cấp ID và mật khẩu người dùng để ISP thực hiện việc chứng thực. Hầu hết mọi người đều lưu trữ những thông tin này bên trong máy tính của mình, và chúng sẽ đại diện cho người dùng mỗi khi cần đến. Sẽ không có vấn đề gì nếu như mỗi người có một máy tính cho riêng mình, nhưng điều gì xảy ra khi có nhiều người cùng truy cập trên cùng một chiếc máy tính? Khi đó, người sử dụng sau có thể sử dụng thông tin của người sử dụng trước đó để truy cập Internet, gởi nhận email, hay thậm chỉ có thể sử dụng cả những chứng nhận (certificate) của người dùng trước. Trường hợp này đòi hỏi hệ thống cần được quản lý bằng một cơ chế bảo mật Những vấn đề này lại nhỏ đủ có thể được bỏ qua trong môi trường có dây thông thường, trong thế giới không dây thì lại là cả một vấn đề. Có sự khác nhau rõ ràng giữa việc chứng thực thiết bị sử dụng và chứng thực người dùng, sự khác nhau này quan trọng hơn trong trường hợp có nhiều ứng dụng. Mặc dù vấn đề này tồn tại trên môi trường thương mại điện tử cũng như trên môi trường di động, nhưng trong môi trường di động nó lại cao hơn, đơn giản chỉ bởi vì các thiết bị này di động. Khi số lượng điện thoại di động cũng như các thiết bị di động khác tăng lên thì tỷ lệ bị mất cắp cũng sẽ tăng theo. Một số tổ chức thậm chí còn không dùng các máy Nhóm 12 Trang 10 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ laptop cho đội ngũ bán hàng của mình, vì các máy laptop rất dễ bị mất cắp và dẫn đến việc mất thông tin quan trọng có trên máy. Bảo mật không chỉ dùng giao thức mà trong nhiều hệ điều hành còn cung cấp nhiều dạng khác, chẳng hạn như bảo mật ở cấp tập tin thông qua việc sử dụng các danh sách điều khiển truy xuất ACL (Access Control Lists). Nhưng nếu ACL được lưu trữ dưới dạng tập tin thì cũng có thể hệ thống khác sẽ đọc được nội dungnày. Về bản chất đây không phải là một vấn đề của WAP, nhưng nó lại là một vấn đề về di động và cần phải được quan tâm đến nếu như các thiết bị di động chứa các thông tin quan trọng. Một cách để tránh được trường hợp này đó là không bao giờ lưu các thông tin quan trọng trên thiết bị di động nếu có thể. Một khả năng khác là thực hiện việc chứng thực người dùng. Sử dụng cách chứng nhận sẽ định danh một cách hiệu quả các thiết bị và thiết lập một kết nối an toàn, và sau đó tất cả dữ liệu được truyền đi dưới dạng được mã hoá, yêu cầu người dùng nhập vào ID và mật khẩu. Chúng ta có thể dùng bất kỳ một kỹ thuật thông thường nào để xác nhận ID và mật khẩu này như: Kerberos, LDAP, hay một sản phẩm chứng thực người dùng nào đó 1.2.3.2 WAP Gateway Vấn đề trên WAP gateway có thể nhận thấy rõ ràng nhất là trên chuẩn WAP 1.x, do chuẩn này đòi hỏi WML và WMLScript phải được chuyển thành dạng nhị phân cho phù hợp với đặc điểm vận chuyển trên môi trường di động - có nhiều thách thức về băng thông và tài nguyên của thiết bị. WAP gateway chịu trách nhiệm thực hiện công việc này. WAP Gateway: đây là một thành phần trung gian thường được dùng để nối kết hai loại mạng khác nhau. Nó nhận yêu cầu trực tiếp từ các client như thể nó chính là một server gốc mà client muốn truy xuất thông tin. Các client này thông thường không nhận ra rằng mình đang giao tiếp với gateway. Trong kiến trúc WAP, một WAP gateway thật ra là một ’ proxy.’ Proxy: là một phần tử trung gian, hoạt động cả như client lẫn server trên mạng. Nó nằm giữa các client và các server gốc (origin server); các client gởi yêu cầu đến cho proxy, nó sẽ truy xuất và lưu trữ thông tin cần thiết bằng cách giao tiếp với trình duyệt gốc. Nó được dùng để nối một vùng mạng không dây (wireless domain) với mạng Internet. Tuy nhiên, nó có thêm chức năng của gateway chuyển đổi giao thức (protocol gateway) và chức năng mã hoá/giải mã. Chức năng mã hoá/giải mã (CODEC) bên trong gateway được dùng để chuyển đổi nội dung dạng WML và WML Script thành một dạng phù hợp với các mạng có băng thông thấp (thường ở dạng nhị phân) v à mã hoá d ữ liệu khi đưa vào m ôi trường Internet . Quá trình này được mô tả trong hình vẽ d ư ới đây: Nhóm 12 Trang 11 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Hình 8_Chức năng mã hoá/giải mã của WAP gateway Một dịch vụ khác mà chức năng CODEC có thể cung cấp là biên dịch HTML hay văn bản thành WML/XTHML. Tuy nhiên, việc sử dụng gateway như thế này còn rất nhiều giới hạn. Mặc dù HTML và WML/XHTML đều được xây dựng dựa trên các nhưng HTML lại cho phép hiển thị các nội dung động cũng như các dạng dữ liệu đa truyền thông (multimedia) như hình ảnh, âm thanh, đồ họa, hay các cấu trúc phức tạp như các khung, các bảng lồng nhau...do đó với những giới hạn của thiết bị di động (bộ nhớ nhỏ, băng thông thấp, độ trễ cao) thì việc chuyển đổi đơn thuần sẽ gây không ít khó khăn cho việc hiển thị. Tuy nhiên: Một phiên bảo mật được thiết lập giữa điện thoại và WAP gateway, chứ không phải là trực tiếp với web server. Như vậy, dữ liệu chỉ được mã hoá giữa điện thoại và gateway, khi đến gateway chúng được giải mã trước khi lại được mã hóa và gởi đến cho web server qua một kết nối TLS. Tại WAP gateway toàn bộ dữ liệu có thể được thấy một cách tường minh. Điều này cũng có nghĩa là tại gateway dữ liệu có thể sẽ bị mất mát. 1.2.3.3 TLS và WTLS Giống nhau:  Cùng khái niệm phân biệt một phiên (session) và một kết nối (connection). Kết nối được đánh giá là ngắn hơn so với phiên  Trong trường hợp mạng không dây, thời gian sống của một kết nối có thể tuỳ thuộc vào chất lượng thông tin nơi mà người dùng sử dụng (vị trí địa lý, khí hậu…)  Các phiên bền hơn là các kết nối và có thể tồn tại qua nhiều kết nối và được xác định bằng một số ID của phiên (session ID)  Các tham số bảo mật cho mỗi phiên được sử dụng để bảo mật một kết nối, có nghĩa là khi một kết nối bị phá vỡ, phiên có thể vẫn tồn tại và có thể được phục hồi sau đó.  Phiên có thể được phục hồi, có nghĩa là một phiên đang được thiết lập có thể sử dụng cùng một tập tham số bảo mật với phiên trước đó. Phiên đó có thể là từ một kết nối hiện đang hoạt động, một kết nối khác cũng đang hoạt động hay là một kết nối đã hoạt động rồi. Việc phục hồi các phiên có thể được sử dụng để tạo nên các kết nối đồng thời cùng chia sẽ một tập tham số chung. Điều đó còn tuỳ thuộc vào server, vì server có quyền quyết định xem có cho phép phiên được phục hồi hay không Nhóm 12 Trang 12 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Khác nhau TLS(Bảo mật lớp truyền WTLS (Tầng an ninh) tải) Thực chất là một giao thức thêm vào tầng an ninh dùng để can thiệp giữa tầng ứng dụng và tầng vận chuyển ‘thực sự’ nhằm vào mục đích bảo mật. Đòi hỏi giao thức vận chuyển tin cậy (TCP). Không dùng trường số (sequence number field). tuần Cho phép phân đoạn, lắp ghép dữ liệu dưới dạng các gói tin nhận được từ các tầng trên. tự Thuộc tầng an ninh , nhưng bên trên nó là WTP và WSP và Tầng Phiên. Cách sắp xếp này cho phép chúng có thể độc lập với các dịch vụ được ứng dụng yêu cầu Không đòi hỏi giao thức vận chuyển tin cậy (UDP, WDP). Dùng trường số tuần tự: cho phép WTLS làm việc với các vận chuyển không tin cậy Không hỗ trợ phân đoạn, lắp ghép dữ liệu dưới dạng các gói tin. WTLS cho phép chứng thực cả client và server gồm ba lớp thực hiện cùng với các đánh dấu chức năng là: bắt buộc, tuỳ chọn hay loại trừ. Lớp 1 chỉ yêu cầu hỗ trợ trao đổi khoá chung (public key exchange), mã hoá và MACs (kiểm soát truy cập môi trường truyền thông), các chứng nhận bên phía client và server và một tuỳ chọn bắt tay bí mật có chia sẽ (Một bắt tay bí mật có chia sẽ là trường hợp mà cả client và server đều đã biết được bí mật và chúng không cần trao đổi với nhau nữa). Các thuật toán nén và giao tiếp thẻ thông minh không được dùng trong quá trình thực hiện của Lớp 1. Các thực thi trên Lớp 1 có thể vẫn chọn hỗ trợ cho việc chứng thực cả hai phía client và server thông qua các chứng nhận, nhưng nó không cần thiết Lớp 2 hỗ trợ chứng nhận phía server là cố định. Lớp 3, hỗ trợ cho cả client và server là cố định. Hỗ trợ việc nén và giao tiếp thẻ thông minh là một tuỳ chọn ở Lớp 2 và 3. Nhóm 12 Trang 13 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Quá trình thực hiện bảo mật trong WTLS : Client bắt đầu tiến trình thiết lập một phiên bảo mật bằng cách gởi thông điệp đến cho server yêu cầu đàm phán thiết lập phiên bảo mật. Server cũng có thể gởi thông điệp yêu cầu phía client bắt đầu một phiên đàm phán, thế nhưng nó còn tuỳ thuộc vào phía client có đồng ý hay không. Tại bất kỳ thời điểm nào trong phiên làm việc, phía client cũng có thể gởi thông điệp này để yêu cầu đàm phán lại các thiết lập này. Đàm phán lại các thiết lập mục đích giúp giới hạn lượng dữ liệu có thể thấy được khi kẻ nghe trộm tấn công bằng cách tạo ra một khoá an toàn mới. Khi client yêu cầu đàm phán một phiên bảo mật, nó cung cấp một danh sách các dịch vụ bảo mật mà nó có thể hỗ trợ. Phía client cũng cho biết rằng sau bao lâu thì các tham số bảo mật phải được làm mới lại. Trong phần lớn các trường hợp, phía client có thể yêu cầu các tham số này được làm mới qua mỗi thông điệp. Nếu cơ chế trao đổi khoá chung xác định không phải là kẻ mạo danh thì phía server phải gởi cho client một chứng nhận để xác định chính mình. Chứng nhận được gởi đi phải phù hợp với thuật toán trao đổi khoá đã được đồng ý. Nếu việc trao đổi khóa không là ẩn danh, thì server cũng có thể yêu cầu một chứng nhận từ phía client. Nếu client không có chứng nhận, nó có thể gởi một thông điệp mà không chứa chứng nhận nào. Tuỳ thuộc vào server quyết định xem có muốn tiếp tục không với một chứng nhận có giá trị từ phía client. Bằng cách gởi thông điệp này, client chứng minh nó có một khoá riêng tương ứng khóa chung chứa trong chứng nhận mà nó gởi cho server. Client gởi thông điệp chứa tất cả các thông điệp bắt tay được trao đổi trước đó giữa client và server, và được đánh dấu bằng khoá riêng của nó. Việc này cho phép server thực hiện một tính toán tương tự ở phía của nó và kiểm tra tập phân loại thông điệp mà nó nhận được như là một phần của chữ ký so với cái mà nó tạo ra. Nếu chúng phù hợp, server biết client đó là thật. Nhóm 12 Trang 14 Mạng & Truyền Thông PHẦN 2: GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ BẢO MẬT VỚI CÔNG NGHỆ BLUETOOTH 2.1 GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ BLUETOOTH 2.1.1 Khái niệm Bluetooth: Bluetooth là công nghệ không dây cho phép các thiết bị điện, điện tử giao tiếp với nhau trong khoảng cách ngắn, bằng sóng vô tuyến qua băng tần chung ISM (Industrial, Scientific, Medical) trong dãy tầng 2.40- 2.48 GHz. Đây là dãy băng tầng không cần đăng ký được dành riêng để dùng cho các thiết bị không dây trong công nghiệp, khoa học, y tế. - Bluetooth được thiết kế nhằm mục đích thay thế dây cable giữa máy tính và các thiết bị truyền thông cá nhân, kết nối vô tuyến giữa các thiết bị điện tử lại với nhau một cách thuận lợi với giá thành rẻ. - Khi được kích hoạt, Bluetooth có thể tự động định vị những thiết bị khác có chung công nghệ trong vùng xung quanh và bắt đầu kết nối với chúng. Nó được định hướng sử dụng cho việc truyền dữ liệu lẫn tiếng nói. 2.1.2 Các đặc điểm của Bluetooth.  Tiêu thụ năng lượng thấp, cho phép ứng dụng được trong nhiều loại thiết bị, bao gồm cả các thiết bị cầm tay và điện thoại di động  Giá thành hạ (Giá một chip Bluetooth đang giảm dần, và có thể xuống dưới mức 5 $ một đơn vị).  Khoảng cách giao tiếp cho phép : • Khoảng cách giữa hai thiết bị đầu cuối có thể lên đến 10m ngoài trời, và 5m trong tòa nhà. • Khoảng cách thiết bị đầu cuối và Access point có thể lên tới 100m ngoài trời và 30m trong tòa nhà.  Bluetooth sử dụng băng tần không đăng ký 2.4Ghz trên dãy băng tần ISM. Tốc độ truyền dữ liệu có thể đạt tới mức tối đa 1Mbps (do sử dụng tần số cao) mà các thiết bị không cần phải thấy trực tiếp nhau (light-of-sight requirements)  Dễ dàng trong việc phát triển ứng dụng: Bluetooth kết nối một ứng dụng này với một ứng dụng khác thông qua các chuẩn “Bluetooth profiles”, do đó có thể độc lập về phần cứng cũng như hệ điều hành sử dụng.  Bluetooth được dùng trong giao tiếp dữ liệu tiếng nói: có 3 kênh để truyền tiếng nói, và 7 kênh để truyền dữ liệu trong một mạng cá nhân.  An toàn và bảo mật: được tích hợp với sự xác nhận và mã hóa ( build in Nhóm 12 Trang 15 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ authentication and encryption)  Tính tương thích cao, được nhiều nhà sản xuất phần cứng cũng như phần mềm hỗ trợ. 2.2 VẤN ĐỀ AN TOÀN VÀ BẢO MẬT TRONG BLUETOOTH 2.2.1 MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC TẤN CÔNG VÀO BLUETOOTH 2.2.1.1. Impersonation attack by inserting/replacing data Khi không thực hiện mã hóa thì tấn công kiểu này rất dễ đạt được bằng cách sửa CRC check data sau khi đã thay đổi dữ liệu. Nếu trong hệ thống có mã hóa thì rất khó do hacker phải tìm hiểu cấu trúc của gói dữ liệu để việc thay đổi có hiệu quả như mong muốn. 2.2.1.2. Bluejacking Là kiểu gửi tin nhắn nặc danh ở những nơi công cộng bằng cách lợi dụng tiến trình pairing của kỹ thuật Bluetooth. Kẻ quấy rối gửi tin nhắn vào lúc khởi động giai đoạn “bắt tay” vì phần “name”- hiện tên thiết bị muốn kết nối- có thể dài đến 248 ký tự. Thực ra mục đích của các nhà sản xuất là muốn thể hiện thông tin của thiết bị kết nối rõ ràng hơn để người dùng thấy nhằm yên tâm thực hiện trao đổi, cập nhật và đồng bộ dữ liệu. Nhưng đặc điểm này đã bị kẻ xấu lợi dụng để gửi những tin nhắn nặc danh cho các thiết bị Bluetooth đang hoạt động trong vùng xung quanh (10m). Ảnh hưởng:  Làm người chủ thiết bị khó chịu, hoang mang lo lắng.  Không hề ảnh hưởng đến vấn đề an toàn, Nó không dời hoặc thay đổi bất kỳ dữ liệu nào trên thiết bị.  Khả năng mở rộng của ý tưởng này là gửi vCard’ với một tên thông thường như “Home” hoặc “Work” nhằm cố gắng viết đè lên thông tin đã có sẵn trong máy người nhận. 2.2.1.3. Bluetooth Wardriving Bản đồ tự nhiên về mọi vị trí của người sử dụng đang mở thiết bị Bluetooth. Mỗi thiết bị Bluetooth có một địa chỉ 48 bit tự do duy nhất dành cho broadcast và nó đã để lại dấu vết của người sử dụng. Để tránh bị theo dõi, thiết bị Bluetooth đã dùng một chế độ nặc danh (anonymity mode). Ở chế độ này hệ điều hành thiết bị thường xuyên cập nhật địa chỉ thiết bị của họ bằng cách chọn một số ngẫu nhiên. Các kiểu tấn công theo dấu vết gồm:  SubsubsectionInquiry attack: tấn công vào một hay nhiều thiết bị Bluetooth trong vùng phủ sóng. Chỉ xảy ra khi người sử dụng để thiết bị ở chế độ “nhìn thấy được” (discoverable mode). Thiết bị tấn công có thể vẽ được bản đồ các thiết bị Bluetooth xung quanh bằng cách thường xuyên gửi các thông điệp yêu cầu (inquiry messages) và thường xuyên nắm giữ danh sách tất cả thiết bị đã bị phát hiện.  SubsubsectionTraffic monitoring attack: tấn công ngay cả khi thiết bị nạn nhân ở không ở chế độ “nhìn thấy được”. Kẻ tấn công thường là giám sát các cuộc truyền thông giữa hai thiết bị “trusted” đối với nạn nhân. Những thiết bị này khi giao tiếp sẽ sử dụng một CAC đặc trưng. CAC này được tính ra từ địa chỉ của Nhóm 12 Trang 16 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ thiết bị master trong piconet. Hơn nữa toàn bộ địa chỉ của thiết bị được gửi đi trong gói FHS, cho phép một attacker xác định được “nhân dạng” của một thiết bị. Nhưng FHS chỉ được sử dụng khi thiết lập kết nối.  SubsubsectionPagin attack: tấn công kiểu này cho phép attacker xác định rõ khi nào một thiết bị với BD_ADDR hoặc DAC đã nhận biết đang hiện diện trong vùng phủ sóng nhưng chỉ thực hiện được khi thiết bị đang kết nối. Thiết bị tấn công page với thiết bị đích, đợi nhận gói tin ID nhưng sau đó không phản hồi lại. Nếu nhận được ID thì attacker biết được là thiết bị đó đang hiện diện. Còn thiết bị đích chỉ đợi tin phản hồi trong một thời gian “time out” nhất định và việc xảy ra sẽ không báo cáo lên tầng ứng dụng.  SubsubsectionFrequency hopping attack: hệ thống nhảy tần số trong Bluetooth được thực hiện bằng cách lặp lại tuần tự các bước nhảy. Lược đồ bước nhảy được tính toán từ những thông số khác nhau được nhập vào như địa chỉ và đồng hồ của master. Trong trạng thái kết nối thì LAP và tối thiểu 4 bit của UAP của thiết bị master sẽ được sử dụng. Trong trạng thái page thì LAP/UAP của thiết bị paged được sử dụng. Do đó về mặt lý thuyết có thể lấy thông tin của LAP và 4 bit trong UAP dựa vào lược đồ bước nhảy của đối tượng  SubsubsectionUser-friendlyname attack: một thiết bị Bluetooth có thể đề nghị một cái tên thân thiện (user-friendly name) bất cứ lúc nào sau khi đã thực hiện thành công tiến trình paging. Và lệnh yêu cầu này có thể sử dụng để theo dõi dấu vết. 2.2.1.4. Nokia 6310i Bluetooth OBEX Message DoS Nokia 6310i có một khe hở cho phép từ chối dịch vụ từ xa. Điều này đã được phát hiện khi một thông điệp Bluetooth OBEX không hợp lệ do attacker gửi tới làm mất tính sẵng sàng của điện thoại. Ảnh hưởng: Nhỏ vì khi ấy điện thoại bị shutdown mà không mất dữ liệu. 2.2.1.5. Brute-Force attack Tấn công Brute-force trên địa chỉ BD_ADDR (MAC address) của thiết bị khi không ở chế độ “có thể nhìn thấy”. Một số nhà sản xuất đã khẳng định rằng việc này phải mất một thời gian lâu (khoảng 11 giờ). Tuy nhiên phiên bản đa tiểu trình của @stake’s RedFang có thể dùng cùng một lúc 8 thiết bị USB Bluetooth để giảm thời gian từ 11 giờ xuống 90 phút. Ảnh hưởng: • Có thể mất nhiểu thời gian để phát hiện một BD_ADDR chính xác. • Một khi BD_ADDR đã bị phát hiện thì một cuộc tấn công dạng Bluesnarf có thể được thiết lập trong khi người chủ thiết bị vẫn nghĩ họ vẫn an toàn bởi vì thiết bị đã đặt ở chế độ hidden. 2.2.1.6. Denial-of-Service attack on the device Tấn công DoS (Denial of Service) là phương pháp tấn công phổ biến vào các trang web trên Internet và mạng, và bây giờ là một tùy chọn tấn công vào thiết bị đang mở Bluetooth. Phương pháp này rất đơn giản, chỉ là kẻ tấn công dùng máy tính có mở Bluetooth kết hợp với một phần mềm đặc biệt yêu cầu thiết bị của nạn nhân phải liên tục trả lời những yêu cầu làm cho pin hao nhanh chóng, đồng thờido phải duy trì yêu cầu kết nối bất hợp pháp nên thiết bị tạm thờibị vô hiệu hóa. Nhóm 12 Trang 17 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Tấn công DoS thực hiện trên bất kỳ thiết bị Bluetooth trong tình trạng “có thể tìm ra” (discoverable) nhưng đối với “hacker cao cấp” thì có thể phát hiện được thiết bị Bluetooth “không thể tìm ra” (non-discoverable). Vì thế, nhóm Bluetooth SIG đang cố gắng tạo ra những biện pháp bảo mật hơn để trong tương lai những thiết bị “không thể phát hiện ra” sẽ không bị “nhìn xuyên thấu” như thế. Ảnh hưởng: • DoS chỉ cho phép hacker tạm thờiquấy nhiễu một ai đó chứ không cho phép truy cập vào dữ liệu hoặc dịch vụ, nên không có bất kỳ thông tin nào bị sử dụng hoặc bị đánh cắp. • Ngày nay tấn công DoS vào thiết bị Bluetooth chỉ còn được thực hiện trong phòng thí nghiệm kiểm tra như một thủ tục tối thiểu và bình thường của kỹ thuật không dây Bluetooth. 2.2.1.7. Disclosure of keys Một thiết bị Bluetooth gắn với máy tính có thể trao đổi nhầm với người có mục đích lấy trộm link key. Một USB plug hoặc PCMCIA (Personal Computer Memory Card International Association) có thể bị lấy ra khỏi máy tính của người chủ và đưa vào máy của “đối thủ” và một hay nhiều key bị đọc trộm mà chủ nhân không hề biết. Những phần mềm xấu (Trojan horse) trá hình thành một chương trình bình thường để gửi cơ sở dữ liệu của key về cho những kẻ xấu muốn truy cập. Nếu đoạn mã nguy hiểm này được kèm trong một con virus hay worm thì cuộc tấn công này sẽ nhanh chóng lan rộng ra trên số lớn thiết bị. Một khi link key của máy tính và điện thoại (và BD_ADDR của máy tính) bị lộ thì kẻ thù có thể kết nối bí mật vào điện thoại di động với vai trò của máy tính và sử dụng bất kỳ dịch vụ nào trên điện thoại đó thông qua Bluetooth. 2.2.1.8. Unit key attacks Một thiết bị dùng unit key thì chỉ sử dụng duy nhất một key cho tất cả các liên kết an toàn của nó. Do đó nó chia sẻ key này cho tất cả những thiết bị khác mà nó tin tưởng. Vì thế một thiết bị “trusted” (đã có unit key) có thể nghe trộm những thông điệp xác nhận ban đầu giữa hai thiết bị hoặc bất kỳ cuộc trao đổi nào giữa các thiết bị này. Nó còn có thể giả dạng để phân phát unit key. Rủi ro tiềm tàng với unit key đã được Bluetooth SIG phát hiện ra. Lúc đầu unit key được sử dụng để giảm nhu cầu bộ nhớ ở những thiết bị hạn chế và còn được giữ lại vì lý do tương thích của chuẩn. 2.2.1.9. Backdoor attack Backdoor attack bao gồm thiết lập một mối quan hệ tin tưởng thông qua cơ chế pairing, nhưng phải bảo đảm rằng nó không xuất hiện nữa trên danh sách các thiết bị đã paired của thiết bị đích. Bằng cách này trừ khi người sử dụng thật sự chú ý đến thiết bị của họ đúng lúc thiết lập kết nối, nếu không họ sẽ không chắc được thông báo chuyện xảy ra và kẻ tấn công tiếp tục sử dụng bất cứ tài nguyên nào mà một thiết bị trusted được phép truy cập bao gồm dữ liệu, dịch vụ Internet, WAP và GPRS mà chủ nhân không hề hay biết. Khi Backdoor đã được thực hiện thì tấn công theo Bluesnarf sẽ hoạt động được trên thiết bị mà trước đây đã từ chối truy cập, và không hề bị những hạn chế của Bluesnarf ảnh hưởng. 2.2.1.10. Pairing attack Nhóm 12 Trang 18 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ Đặc điểm kỹ thuật của Bluetooth 1.1 dễ bị ảnh hưởng từ các cuộc tấn công trong quá trình pairing. Pairing attack chỉ thực hiện được khi attacker có mặt ngay thời điểm pairing, vốn chỉ xảy ra một lần giữa một cặp thiết bị. Nếu quá trình pairing được thực hiện ngay nơi công cộng như lúc kết nối với access point, máy in… thì nguy cơ cao hơn. 2.2.1.11. BlueStumbling = BlueSnarfing Bluesnarfing cho phép kết nối vào thiết bị mà không hề cảnh báo cho chủ thiết bị và giành quyền truy cập vào những vùng hạn chế của dữ liệu như phonebook (và bất kỳ image cũng như dữ liệu liên kết với nó), calendar, realtime clock, business card, properties, change log, IMEI (International Mobile Equipment Identity, “nhân dạng” duy nhất của điện thoại trong mạng mobile, và sẽ bị sử dụng ở điện thoại “nhái”). Tấn công thường chỉ thực hiện khi thiết bị đang ở chế độ “nhìn thấy được” (“discoverable” hoặc “visible”). Bluesnarfing có lẽ khai thác một khe hở do quá trình mặc định password của pairing (thường chỉ 4 ký tự), nó bị đoán ra đồng thờithiết bị Bluetooth được bật lên và chế độ nhìn thấy là “all”. Không cần những thiết bị đặc biệt, hacker có thể tấn công thiết bị trong khoảng cách 10 m với một phần mềm đặc biệt (tuy nhiên với “Khẩu súng trường” BlueSniper, do John Hering và các đồng sự chế tạo có gắn ống ngắm và ăngten, nối với laptop Bluetooth hoặc PDA đặt trong ba lô có khả năng thu nhận dữ liệu từ ĐTDĐ cách nó 1,8 km). Nhưng chỉ những thiết bị Bluetooth đời cũ khi bật Bluetooth mới dễ nhạy cảm với bluesnarfing. Cũng có thể gọi tấn công kiểu này là OBEX Pull Attack: OBEX cho phép bạn trong một số trường hợp có thể nặc danh để kéo (PULL) những mục chọn giữa hai thiết bị. Ảnh hưởng: • Một số thiết bị cầm tay của Nokia, Ericsson & Sony Ericsson và nhiều điện thoại thông dụng đều nhạy cảm với kiểu tấn công này. • Phụ thuộc rất nhiều vào việc thực thi của OBEX/Bluetooth stack. • Thông tin bị lấy có thể quan trọng như calendar, real time clock, business card, properties, • Change log, IMEI. • Có nhiều thiết bị có yếu điểm này. 2.2.1.12. BlueBug attack BlueBug attack tạo một kết nối serial profile đến thiết bị, bằng cách đó có thể lấy được toàn bộ quyền truy cập vào tập lệnh AT (AT command set), sau đó có thể khai thác để sử dụng shelf tool như PPP cho mạng và gnokii cho message, quản lý contact, nghe lén những cuộc trò chuyện điện thoại, làm lệch hướng hoặc thực hiện cuộc gọi tới những số trả tiền cước cao, gửi và đọc sms message, kết nối Internet…thực hiện voice call thông qua mạng GSM đến mọi nơi trên thế giới. Thiết lập việc chuyển hướng cuộc gọi làm những cuộc gọi đến người chủ bị chặn đứng, cung cấp những kênh gọi có đích đến đắt tiền… Như mọi cuộc tấn công khác, hacker phải đứng trong phạm vi 10 m gần điện thoại. 2.2.1.13. PSM Scanning Không phải tất cả cổng PSM (Protocol/Service Multiplexer ports) đều được đăng Nhóm 12 Trang 19 Mạng & Truyền Thông GVHD: Nguyễn Thành Thuỷ ký với SDP địa phương (Service Discovery Protocol). Vì thế nếu chúng ta bỏ qua cơ sở dữ liệu của SDP và cố gắng liên tục kết nối với PSM chúng ta có thể định vị được một cổng “ẩn”. Ảnh hưởng: Ý tưởng này thường tạo nên Backdoor attack. 2.2.1.14. On-line PIN cracking • Tấn công chỉ thực hiện được khi tìm ra số PIN đã dùng trước đó của thiết bị (cùng một số PIN cho mỗi lần kết nối). • Mỗi lần cần phải thay đổi địa chỉ Bluetooth và số PIN khác nhau. • Những đặc điểm kỹ thuật không cung cấp giải pháp cho yếu điểm này. 2.2.1.15. A man-in-the-middle attack using Bluetooth in a WLAN interworking environment Một man-in-the-middle attack có thể thực hiện được trên liên kết Bluetooth trong môi trường mạng WLAN environment. Attacker sẽ nhử nạn nhân kết nối vào một access point WLAN “nguy hiểm”. Chúng không cần biết Bluetooth link key và có thể lặp lại cách tấn công này nhiều lần với cùng một nạn nhân trên bất kỳ mạng WLAN nào. 2.2.1.16. Off-line encryption key (via Kc) Mở rộng từ Kinit recovery attack. 2.2.1.17. Attack on the Bluetooth Key Stream Generator Phá vỡ tính an toàn của sự mã hóa, tấn công vào Linear Feedback Shift Register Work (sự cố gắng của khoảng 2ˆ67,58 phép tính). 2.2.1.18. Replay attacks Hacker có thể ghi lại việc truyền thông trên cả 79 kênh của Bluetooth và sau đó tính toán ra trình tự bước nhảy và thực hiện lại cả cuộc truyền tin đó. 2.2.1.19. Man-in-the-middle attack Can thiệp vào truyền thông trong quá trình pairing. 2.2.1.20. Denial-of-Service attack on the Bluetooth network Không khả thi lắm vì phải làm tắc nghẽn cả dãy tầng ISM Ngoài ra còn một số cách tấn công khác : • Off-line PIN (via Kinit) recovery • Reflection Attack • Impersonate original sending/receiving unit Kết luận : Sự gia tăng nhanh chóng của các thiết bị Bluetooth làm cho việc truyền thông không dây trở nên dễ dàng hơn và các nhóm Bluetooth muốn bạn tin rằng kỹ thuật này an toàn trước hacker. Tuy nhiên với “khẩu súng trường” BlueSniper, những thành viên của Flexilis (nhóm chuyên gia về kỹ thuật không dây ở Los Angeles) có thể quét và tấn công vào các thiết bị trong vòng một dặm (≈1.6 km). Phiên bản đầu tiên của khẩu súng này do John Hering và các đồng sự chế tạo có gắn ống ngắm và ăngten, nối với laptop Bluetooth hoặc PDA đặt trong ba lô đã được trình diễn tại hội nghị về hacker và bảo Nhóm 12 Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan