Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo hiểm nông nghiệp...

Tài liệu Bảo hiểm nông nghiệp

.DOCX
15
107
72

Mô tả:

Đề Tài: Bảo Hiểm Nông Nghiệp I: Những đặc điểm của sản xuất nông nghiệpvà sự cần thiết của bảo hiểm 1: Những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng, cung cấp lương thực và thực phẩm cho con người, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm và hàng hóa. Nông nghiệp là ngành thu hút nhiều lao động xã hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm và đồng thời là một ngành đóng góp không nhỏ vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Những đặc điểm cơ bản của ngành nông nghiệp: - Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên do hoạt động sản xuất thường trải trên một phạm vi rộng lớn và hầu hết được tiến hành ngoài trời. Dù cho với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến và hiện đại, điều đó giúp con người chế ngự được những ảnh hưởng xấu của hiện tượng tự nhiên nhưng mâu thuẫn giữa con người và lực lượng tự nhiên vẫn tồn tại trong sản xuất nông nghiệp. Do đó quá trình sản xuất nông nghiệp hàng năm vẫn chịu sự đe dọa và gây tổn thất lớn đến từ điều kiện tự nhiên. - Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống: cây trồng, vật nuôi. Ngoài chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên chúng còn chịu các tác động của quy luật sinh học: đồng hóa, dị hóa, đột biến,….. - Chu kỳ sản xuất nông nghiệp thường kéo dài: cây lúa khoảng 4 tháng, cà phê khoản 20 tới 30 năm,… thêm vào đó, thời gian lao động và thời gian sản xuất lại không trùng nhau nên việc đánh giá, kiểm soát; phòng ngừa và quản lý rủi ro khó thực hiện. - Mỗi loại cây trồng, vật nuôi hàng năm vẫn đối diện với các rủi ro khác nhau. Thậm trí có nhưng rủi ro, mà hậu quả của chúng có thể gây thiệt hại mang tính chất thảm họa. Từ đó nó ảnh hưởng lớn tới tâm lý người 1 sản xuất, do đó người sản xuất không dám mạng tay vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất vì tài sản thế chấp không có mà rủi ro luân rình rập. - Các rủi ro thường gặp trong nông nghiệp bao gồm rất nhiều loại mang tính tích lũy rủi ro, hậu quả của chúng mang tính thảm họa diễn ra trên phạm vi rộng. Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn tới việc triển khai bảo hiểm. - Ngoài các rủi ro kể trên nông nghiệp còn chịu nhiều rủi ro khác như: sương muối, gió bấc, trộm cắp,..v..v.. Với những rủi ro và đặc điểm nêu trên, nền nông nghiệp cần các biện pháp để có thể giảm những tổn thất do thiên tai gây ra và biện pháp hiệu quả nhất đó chính là “bảo hiểm nông nghiệp”. 2: bảo hiểm nông nghiệp ở nước ta. Được triển khai từ năm 1992, nhưng hiện các doanh nghiệp bán loại bảo hiểm này như Bảo Việt và Groupama gần như đã "bó tay". Trong khi đó, nhu cầu về nó lại vô cùng lớn. Bảo Việt đã triển khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp từ năm 1982 tại hai huyện của Nam Định là Nam Ninh và Vụ Bản. Sau 2 năm triển khai thí điểm, do có chuyển đổi cơ chế từ kinh tế HTX sang kinh tế hộ nông dân nên bảo hiểm nông nghiệp tạm thời dừng lại. Đến năm 1993, Bảo Việt lại tiếp tục triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa tại 16 tỉnh trên phạm vi cả nước và điển hình là tỉnh Hà Tĩnh - nơi chịu ảnh hưởng của rủi ro thiên tai nhiều nhất. Ngoài bảo hiểm cây lúa, Bảo Việt còn triển khai các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác như bảo hiểm chăn nuôi, bảo hiểm cây công nghiệp, bảo hiểm cháy rừng... Mặc dù rất quyết tâm và coi đây là mặt trận hàng đầu, nhưng Bảo Việt không sao mở rộng được loại hình bảo hiểm này. Những khó khăn, vướng mắc 5 năm triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa cho thấy, bảo hiểm nông nghiệp không phải là nghiệp vụ kinh doanh đơn thuần mà mang tính xã hội rất cao, cần có sự quan tâm của nhiều cấp, ngành và toàn xã hội. Khó có thể 2 thực hiện bảo hiểm nông nghiệp thành công nếu như Nhà nước chưa xây dựng một chính sách về bảo hiểm nông nghiệp Không chỉ riêng ở Việt Nam mà trên thế giới, bảo hiểm nông nghiệp cũng là một nghiệp vụ rất khó khăn. Bảo hiểm nông nghiệp chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường bảo hiểm thế giới. Điều đó chứng minh tính chất khó khăn phức tạp của bảo hiểm nông nghiệp. Chính vì vậy, Chính phủ của nhiều quốc gia đã phải can thiệp vào bảo hiểm nông nghiệp để hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp của họ. Những khó khăn, vướng mắc phát sinh không chỉ riêng đối với doanh nghiệp bảo hiểm mà cả từ phía người dân trong quá trình triển khai. Nếu chỉ bảo hiểm theo hướng kinh doanh đơn thuần thì không có doanh nghiệp bảo hiểm nào mặn mà với bảo hiểm nông nghiệp do đây là loại hình kinh doanh có nguy cơ thua lỗ cao, rủi ro trong sản xuất nông nghiệp là rất lớn và thường xuyên. Nếu có triển khai bảo hiểm nông nghiệp thì cũng chọn đối tượng ít có rủi ro để nhận bảo hiểm hoặc tiến hành một cách cầm chừng. Thêm vào đó, bảo hiểm nông nghiệp chỉ có thể thực hiện thành công khi nó trở thành một chính sách của Nhà nước có sự tham gia của các ngành, các cấp và của toàn xã hội. Chính sách bảo hiểm đó cũng cần phải được gắn kết với các chính sách tài chính khác trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn như chính sách tín dụng, đầu tư, khuyến nông... Mặt khác, đối tượng bảo hiểm nông nghiệp rất phong phú và trên diện rộng cho nên rất khó trong công tác quản lý rủi ro, dễ phát sinh các rủi ro về đạo đức. Sự thiếu kinh nghiệm và đội ngũ thực hiện bảo hiểm nông nghiệp cũng là một khó khăn khiến loại hình dịch vụ này chưa phát triển. Trong khi đó, người dân chưa có thói quen và chưa hiểu biết nhiều về bảo hiểm nông nghiệp, công việc tuyên truyền giải thích của doanh nghiệp bảo hiểm chưa đủ để người dân nhận thức ra và tham gia bảo hiểm. Cũng do khả năng tài chính của người nông dân còn hạn hẹp, quy mô sản xuất còn mang tính tự cấp tự túc, sản xuất mang tính chất hàng hóa chưa 3 cao nên còn nhiều nhà nông còn đắn đo suy nghĩ khi bỏ tiền ra tham gia bảo hiểm. Người dân chưa thực sự tin tưởng vào doanh nghiệp bảo hiểm, chưa được Nhà nước hỗ trợ để tham gia bảo hiểm. Theo nhận định của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, từ kinh nghiệm thực tế trong nước cũng như kinh nghiệm của các nước trên thế giới, bảo hiểm nông nghiệp chỉ có thể thực hiện thành công nó trở thành một chính sách của Nhà nước. Để thực thi một chính sách của Nhà nước, không chỉ có sự tham gia của các doanh nghiệp bảo hiểm mà cần có sự tham gia, quan tâm của các cấp các ngành và của toàn xã hội. Nên gắn các chính sách về bảo hiểm nông nghiệp với chính sách tài chính đối với nông nghiệp, nông thôn để tạo ra được môi trường pháp lý thuận lợi thu hút các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm của một số nước triển khai thành công bảo hiểm nông nghiệp cho th y: bảo hiểm nông nghiệp không chỉ là công việc riêng của doanh nghiệp bảo hiểm hay cá nhân người nông dân mà có sự chung vai gánh vác của toàn xã hội, được cụ thể hóa bằng những chính sách của Nhà nước về bảo hiểm nông nghiệp Ngoài việc hoạch định chính sách về bảo hiểm nông nghiệp, Nhà nước cũng cần phải có sự đầu tư nhất định đối với việc đào tạo đội ngũ cán bộ để thực thi việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp. Thứ hai, đối với một nước có nhiều thiên tai như nước ta, trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nếu như Nhà nước dùng một phần từ nguồn ngân sách Nhà nước để hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm, hỗ trợ doanh nghiệp triển khai bảo hiểm nông nghiệp để hình thành nên quỹ bảo hiểm nông nghiệp thì sẽ hiệu quả hơn nhiều. Thêm vào đó, nếu như các tổ chức ngân hàng, tín dụng nông thôn, các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản, các cơ sở sản xuất có nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp... cũng hỗ trợ cho công tác bảo hiểm nông nghiệp 4 thì bảo hiểm nông nghiệp mới hình thành và phát triển bền vững được, đáp ứng được mong mỏi của người dân. II. Bảo hiểm cây trồng 1. khái niệm và đặc điểm a. Bảo hiểm cây trồng là gì Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi đã được đề cập và thực thi từ lâu. Ở các nước phát triển, vấn đề này luôn được nhà nước chú ý quan tâm, với nhiều chính sách hỗ trợ cho người nông dân trong việc đóng phí bảo hiểm nhằm giảm thiểu những thiệt hại khi gặp rủi ro lớn. Đối với Việt Nam, bảo hiểm nông nghiệp càng trở nên cần thiết, bởi là một nước nông nghiệp, trên 70% số hộ gia đình sống bằng nghề nông, sản xuất luôn bị tiềm ẩn nhiều nguy cơ do thiên tai, dịch bệnh (nước ta được xác định là 1 trong 10 nước gánh chịu nhiều thiên tai nhất thế giới, hằng năm thiên tai và dịch bệnh thường "cướp đi" 13 – 15 nghìn tỉ đồng (tương đương 1,5% GDP). Nếu không có bảo hiểm nông nghiệp, mỗi khi gặp rủi ro, người nông dân sẽ bị mất trắng và họ dễ dàng rơi vào cảnh nghèo đói hoặc tái đói, tái nghèo, từ đó sẽ kéo theo nhiều vấn đề xã hội nan giải khác b. Đặc điểm bảo hiểm Cây trồng rất đa dạng và phong phú về chủng loại. Tùy theo quá trình sinh trưởng mục đích sử dụng và biện pháp canh tác, có thể phân loại cây trồng thành nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên tạo điều kiện cho người tham gia bảo hiểm khi ký kết hợp đồng giúp công tác tính phí bảo hiểm, đánh giá và quản lý rủi ro được thuận lợi, căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng cây dduqoqcj chia ra. - Cây hàng năm: là cây có chu kỳ sinh trưởng và cho sản phẩm trong vòng dưới một năm. Ví dụ như là: lúa, ngô, khoai, sắn, đậu đỗ.v.v… Nhóm cây này có thời gian sinh trưởng ngắn, gieo trồng mang tính thời vụ, mỗi loại cây thích ứng với mỗi thời kỳ nhất định. 5 - Cây lâu năm: là loại cây trồng có chu kỳ sinh trưởng và cho sản phẩm từ một năm trở lên như: cà phê, cao su, hồ tiêu.v.v.. Loại cây này có chu kỳ sinh trưởng kéo dài, có loại 20 đến 30 năm như cà phê, hay 50 đến 80 năm như cao su. - Vườn ươm ( cây giống ): là loại cây trồng có chu kỳ sinh trưởng rất ngắn sản phẩm được coi là chi phí sản xuất cho những quá trình tiếp theo. Loại cây này có giá tri thường là thấp nhưng đòi hỏi kỹ thuật cao và nhạy cảm vời thời tiết khí hậu. 2. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm - Đối tượng bảo hiểm cây trồng có thể là bản than cây trồng trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển hoặc cũng có thể là sản phẩm cuối cùng do cây trồng đem lại tùy theo mục đích trông trọt. Vì thế có thể cia ra: + Đối với cây hàng đối tượng bảo hiểm là năm sản lượng thu hoạch + Đối với cây lâu năm đối tượng bảo hiểm lại là giá trị của các loại cây đó hoặc sản lượng từng năm của mỗi loại cây + Đối với vườn ươm đối tượng bảo hiểm là những cây giống trong suốt thời gian ươm giống đến khi nhổ đi trồng nơi khác - Phạm vi bảo hiểm: trong quá trình sinh trưởng và phát triển cây trồng thường gặp nhiều rủi ro khác nhau. Kinh nghiệm các nước cho thấy rất khó cho các doanh nghiệp bảo hiểm khi bán sản phẩm mọi rủi ro vì xác suất rủi ro trong bảo hiểm nông nghiệp là cao trong khi điều kiện tài chính của người dân là hạn hẹp 3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm Bảo hiểm cây trồng cũng là loại hình bảo hiểm tài sản,vì thế để xác định phi bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm khi co rủi ro xẩy ra gây thiệt hại phải xách định chính xác giá trị bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm có thể đăng ký bảo hiểm lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị thực tế. - Giá trị bảo hiểm vườn ươm cây được xác định bằng cách lấy giá của 1 cây nhan voi số cây trên 1 đơn vị bảo hiểm. Hoặc giá trị của 1 mét vuông cây 6 giống nhan với số mét vuông trên 1 dơn vị bảo hiểm. Giá cả cây giống hoặc 1 met vuông cây giống được xác định được căn cứ vào giá bán bình quaan 1 số năm trước đó. - Giá bảo hiểm đối với cây hàng năm că cứ vào sản lượng thu hoạch thực tế của từng loại cây trong 1 số năm trước đó và giá cả 1 đơn vị sản phẩm trong những năm đó - Giá trị bảo hiêm cây lâu năm là giá trị từng cây từng lô cây hoặc từng đơn vị bảo hiểm. Nhưng cây lâu năm là tài sản cố định giá trị ban đầu của loại tài sản này được xác định tại thời điểm vườn cây đưa vào kinh doanh. 4. Các chế độ bảo hiểm cây trồng Chủ yếu các công ty bảo hiểm thường áp dụng chế độ bảo hiểm sau - chế độ bảo hiểm bồi thường theo tỷ lệ - chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường 5. Phương pháp xác định phí bảo hiểm cây trồng - Công thức: P=f+d - với: P – là phí bảo hiểm cây trồng f – phí thuần d – phụ phí Phần phụ phí (d) được quy định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng mức phí (P). Rủi ro mà nông ghiệp thường gặp đôi khi có hậu quả rất lớn vì thế nó có thể chia ra làm 2 loại: Phí đề phòng và hạn chế tổn thất , phí dự trữ dự phòng phí quản lý. Để xác định được tổng mức phí, cần phải xác định được mức phí thuần (f). Các bước tính: 7 Bước 1: Xác định sản lượng thu hoạch thực tế bình quân trên 1 đơn vị diện n ∑ Qi tích bảo hiểm. W = i=1 n ∑ Si i=1 w – sản lượng thu hoạch thực tế bình quân tính trên một đơn vị bảo Qi – sản lượng thu hoạch thực tế năm thứ i Si – diện tích gieo trồng năm i hiểm i – thứ tự các năm lấy số liệu tinh toán n – các năm lấy số lieu tính toán Bước 2: Xác định sản lượng tổn thất bình quân trên một đơn vị bảo hiểm m ∑ (W −W t ) S t Qt = t =i n ∑ Si i=1 t - năm có tổn thất m – số năm bị tổn thất Qt – sản lượng tổn thất bình quân trên 1 đơn vị diên tích bảo hiểm St – diện tích gieo trồng năm t Wt – sản lượng tu hoạch thực tế năm t tính trên 1 đơn vị diên tích bảo hiểm Bước 3: Xác định tỷ lệ phí bồi thường bình quân ( tỷ lệ phí thuần ) T T= Qt W ×100 Bước 4: Xác định mức phí thuần (f) 8 f = T x Sb Trong đó: Sb là số tiền bảo hiểm bình quân tính trên một đơn vị bảo hiểm. III. BẢO HIỂM VẬT NUÔI (Triển khai theo quyết định 315/QĐ-TTg ngày 01/03/2011 của Thủ tướng Chính phủ) 1. Mục Đích Bảo hiểm Sản phẩm này được thiết kế nhằm hỗ trợ cho Người chăn nuôi gia súc/gia cầm chủ động khắc phục và bù đắp thiệt hại tài chính do hậu quả của thiên tai, dịch bênh gây ra, góp phần đảm bảo ổn định, an sinh xã hội nông thôn, thúc đầy sản xuất/chăn nuôi. 9 2. Người được bảo hiểm Người được bảo hiểm: là hộ nông dân/ tổ chức chăn nuôi thuộc địa bàn triển khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp tại các tỉnh Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Định, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa 3. Đối tượng được bảo hiểm: Trâu, bò sữa, bò thịt, lợn thịt, lợn nái, gà thịt, gà đẻ, vịt thịt, vịt đẻ. 4. Phạm vi bảo hiểm: Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường trong trường hợp vật nuôi bị chết do các nguyên nhân trực tiếp gây ra bởi: - Thiên tai: Bão, lũ, lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, sương giá, xâm nhập mặn, sóng thần, giông, lốc xoáy theo công bố thiên tai của cơ quan chức năng có thẩm quyền. - Dịch bệnh + Đối với trâu, bò: bệnh lở mồm long móng, tụ huyết trùng, nhiệt than + Đối với lợn: bệnh tai xanh, bệnh lở mồm long móng, đóng dấu, phó thương hàn, tụ huyết trùng; dịch tả; + Đối với gà, vịt: Bệnh cúm gia cầm, Niu-cát-xơn (Newcastle), gumboro, dịch tả (vịt) Các loại dịch bệnh trên được công bố dịch bệnh hoặc xác nhận dịch bệnh của cơ qua chức năng có thẩm quyền 5. Thời hạn bảo hiểm: Nông dân sẽ được bồi thường nếu vật nuôi chết trong thời hạn bảo hiểm này với quy định cụ thể: -Trâu, bò: 01 năm; - Lợn thịt: Từ 02 tháng tuổi đến khi xuất chuồng và không vượt quá 06 tháng tuổi. - Lợn nái, đực giống: 01 năm; 10 - Gà thịt, vịt thịt: Từ 02 tuần tuổi đến hêt chu kỳ nuôi tùy theo từng loại. - Gà đẻ, vịt đẻ: từ 2 tuần tuổi đển 60 tuần tuổi 6. Cách tính toán số tiền bồi thường Số tiền bồi thường = SLVNC x STBHTĐC x (1 – TLKT) Trong đó: - SLVNC là số lượng vật nuôi chết thuộc phạm vi bảo hiểm. - STBHTĐC là số tiền bảo hiểm quy ước tại thời điểm vật nuôi bị chết được - tính theo chu kỳ chăn nuôi theo bảng phía TLKT: Tỷ lệ khấu trừ (mức miễn thường) 7. Bảng tỷ lệ số tiền bảo hiểm tại thời điểm chết a. Lợn thịt: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm tại thời điểm chết Chu kỳ chăn nuôi Từ trên 2 tháng tuổi đến 3 tháng tuổi Từ trên 3 tháng tuổi đến 4 tháng tuổi Từ trên 4 tháng tuổi đến 5 tháng tuổi Từ trên 5 tháng tuổi (STBHTĐC=X% x STBH) 30% STBH 50% STBH 80% STBH 100% STBH 11 dưới. b.Gà thịt, vịt thịt: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm tại thời điểm chết Chu kỳ chăn nuôi Dưới 2 tuần tuổi Từ trên 2 tuần tuổi đến dưới 3 tuần tuổi Từ trên 3 tuần tuổi đến dưới 4 tuần tuổi Từ trên 4 tuần tuổi đến dưới 5 tuần tuổi Từ trên 5 tuần tuổi (STBHTĐC=X% x STBH) 0% STBH 40% STBH 50% STBH 70% STBH 100% STBH c.Gà đẻ, vịt đẻ: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm tại thời điểm chết Chu kỳ chăn nuôi Dưới 2 tuần tuổi Từ trên 2 tuần tuổi đến dưới 4 tuần tuổi Từ trên 4 tuần tuổi đến dưới 8 tuần tuổi Từ trên 8 tuần tuổi đến dưới 12 tuần tuổi Từ trên 12 tuần tuổi đến dưới 16 tuần tuổi Từ trên 16 tuần tuổi đến dưới 18 tuần tuổi Từ trên 18 tuần tuổi đến dưới 20 tuần tuổi Từ trên 20 tuần tuổi đến (STBHTĐC=X% x STBH) 0% STBH 30% STBH 40% STBH 50% STBH 60% STBH 70% STBH 85% STBH 100% STBH 12 dưới 30 tuần tuổi Từ trên 30 tuần tuổi đến dưới 40 tuần tuổi Từ trên 40 tuần tuổi 70% STBH 50% STBH Chương trình được hỗ trợ đặc biệt từ Chính phủ: - Hộ nghèo được hỗ trợ 100% phí bảo hiểm - Hộ cận nghèo được hỗ trợ 80% phí bảo hiểm - Hộ không nghèo được hỗ trợ 60% phí bảo hiểm - Tổ chức sản xuất nông nghiệp được hỗ trợ 20% phí bảo hiểm IV. Vì sao bảo hiểm cây trồng, vật nuôi chưa phát triển? Không chỉ ở Việt Nam bảo hiểm cây trồng, vật nuôi khó phát triển mà trên thế giới, lĩnh vực này cũng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trên thị trường bảo hiểm. Sở dĩ như vậy, trước hết là do tính chất phức tạp của nó. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp bảo hiểm là những nhà kinh doanh hoạt động vì lợi nhuận. để có lợi nhuận, họ phải quản lý được rủi ro, nhưng đối với lĩnh vực nông nghiệp điều này rất khó vì cây trồng, vật nuôi ngoài việc bị tác động bởi thời tiết, kết quả đạt được còn phụ thuộc nhiều vào cách thức, quy trình nuôi trồng của người nông dân. Như vậy đối tượng, lĩnh vực phải quản lý của doanh nghiệp rất rộng và phức tạp, khó có đủ người có năng lực để theo dõi, giám sát, nhất là khi rủi ro xảy ra sẽ rất khó đánh giá chính xác mức độ rủi ro và phân định thiệt hại, trách nhiệm một cách chính xác và khách quan. Chưa kể, sự đánh giá đúng đắn còn phụ thuộc nhiều vào đạo đức, kinh nghiệm của đội ngũ làm bảo hiểm. Ở nước ta, điều này lại càng khó khăn hơn bởi người nông dân sản xuất nông nghiệp một cách manh mún, nhỏ lẻ (mỗi người chỉ được 1 – 2 sào Bắc bộ đất – khoảng từ 360m2 tới 720 m2), trong nhiều trường hợp họ không thực hiện quy trình canh tác đúng, hay các quy trình chăn nuôi khoa học (vệ sinh chuồng trại, chế độ ăn uống, tiêm phòng cho vật nuôi…), nên khả năng ứng 13 phó với các rủi ro kém. Trong khi đó, người nông dân lại gặp rất nhiều rủi ro vì thời tiết bất lợi, dịch bệnh, chi phí đầu vào không ổn định, giá cả hàng nông sản trên thị trường luôn lên xuống bấp bênh, thậm chí ngay cả khi được mùa vẫn bị "rớt giá", rất khó hạch toán được mức lời lỗ. Vì thế không chỉ người nông dân thấy sản lượng thu hoạch của họ không đáng là bao để mua bảo hiểm, mà ngay cả doanh nghiệp cũng nản lòng khi vấp phải những thử thách trên và bảo hiểm ở Việt Nam mới vẫn chủ yếu là bảo hiểm các dịch vụ liên quan tới nông nghiệp chứ chưa bảo hiểm đến tận cây trồng hay vật nuôi cụ thể. Khó khăn trong việc phát triển bảo hiểm cây trồng, vật nuôi còn do phía Nhà nước chưa có một khung pháp lý rõ ràng về vấn đề này. Theo nhiều chuyên gia, Việt Nam cần phát triển mạnh hơn nữa thị trường tái bảo hiểm, một thị trường rất cần thiết, đứng sau bảo hiểm nông nghiệp. Song vấn đề bảo hiểm cây trồng, vật nuôi của chúng ta chắc chắn sẽ còn nhiều gian nan. Vì vậy, thiết nghĩ để bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Việt Nam sớm hoàn thiện và phát triển bền vững, cần: - Một là, nâng cao nhận thức của người nông dân để họ thấy được sự cần thiết của việc bảo hiểm cây trồng, vật nuôi chính là sự giảm thiểu những thiệt hại cho họ khi gặp phải những rủi ro lớn, giúp họ sớm vực dậy, tái sản xuất. Tuy nhiên, không chỉ nâng cao nhận thức mà khi tham gia bảo hiểm chính người nông dân cũng phải chịu một phần chi phí đóng góp mới tạo động lực và ý thức tham gia bảo hiểm một cách hiệu quả. - Hai là, bảo hiểm cây trồng, vật nuôi cần trở thành chính sách của Nhà nước, có sự kết hợp bảo hiểm này với các chính sách nông thôn, miễn thuế doanh thu cho sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp,…; sự kết hợp giữa doanh nghiệp, Nhà nước, ngân hàng và tập trung vào các khâu trong sản xuất nông nghiệp (khuyến nông, áp dụng khoa học – kỹ thuật…) để giảm rủi ro trong sản xuất. - Ba là, dù áp dụng mô hình bảo hiểm nào, thì bảo hiểm cây trồng, vật nuôi vẫn rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước như vai trò một nhà bảo hiểm cuối cùng 14 để bảo vệ người nông dân trước mọi thảm họa. Tuy nhiên, do điều kiện hoàn cảnh kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn, sự hỗ trợ này có thể bằng cách dùng một phần từ nguồn thu ngân sách nhà nước để hỗ trợ người dân khi tham gia bảo hiểm và hỗ trợ doanh nghiệp triển khai bảo hiểm. - Bốn là, nhất thiết phải có sự tham gia của tất cả các ngành, các cấp và toàn xã hội, vì đây không phải là một nghiệp vụ kinh doanh đơn thuần, mà mang tính xã hội rất cao. Do đó, khi có những thiên tai, dịch bệnh sẽ không chỉ đơn thuần một ngành, một địa phương có liên quan tham gia mà nên huy động các tổ chức xã hội, Hội Chữ thập đỏ, hay cộng đồng cả nước đều chung tay đóng góp giúp đỡ để nông dân khắc phục nhanh chóng những hậu quả do rủi ro gây ra./. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan